Bản án số 09/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Kạn về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 09/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 09/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Kạn về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Kạn
Số hiệu: 09/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Giá Văn B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 09/2024/DS-ST
Ngày: 26/9/2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
QSD đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vi Thị Tuyết Mai
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Bùi Thị Kim Anh
Ông Vũ Hồng Khanh
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thúy Loan Thư ký Toàán nhân dân
tỉnh Bắc Kạn
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên tòa:
Lê Thị Dịu- Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân tỉnh
Bắc Kạn xét xử thẩm công khai vụ án thụ số:45/2023/DS-ST ngày 25
tháng 12 năm 2023 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 10/2024/QĐXXST-DS
ngày 12 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Giá Văn B, sinh năm 1965. Có mặt
Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn
* Bị đơn: Ông Sằm Văn Đ, sinh năm 1942. Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Anh Sằm Văn H, sinh năm
1988. Vắng mặt không lý do.
Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Hoàng Thị Thu
H1 Trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh B. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. UBND huyện C.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Đức Trung T Trưởng phòng
Tài nguyên và Môi trường huyện C, Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2
2. Phùng Thị T1 sinh năm 1944. Vắng mặt đơn đề nghị giải quyết
vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn Bản He, xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
3. Bà La Thị T2, sinh năm 1964. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Giá Văn B
Cùng địa chỉ: Thôn Bản He, xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
4. Ông Sằm Văn D, sinh năm 1971. Vắng mặt đơn đề nghị giải quyết
vắng mặt.
5. Hứa Thị L sinh năm 1978. Vắng mặt, đề nghị Tòa không triệu tập
tham gia tố tụng
Địa chỉ:Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
Tạm trú tại: Thôn P, xã Đ, huyện N, tỉnh Tuyên Quang.
6. Anh Sằm Văn D1, sinh năm 1998. Vắng mặt, đề nghị Tòa không triệu
tập tham gia tố tụng.
Địa chỉ:Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
* Người làm chứng:
1. Ông Giá Văn T3, sinh năm 1966. Vắng mặt
2. Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1971. Vắng mặt
3. Ông Giá Văn D2, sinh năm 1976. Vắng mặt
4. Ông Hoàng Văn N, sinh năm 1976. Vắng mặt
5. Ông Giá Văn T4, sinh năm 1964. Vắng mặt
Cùng địa chỉ: Thôn B, X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. 6. Ông Phù Văn P.
Vắng mặt
7. Ông Lầu Văn V (La Văn V1), sinh năm 1985. Vắng mặt
Cùng địa chỉ: Thôn P, xã X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 01/12/2023, các biên bản lấy lời khai tại
phiên tòa nguyên đơn ông Giá Văn B trình bày:
Gia đình ông thửa đất tại T, thôn Bản He, xã X, huyện C, tỉnh Bắc
Kạn. Đất nguồn gốc do gia đình ông khai phá để làm nương rẫy trồng lúa từ
năm 1988. Năm 1991 ông trồng cây Xoan với mục đích để giữ đất khai thác
dần, năm 2015-2016 ông trồng dặm thêm khoảng 300 cây Lát trên đất. Năm
2021 ông đã chặt hết cây X, L1 đtrồng khoảng 4.000 cây mỡ, hiện tại trên đất
cây mỡ của gia đình ông trồng. Năm 2016 khi gia đình ông trồng Lát trên đất
thì xảy ra tranh chấp với ông Sằm Văn Đ, ông Đ cho rằng thửa đất mà ông đang
canh tác sử dụng đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Sằm Văn Đ
(thửa số 229, tờ bản đồ số 1). Ông đã làm đơn đề nghị chính quyền địa phương
giải quyết tranh chấp, chính quyền địa phương đã giải quyết nhiều lần, qua nhiều
năm nhưng vẫn không giải quyết được, tại các buổi hòa giải của UBND X,
ông Đ đều thừa nhận chưa bao giờ canh tác trên đất tranh chấp tuy nhiên vì đất
3
đã được đo giao cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Đ nên ông Đ cho
rằng đó là đất của ông. Ông khẳng định mặc dù không làm thủ tục xin cấp quyền
sử dụng đất nhưng ông vẫn quản lý, sdụng, canh tác đất liên tục tnăm 1988
đến nay, năm 2021 ông trồng cây mỡ trên toàn bộ phần đất tranh chấp, gia đình
ông Đ cũng không có ý kiến gì.
Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Kạn đất tranh chấp tổng diện tích 11.319,0 m². Trong đó: 6.424,3m² nằm
trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho
ông Sằm Văn Đ; 296,6m² nằm trong thửa đất số 236, tờ bản đồ số 1 đã được cấp
Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Hoàng Văn P1 (ông Hoàng Văn N đang
quản sử dụng) 4.598,1m² nằm trong thửa đất số 263, tờ bản đồ số 1 đã
được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Hầu Văn S (ông La Văn V1 và ông
Phù Văn P đang quản lý sử dụng).
Đối với phần đất 296,6m² nằm trong thửa đất số 236, tờ bản đồ số 1
phần đất 4.598,1m² nằm trong thửa đất số 263, tờ bản đồ số 1. Ông không yêu
cầu Tòa án giải quyết.
Ông yêu cầu khởi kiện như sau:
- Yêu cầu Hủy một phần Quyết định số 1162/QĐ-UBND ngày 01/8/2008
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 217648 ngày 16/4/2009 của
UBND huyện C cấp cho ông hộ Sằm Văn Đ Phùng Thị T1 đối với phần
diện tích đất tranh chấp 6.424,3 m
2
nằm trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1.
- Yêu cầu được công nhận quyền sử dụng đất phần đất tranh chấp 6.424,3
m
2
cho vợ chồng ông Giá Văn B và bà La Thị T2.
Ông không nhất trí với toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn
Tại các biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn
ông Sằm Văn Đ trình bày:
Về nguồn gốc quá trình sử dụng đất: Đất tranh chấp nguồn gốc do
gia đình ông Giá Văn B khai phá làm nương từ năm 1980, làm được khoảng 3
năm thì bỏ hoang không ai làm, sau này ông B có trồng thêm một vài vụ sắn rồi
lại bỏ đất không. Đến năm 2015 ông B lại tiếp tục trồng lúa nương đến năm
2022 ông B đã trồng cây mỡ trên toàn bộ đất tranh chấp. Năm 2009 ông đã được
Nhà nước cấp Giấy chứng nhận QSD đất thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 trong
đó phần đất tranh chấp. Năm 2015 ông B trồng cây trên đất tranh chấp, ông
không cho trồng nên đã xảy ra tranh chấp, chính quyền địa phương đã giải quyết
tranh chấp nhiều lần nhưng không giải quyết được. Ông B yêu cầu ông phải trả
lại đất tranh chấp, ông không đồng ý mặc đất tranh chấp do ông B khai
phá, ông B canh tác sử dụng, ông chưa bao giờ sử dụng đất tranh chấp nhưng
Nhà nước đã đo giao và cấp quyền sử dụng cho ông. Nếu ông B muốn được s
dụng phần đất tranh chấp thì phải đổi một phần đất ở chỗ khác cho ông.
Thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 trong đó phần đất tranh chấp của
ông và vợ ông (bà Phùng Thị T1), các con, cháu không công sức đóng góp,
không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan đến đất tranh chấp.
Ông nhất trí với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án, nhất trí với
ý kiến của ông B về việc: Yêu cầu Tòa án giải quyết phần đất tranh chấp có diện
4
tích 6.424,3m
2
nằm trong thửa đất số 229, tbản đồ số 1 ông đã được cấp
Giấy chứng nhận QSD đất còn đối với phần đất 296,6m² nằm trong thửa đất số
236, tờ bản đồ số 1 phần đất 4.598,1m² nằm trong thửa đất số 263, tờ bản đồ
số 1, không yêu cầu Tòa án giải quyết
Ông không nhất trí với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Ông yêu cầu phản tố như sau:
Yêu cầu ông B phải cắt (chặt) và di dời toàn bộ số cây ông B đã trồng trên
diện tích đất tranh chấp 6.424,3m
2
để trả lại phần đất có diện tích 6.424,3m
2
nằm
trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 cho ông.
Ông không nhất trí sở hữu số cây trên phần đất diện tích 6.424,3m
2
nằm trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 do ông B trồng và cũng không nhất t
bồi thường giá trị cây trồng trên đất cho ông B. Do vậy ông không yêu cầu Tòa
án phải định giá tài sản.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- La Thị T2 trình bày: vợ của nguyên đơn ông Giá Văn B.
nhất trí với phần trình bày yêu cầu khởi kiện của ông B, không nhất trí với
yêu cầu phản tố của bị đơn, nhất trí với yêu cầu Tòa án công nhận QSD phần đất
tranh chấp cho ông B bà, không bổ sung thêm, không yêu cầu độc lập.
đề nghị được xét xử vắng mặt do đường xá đi lại khó khăn không thể mặt
theo yêu cầu của Tòa án.
- Phùng Thị T1 trình bày: vợ của bị đơn ông Sằm Văn Đ.
nhất trí với toàn bộ lời khai yêu cầu phản tố của bị đơn, không nhất trí với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không yêu cầu độc lập trong vụ án, đề
nghị Tòa án xét xử vắng mặt do tuổi đã cao, đi lại khó khăn.
- Ông Sằm Văn D trình bày: Ông là con trai chung hộ khẩu với ông Sằm
Văn Đ Phùng Thị T1. Ông biết thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 đã được
cấp Giấy chứng nhận QSD đất của ông Đ và biết thửa đất tranh chấp giữa ông B
ông Đ tuy nhiên ông khẳng định không quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến thửa đất trên của ông Đ từ năm 2021 ông Đ, T1 đã chuyển ra riêng,
không sống cùng nhà với vợ chồng ông nữa. Khi chuyển ra riêng, ông Đ,
T1 cũng đã chia đất cho vợ chồng ông và các con. Ông xác định kể từ trước năm
2009 cho đến nay hai vợ chồng ông không có công sức đóng góp gì đối với thửa
đất 229, tbản đồ số 1 đặc biệt phần đất tranh chấp. Đối với hai con của
ông tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận QSD đất còn nhỏ sau đó lớn lên đi học
nên cũng không công sức đóng góp đối với thửa đất trên. Đối với yêu cầu
phản tố của bị đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Hứa Thị L trình bày: Thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 đã được cấp
Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Sằm Văn Đ Phùng Thị T1, không
liên quan cũng không công sức đóng góp đối với thửa đất này. Ông Đ,
T1 đã ra riêng từ năm 2021, khi ra riêng đã chia đất cho vợ chồng
các con của bà. Do vậy xác định không có quyền nghĩa vụ đối với thửa
đất số 229, tờ bản đồ số 1. Đề nghị Tòa án không triệu tập tham gia tố tụng.
5
- Anh Sằm Văn D1 trình bày: Thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 đã được
cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Sằm Văn Đ và Phùng Thị T1, anh
không liên quan, thời điểm cấp Giấy chứng nhận QSD đất anh còn nhỏ, sau lớn
lên đi học nên không có công sức đóng góp gì đối với thửa đất. Ông Đ, bà T1 đã
ra riêng tnăm 2021, khi ra riêng đã chia đất cho gia đình anh. Do vậy anh
xác định không có quyền nghĩa vụ đối với thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1.
Đề nghị Tòa án không triệu tập tham gia tố tụng.
- UBND huyện C: Tại Văn bn s 1156/UBND-TNMT ngày 07/5/2024
ý kiến: Trình t, th tc cp Giy chng nhận QSD đất s AO 217648 ngày
16/4/2009 ca UBND huyn C cho h ông Sằm Văn Đ và bà Phùng Th T1 tha
đất s 229, t bản đồ s 1, din tích 31.902 m
2
ti thôn B, X, huyn C, tnh
Bc Kn cấp theo Điu 52/Luật Đất đai năm 2003, Điu 123/Ngh định s
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004. Khẳng đnh thm quyn, trình t, th tc
cp Giy chng nhận QSD đất ca ông Sằm Văn Đ là đúng quy định ca pháp
lut.
H cấp giy chng nhn quyn s dụng đất ca ông Sằm Văn Đ
gm có:
+ Đơn xin giao đất lâm nghip ngày 28/6/2004.
+ Trích lc hình th thửa đất lâm nghip ngày 05/7/2004.
+ Biên bản giao đất ngoài thực địa ngày 28/7/2004.
+ Đơn xin cấp giy chng nhn quyn s dụng đất ngày 26/11/2005.
+ Biên bn xét duyt ngày 02/12/2005 ca Hội đồng tư vấn xã X.
+ Thông báo s 167/TB-UB ngày 22/12/2005 ca UBND X v vic
công khai h sơ cấp giy chng nhn quyn s dụng đất lâm nghip.
+ Danh sách công khai các trưng hợp đủ điu kin cp giy chng nhn
quyn s dng đất ti xã X, huyn C, tnh Bc Kn (đề ngày 22/12/2005).
+ Biên bn v vic kết thúc công khai h sơ (đề ngày 06/01/2006).
+ T trình s 83/TTr-UBND ngày 04/7/2008 ca UBND xã X v việc đề
ngh giao đất và phê duyt cp giy chng nhn quyn s dng đất.
+ T trình s 19/TTr-TNMT ngày 01/8/2008 ca phòng Tài nguyên
Môi trường v việc giao đất phê duyt cp giy chng nhn quyn s dng
đất lâm nghip.
+ Quyết định 1162/QĐ-UBND ngày 01/8/2008 ca UBND huyn C v
vic phê duyệt giao đt cp giy chng nhn quyn s dụng đt lâm nghip
cho các h gia đình, cá nhân sử dụng đất ti xã X.
+ Giy chng nhn quyn s dụng đất s AO 217648 cp cho thửa đt
229, t bản đồ s 1 ca h ông Sằm Văn Đ và Phùng Th T1 địa ch thôn
Bn He, xã X, huyn C, tnh Bc Kn.
Giy chng nhận QSD đất s AO 217648 ngày 16/4/2009 ca UBND
huyn C cp cho h ông Sằm Văn Đ Phùng Th T1 thửa đất s 229, t
bản đồ s 1, ngoài ra không cp cho cá nhân nào khác.
Quá trình gii quyết tranh chp ti UBND cũng như ti Tòa án, ông
Sằm Văn Đ đều khẳng định chưa bao giờ canh tác, s dụng đt tranh chp. Tuy
nhiên căn c vào h đề ngh cp giy chng nhn quyn s dụng đất ca h
6
gia đình cá nhân đã được UBND xã X và các cơ quan chuyên môn thẩm định đủ
điu kiện theo Điều 135 Ngh định s 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004. Hin
nay Giy chng nhận QSD đất s AO 217648 ngày 16/4/2009 ca UBND huyn
C cp cho h ông Sằm Văn Đ Phùng Th T1 thửa đất s 229, t bản đồ s
1 chưa bị thu hi.
Những người làm chứng:
- Ông Hoàng Văn N trình bày: Ông hộ quản lý, sdụng thửa đất số
236 thửa đất giáp ranh với với thửa đất tranh chấp giữa ông B ông Đ, thửa
đất 236 đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho bông Hoàng Văn P1,
hiện nay ông đang quản lý sử dụng. Tại buổi xem xét thẩm định của Tòa án ông
và ông Giá Văn B đã được xác định ranh giới trên thực địa và đất của ông đã có
đường hào làm ranh giới. Ông xác định không tranh chấp đối với ông Giá
Văn B và ông Sằm Văn Đ trên thực địa và nhất trí với ý kiến của nguyên đơn
bị đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết phần diện tích 296,6m² nằm trong
thửa đất số 236, tờ bản đồ số 1. Nếu trong quá trình sử dụng đất phát sinh
tranh chấp với các hộ trên ông sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án
khác.
hộ giáp ranh nên về nguồn gốc quá trình sử dụng đất tranh chấp
ông đều biết đất do ông B khai phá và sử dụng liên tục. Việc ông B canh tác
trồng cây trên đất tất cả mọi người trong làng đều biết và đều không ai có ý kiến
gì, ông chưa thấy ông Định canh T5 sdụng đất tranh chấp bao giờ cũng
không thấy ai canh tác trên đất tranh chấp ngoài trừ ông B. Ông đnghị ông Đ
trả lại đất cho ông B.
- Ông Giá Văn D2, Giá Văn T3, Giá Văn T4, Hoàng Văn C trình bày:
Các ông đều hàng xóm, cùng thôn với cả hai bên nguyên đơn và bị đơn và
đều biết rõ nguồn gốc quá trình sử dụng đất tranh chấp giữa ông B ông Đ.
Đất tranh chấp có nguồn gốc là do ông B khai phá từ khoảng năm 1988 để trồng
lúa nương, sau khi trồng được khoảng 03 năm thì bỏ hoang, không làm nữa vì
đất ót. Khi ông B không trồng lúa nữa thì quản đất, hiện nay trên đất cây
mỡ, cây xoan của ông B. Ông B trồng cây trên đất thì tất cả mọi người trong
thôn đều biết nhưng không ai có ý kiến gì vì tất cả mọi người đều biết đấy đất
của ông Giá Văn B. Các ông đều khẳng định không thấy ông Sằm Văn Định
canh T5 trồng cây trên đất tranh chấp bao giờ. Các ông đều đề nghị giải quyết
tranh chấp theo quy định của pháp luật.
- Ông Phù Văn P (Hừ Văn P2) trình bày: Ông tên Phù Văn P hộ
đất giáp ranh với thửa đất tranh chấp giữa ông B và ông Đ nhưng tên ông là Phù
Văn P chứ không phải tên Hừ Văn P2 hay Hừ A P3, do cán bộ địa chính nhầm
họ của ông nên mới ghi trong Biên bản xem xét thẩm định Hừ Văn P2. Ông
xác nhận Phù Văn P hay Hừ Văn P2, Hừ A một người. Giữa phần đất của ông
đất của ông B không tranh chấp, ông gia đình ông Đ cũng không
tranh chấp, ông đã đào hào để làm ranh giới trên thực địa. Tại buổi xem xét
thẩm định của Tòa án ông và ông Giá Văn B, ông Sằm Văn Đ đã được xác định
ranh giới trên thực địa và thống nhất không có tranh chấp, ông nhất trí với ý kiến
của nguyên đơn bị đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết phần diện tích
7
4.598,1m² nằm trong thửa đất số 263 hiện nay ông đang quản lý, sử dụng. Nếu
trong quá trình sử dụng đất sau này phát sinh tranh chấp với các hộ trên ông
sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác.
Về quá trình sử dụng đất tranh chấp ông chỉ thấy gia đình ông B canh c
trồng cây trên đất, ông chưa từng thấy gia đình ông Định canh T5, sử dụng
thửa đất tranh chấp bao giờ. Lúc ông đào hào cũng không thấy gia đình ông Đ
ý kiến . Việc ông B trồng cây trên đất thì tất cả mọi người trong thôn đều
biết nhưng không ai ý kiến gì tất cả mọi người đều biết đấy đất của ông
Giá Văn B. Theo ông đất tranh chấp là của ông B, ông B khai phá và sử dụng do
vậy đề nghị ông Đ trả lại đất cho ông B.
- Ông La Văn V1 (Lầu Văn V) trình bày: Ông tên La Văn V1 hộ
đất giáp ranh với thửa đất tranh chấp giữa ông B và ông Đ nhưng ông tên La
Văn V1 chứ không phải tên Lầu Văn V như trong Biên bản xem xét thẩm định
của Tòa án, Ông xác nhận La Văn V1Lầu Văn V là một người.
Ông được quản lý, sử dụng một phần đất giáp ranh với đất ông P2, ông N
ông B tuy nhiên không biết việc phần đất của ông nằm trong Giấy chứng
nhận QSD đất của ông Hầu Văn S, hiện tại ông Hầu Văn S đã chết nhưng khẳng
định ông không có tranh chấp với các hộ giáp ranh kể cả tranh chấp với ông Giá
Văn B ông Sằm Văn Đ. Thửa đất ông đang quản lý, sử dụng cũng đã
đường ranh giới với phần đất của ông B bằng một đường rãnh, phần đất của ông
đang trồng cây keo sắp đến tuổi khai thác. Việc nguyên đơn và bị đơn không
yêu cầu Tòa án giải quyết phần diện tích mà ông đang quản lý, sử dụng ông nhất
trí. Nếu trong qtrình sdụng đất sau này phát sinh tranh chấp với các hộ
trên ông sẽ yêu cầu giải quyết bằng một vụ án khác.
Ông quản lý, sử dụng phần đất của ông hiện nay thì chỉ thấy gia đình
ông B canh tác, sử dụng thửa đất bên cạnh. Ông B đã trồng cây trên toàn bộ
thửa đất này, ông chưa từng thấy gia đình ông Định canh T5, sử dụng thửa đất
tranh chấp bao giờ. Việc ông B trồng cây trên đất thì tất cả mọi người trong thôn
đều biết nhưng không ai ý kiến tất cả mọi người đều biết đấy là đất của
ông Giá Văn B. Đối với việc nhà ông Đ được cấp Giấy chứng nhận QSD đất đối
với phần đất đang tranh chấp không đúng, đề nghị giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Tại Biên bản xác minh ngày 02/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Kạn, Công an X cung cấp: Thời điểm m 2009 hộ gia đình ông Sằm Văn Đ
gồm:
1. Ông Sằm Văn D, sinh năm 1971- Chủ hộ
2. Bà Hứa Thị L, sinh năm 1978 - Vợ
3. Anh Sằm Văn D1, sinh năm 1998- Con trai
4. Chị Sằm Thị L2, sinh năm 2001- con gái
5. Ông Sằm Văn Đ, sinh năm 1942 - Bố
6. Bà Phùng Thị T1, sinh năm 1944 - Mẹ
Hiện nay chị Sằm Thị L2 đã chuyển khẩu đi nơi khác
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ xác định:
8
Phần đất tranh chấp thuộc thôn Bản He, X, huyện C, tỉnh Bắc Kạn
tứ cận:
+ Phía Đông giáp đất do UBND xã quản lý
+ Phía Tây giáp thửa đất số 236, tờ bản đồ s1 đã được cấp Giấy chứng
nhận QSD đất cho ông Hoàng Văn P1 (bố ông Hoàng Văn N, hiện nay thửa đất
236 ông N đang quản lý, sử dụng) ranh giới hào do ông N đào giáp với
thửa đất 263, tờ bản đồ số 1 đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông
Hầu Văn S, hiện nay thửa đất 263 do ông Lầu Văn V ông Hừ Văn P2 đang
quản lý, sử dụng. Phần đất của ông Lầu Văn V đã trồng cây Keo, phần đất của
ông Hừ Văn P2 có các cây tự nhiên, ranh giới phần đất tranh chấp và đất ông P2
có đường hào do ông P2 đào dài khoảng 15m.
+ Phía Nam giáp thửa đất 263, tờ bản đồ số 1 đã được cấp Giấy chứng
nhận QSD đất cho ông Hầu Văn S, hiện nay phần đất này ông Hừ Văn P2 đang
quản lý.
+ Phía Bắc giáp thửa đất số 229, tờ bản đồ s1 đã được cấp Giấy chứng
nhận QSD đất cho ông Sằm Văn Đ. Trên phần đất ông Đ quản lý, sử dụng
các cây mỡ cao 5-6m, đường kính 25-30cm.
Diện tích:
Đối chiếu với bản đồ địa chính đo đạc năm 2004 cấp Giấy chứng nhận
QSD đất năm 2009 (tờ bản đsố 1) xác định: Tổng diện tích đất tranh chấp là:
11.319,0m
2
. Trong đó: 6.424,3m
2
nằm trong thửa đất số 229 đã được cấp Giấy
chứng nhận QSD đất cho ông Sằm Văn Đ; 296,6m
2
nằm trong thửa đất số 236
đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Hoàng Văn P1 hiện nay ông
Hoàng Văn N đang quản lý, sử dụng 4.598,1m
2
nằm trong thửa số 263 đã
được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Hầu Văn S hiện nay ông Lầu Văn
V và ông Hừ Văn P2 đang quản lý, sử dụng.
Hiện trạng:Trên đất tranh chấp toàn bộ cây mỡ do nguyên đơn trồng,
cây mỡ cao khoảng từ 1,6m 2m, mật độ 1,6m x1,6m/cây. Ngoài ra trên đất
lác đác cây xoan, cây to nhất có đường kính 20cm, cây nhỏ đường kính 7cm.
Không kiểm đếm số lượng cây trên đất do các đương sự không yêu cầu
Các đương sự các thành phần tham gia xem xét thẩm định tại chỗ:
Nhất trí với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn: Giữ nguyên phần trình bày và yêu cầu khởi kiện.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn ý kiến: Bị đơn,
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần 2
nhưng vẫn vắng mặt, do vậy được coi từ bỏ yêu cầu phản tố. Đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử Bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn với do: Việc cấp Giấy chứng nhận QSD đất thửa đất
229, tờ bản đồ số 1 cho hộ ông Sằm Văn Đ đúng trình tự, thủ tục, đúng quy
định của pháp luật, đúng đối tượng sử dụng đất thời điểm năm 2009 ông B
không phải người sử dụng đất, không các giấy tờ theo quy định tại Điều
100/Luật Đất đai năm 2003, việc khai pđất năm 1988 không phải căn cứ
phát sinh quyền sử dụng đất, ông B không đề nghị cấp giấy chứng nhận, thời
9
điểm cấp giấy chứng nhận QSD đất thửa đất 229, tờ bản đồ số 1 cho hộ ông Sằm
Văn Đ không có tranh chấp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn phát biểu quan điểm:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Xác định đúng thẩm quyền, quan
hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng người tham gia tố tụng. Quá trình giải
quyết vụ án nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chấp hành đúng
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn chấp hành không đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền
nghĩa vụ của bị đơn.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử Chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn: Hủy một phần Quyết định số 1162/QĐ-UBND ngày
01/8/2008 về việc phê duyệt giao đất và cấp Giấy chứng nhận QSD đất lâm
nghiệp cho các hộ gia đình, nhân sử dụng đất tại X Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AO 217648 ngày 16/4/2009 của UBND huyện C cấp
cho ông Sằm Văn Đ Phùng Thị T1 với do bị đơn không phải người
sử dụng đất, trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSD đất không đúng quy
định; Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn bị đơn, người đại
diện theo ủy quyền của bđơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn
vắng mặt, do vậy được coi là từ bỏ yêu cầu phản tố.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định.
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1]Về thẩm quyền giải quyết quan hệ pháp luật tranh chấp:
Nguyên đơn có yêu cầu được sử dụng phần đất tranh chấp, do vậy xác định là vụ
án tranh chấp quyền sử dụng đất. Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn yêu cầu
Hủy một phần Quyết định số 1162/QĐ-UBND ngày 01/8/2008 hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 217648 ngày 16/4/2009 của UBND huyện
C cấp cho hộ ông Sằm Văn Đ Phùng Thị T1 đối với phần diện tích tranh
chấp 6.424,3 m
2
nằm trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1. Vic Tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Kạn thụ lý, giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật tại
Điều 26, Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 32 Luật tố tụng Hành chính.
[1.2] Về xác định ch tham gia tố tụng: Theo Biên bản xác minh
ngày 02 tháng 8 năm 2024 tại Công an X: Năm 2009 thời điểm cấp Giấy
chứng nhận QSD đất thửa đất 229, tờ bản đsố 1, hộ gia đình ông Đ gồm ông
Sằm Văn D chủ hộ, vợ Hứa Thị L, con trai Sằm Văn D1 sinh năm 1998,
con gái Sằm Thị L2 sinh năm 2001, bố Sằm Văn Đ, mẹ Phùng Thị T1, ông B
yêu cầu được cấp QSD đất cho ông B, T2. Do vậy việc Tòa án xác định bà
T1, T2, ông D, L anh D1 người quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong
vụ án là căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Đối với chị Sằm Thị L2 sinh
năm 2001 thời điểm cấp Giấy chứng nhận QSD đất thửa đất 229, tờ bản đồ số 1
chưa đủ 18 tuổi, hiện nay chị L2 đã tách khẩu chuyển đi nơi khác sinh sống, ông
10
Đ, bà T1 cũng xác định chị L2 không có công sức đóng góp, không có quyền và
nghĩa gì liên quan đến đất tranh chấp đề nghị Tòa án không triệu tập tham gia tố
tụng, do vậy Tòa án không triệu tập chị L2 tham gia tố tụng là đúng pháp luật.
[1.3] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa
xét xử: Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn, đại diện theo ủy quyền của bị đơn không
do, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: UBND huyện C, Phùng Thị
T1, bà Hứa Thị L, anh Sằm Văn D1, ông Sằm Văn D đơn đề nghị xét xử
vắng mặt. La Thị T2 vắng mặt nhưng đại diện theo ủy quyền của T2 là
ông B mặt. Những người làm chứng đều vắng mặt tuy nhiên những người
làm chứng trên đều đã có lời khai trực tiếp với Tòa án. Do vậy việc Tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Kạn giải quyết xét xử vắng mặt những người trên phù hợp
quy định của pháp luật tại Điều 227, Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.4] Về yêu cầu phản tố của b đơn: Bị đơn, người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vắng mặt, do vậy
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 227/Bộ luật tố tụng dân sự bị coi là từ bỏ
yêu cầu phản tố. Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của
bị đơn, bị đơn quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố trên theo quy định
của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1]. Xác định vị trí đất tranh chấp:
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện:
Tổng diện tích đất tranh chấp là: 11.319,0m
2
. Trong đó: 6.424,3m
2
nằm
trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho
ông Sằm Văn Đ; 296,6m
2
nằm trong thửa đất s236 đã được cấp Giấy chứng
nhận QSD đất cho ông Hoàng Văn P1 hiện nay ông Hoàng Văn N đang quản lý,
sử dụng; 4.598,1m
2
nằm trong thửa số 263 đã được cấp Giấy chứng nhận QSD
đất cho ông Hầu Văn S hiện nay ông La Văn V1 ông Phù Văn P đang quản
lý, sử dụng.
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn, bị đơn đều không yêu cầu Tòa án
giải quyết đối với phần diện tích đất 296,6m
2
nằm trong thửa đất số 236, tờ bản
đồ số 1 và 4.598,1m
2
nằm trong thửa số 263, tờ bản đồ số 1 nên Hội đồng xét xử
không xem xét.
Do vậy phần đất tranh chấp đương syêu cầu Tòa án giải quyết phần
đất diện tích 6.424,3m
2
nằm trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 đã được
cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông Sằm Văn Đ;
[2.2]. Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất
Nguyên đơn khai: Đất tranh chấp do nguyên đơn khai phá để làm nương
rẫy trồng lúa từ năm 1988, đến năm 1991 nguyên đơn trồng cây Xoan với mục
đích để giữ đất khai thác dần, năm 2015-2016 nguyên đơn dặm thêm khoảng
300 cây Lát trên đất, năm 2021 nguyên đơn chặt hết cây X, cây Lát để trồng
khoảng 4.000 cây mỡ, hiện tại trên đất có cây mỡ do gia đình nguyên đơn trồng.
Mặc nguyên đơn không làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận QSD đối với
phần đất tranh chấp nhưng nguyên đơn vẫn canh tác, sử dụng và quản lý đất liên
tục từ năm 1988 đến nay, bị đơn chưa từng canh tác, quản lý, sử dụng đất tranh
11
chấp, toàn bộ cây mỡ trồng trên đất tranh chấp là tài sản của nguyên đơn.
Bị đơn thừa nhận: Đất có nguồn gốc do gia đình nguyên đơn khai phá làm
nương từ năm 1980 nhưng nguyên đơn chỉ làm được khoảng 03 năm thì không
làm nữa, đất bỏ không, sau này thỉnh thoảng nguyên đơn trồng một vài vụ
sắn, sau đó lại bỏ hoang đến năm 2015 nguyên đơn mới tiếp tục trồng lúa
nương, năm 2022 nguyên đơn trồng cây mỡ trên đất tranh chấp và trồng xen lúa
nương. Bị đơn chưa bao giờ canh tác, sử dụng đất tranh chấp nên không tài
sản, cây trồng trên đất tranh chấp. Tất cả cây trồng trên đất tranh chấp đều là của
nguyên đơn nhưng năm 2009 nguyên đơn không đề nghị cấp Giấy chứng
nhận QSD đất nên bị đơn đã đề nghị được đo giao đã được cấp Giấy chứng
nhận QSD đất.
Hội đồng xét xử thấy:
Lời khai của nguyên đơn phù hợp với lời khai của bị đơn phù hợp với
lời khai của những người làm chứng các hộ đất giáp ranh với đất tranh
chấp như ông Hoàng Văn N, ông Phù Văn P, ông La Văn V1 đất tranh chấp
nguồn gốc do gia đình nguyên đơn khai phá, quá trình sử dụng đất do gia
đình nguyên đơn canh tác, sử dụng, bị đơn chưa bao giờ sử dụng đất tranh chấp.
Như vậy đủ căn cứ xác định: Đất tranh chấp nguồn gốc do nguyên
đơn khai phá, từ khi khai phá đến nay nguyên đơn canh tác, sử dụng quản
liên tục, ổn định. Bị đơn chưa bao giờ canh tác, quản lý, sử dụng đất tranh chấp,
không tài sản, cây trồng trên đất tranh chấp. Tất cả cây trồng trên đất tranh
chấp là của nguyên đơn. Do vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vviệc yêu
cầu được công nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 6.424,3m
2
nằm trong
thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 cho ông Giá Văn B và bà La Thị T2 có căn cứ,
phù hợp với quy định của pháp luật. Cần được chấp nhận.
[2.3]. Xem xét việc cấp Giấy chứng nhận QSD đất thửa đất số 229, tờ
bản đồ số 1
Hội đồng xét xử thấy:
Từ những phân tích nhận định trên khẳng định: Phần đất tranh chấp có
diện tích diện tích 6.424,3m
2
nằm trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 có nguồn
gốc do nguyên đơn khai phá, từ khi khai phá đến nay nguyên đơn canh tác, s
dụng quản liên tục, ổn định. Bị đơn chưa bao giờ canh tác, quản lý, sử
dụng đất tranh chấp, không tài sản, cây trồng trên đất tranh chấp. Tất cả cây
trồng trên đất tranh chấp của nguyên đơn nhưng UBND huyện C lại cấp Giấy
chứng nhận QSD đất cho bị đơn là không đúng quy định của pháp luật.
Về trình tự thủ tục`cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa
đất thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 thể hiện: Bị đơn thừa nhận không được làm
thủ tục xin đo giao đất nhờ con trai ông Sằm Văn D làm hộ. Tuy nhiên
ông Sằm Văn D khai không được làm thủ tục xin đo giao đất hộ ông Đ, chữ viết,
chữ ký Sằm Văn D trong đơn xin giao đất và biên bản giao đất ngoài thực địa
trong hồ cấp Giấy chứng nhận QSD đất của ông Sằm Văn Đ không phải
chữ viết, chữ ký của ông.
Với những chứng cứ đã phân tích ở trên, có căn cứ khẳng định trình tự thủ
tục`cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 229, tờ bản đồ số
12
1 cho hộ ông Sằm Văn Đ bà Phùng Thị T1 được thực hiện đầy đủ các bước
theo quy định của pháp luật, tuy nhiên quá trình thực hiện không đúng với thực
tế, việc thẩm tra hồ sơ, kiểm tra thực địa không đúng quy định, không mời các
hộ đất đề nghị cấp giấy chứng nhận để xác định mốc giới thửa đất dẫn đến
việc cấp cả diện tích đất nguyên đơn đang canh tác sử dụng cho bị đơn, bản thân
bị đơn cũng thừa nhận điều này tại các buổi hòa giải tại UBND xã, do vậy đã
gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì ".
Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án quyền hủy quyết định biệt trái pháp
luật của quan, tổ chức, người thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết…"
Đối chiếu với quy định của pháp luật nêu trên, Hội đồng xét xử thấy: Yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc Huỷ một phần Quyết định số 1162/QĐ-
UBND ngày 01/8/2008 Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO
217648 ngày 16/4/2009 của UBND huyện C cấp cho hộ ông Sằm Văn Đ
Phùng Thị T1 đối với phần diện tích đất tranh chấp 6.424,3 m
2
nằm trong thửa
đất số 229, tờ bản đồ số 1 là có căn cứ. Cần chấp nhận.
Xét toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy có căn cứ, do vậy Hội
đồng xét xử chấp nhận.
Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn thấy có
một phần căn cứ, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
[3] Án phí và chi phí tố tụng:
[3.1] Về án phí:
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Hội đồng xét x chấp
nhận nên theo quy định tại Điều 147/Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản và sử dụng án phí lệ phí Tòa
án, nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự thẩm, hoàn trả lại cho nguyên
đơn tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp, bị đơn phải chịu án phí dân sự
thẩm tuy nhiên bị đơn là người cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số vùng
điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên theo quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm .
[3.2] Về chi phí tố tụng:
Nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng: Điều 101, Điều 106, 166, 203 Luật Đất đai năm 2013
Căn cứ: Điều 26; Điều 34; Điều 147; Điều 157; Điều 227; Điều 228; 229;
khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 32/Luậttố tụng hành chính;
Điều 26/Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
13
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Giá Văn B
như sau:
- Ông Giá Văn B La Thị T2 quyền sử dụng phần đất tranh chấp
diện tích 6.424,3 m
2
được giới hạn bởi các điểm: 1-2-3-4-5-6-7-8-9-21-20-1
nằm trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1. Địa chỉ thửa đất: Bản He, xã X,
huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
(Có trích đo bản đồ địa chính số 70/2024 kèm theo).
Bản án hiệu lực pháp luật ông Giá Văn B bà La Thị T2 trách
nhiệm liên hệ với các cơ quan thẩm quyền để cấp Giấy chứng nhận QSD đất
theo quy định của pháp luật đất đai.
- Hủy một phần Quyết định số 1162/QĐ-UBND ngày 01/8/2008 về việc
phê duyệt giao đất và cấp Giấy chứng nhận QSD đất lâm nghiệp cho các hộ gia
đình, nhân sử dụng đất tại X Hủy Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
số AO 217648 ngày 16/4/2009 của UBND huyện C cấp cho hộ ông Sằm Văn Đ
Phùng Thị T1 đối với phần diện tích đất tranh chấp 6.424,3 m
2
nằm trong
thửa đất số 229, tờ bản đồ s1. Địa chỉ thửa đất: Bản He, Xuân Lạc, huyện
Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn ông Sằm Văn Đ
về việc yêu cầu ông B phải cắt (chặt) di dời toàn bộ số cây ông B đã trồng
trên diện tích đất tranh chấp 6.424,3m
2
để trả lại phần đất có diện tích 6.424,3m
2
nằm trong thửa đất số 229, tờ bản đồ số 1 cho ông Đ.
Bị đơn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại đối với yêu cầu
phản tố trên theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí:
- Ông Giá Văn B không phải chịu án phí dân sự thẩm, hoàn trả lại cho
nguyên đơn tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm nguyên đơn đã nộp
300.000đ theo Biên lai thu số 0000014 ngày 25/12/2023 của Cục Thi hành dân
sự tỉnh B
Ông Sằm Văn Đ được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Giá Văn B tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem
xét thẩm định tại chỗ với số tiền là 9.200.000đ (Chín triệu hai trăm nghìn đồng)
được trừ vào số tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ ông B đã nộp tại
Tòa án. Xác nhận ông B đã nộp đủ tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân s quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại cá điều 6, 7
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
14
Án xử công khai thẩm mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho biết các đương sự có mặt có quyền kháng
cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt quyền
kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản
án được niêm yết hợp lệ./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bắc Kạn (02);
- Cục THADS tỉnh Bắc Kạn
(Khi BA có hiệu lực pháp luật);
- TAND cấp cao tại Hà Nội
- Các đương sự;
- Lưu HCTP (03)
- Lưu HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Vi Thị Tuyết Mai
Tải về
Bản án số 09/2024/DS-ST Bản án số 09/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 09/2024/DS-ST Bản án số 09/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất