Bản án số 07/2025/HNGĐ-ST ngày 17/01/2025 của TAND TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 07/2025/HNGĐ-ST ngày 17/01/2025 của TAND TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Phủ Lý (TAND tỉnh Hà Nam) |
Số hiệu: | 07/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Anh Nguyễn Huy K xin ly hôn chị Đỗ Thị M |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ PHỦ LÝ
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 07/2025/HNGĐ-ST
Ngày 17-01-2025.
V/v: “Kiện xin ly hôn, nuôi
con chung”.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lê Thanh Sơn.
Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Khoát và bà Nguyễn Thị Chương.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Chính - Thẩm tra viên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam tham
gia phiên toà: Ông Trương Hoàng Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 01 năm 2025, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 55/2024/TLST-HNGĐ ngày
31/7/2024 về tranh chấp: “Kiện xin ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 43/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/11/2024, Quyết định hoãn phiên
tòa số: 37/2024/QĐ-TA ngày 27/12/2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Anh Nguyễn Huy K, sinh năm 1990;
* Bị đơn: Chị Đỗ Thị M, sinh năm 1990;
Cùng ở địa chỉ: Tổ dân phố H, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Phiên tòa vắng mặt chị Đỗ Thị M lần thứ hai. Anh Nguyễn Huy K có đơn xin
xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn
Huy K đều khai, trình bày: Anh và chị Đỗ Thị M kết hôn với nhau trên cơ sở tự
nguyện, có thời gian tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 28/05/2012 tại UBND xã Lam
Hạ (nay là phường Lam Hạ), thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn, vợ
chồng chung sống thời gian dài hạnh phúc, thường xuyên quan tâm, chia sẻ mọi vấn
đề trong cuộc sống với nhau. Tuy nhiên, từ đầu năm 2024 đến nay anh và chị M bắt
đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cả
hai không còn hòa hợp nhau như trước về tính cách, vợ chồng không tìm được tiếng
nói chung, cuộc sống thường hay xảy ra cãi vã, không có hạnh phúc. Mặt khác, do
đặc thù công việc anh thường xuyên phải đi làm ăn xa vắng nhà, vợ chồng xa cách
lâu nên chị M đã không làm chủ được bản thân, có quan hệ ngoại tình với người khác
2
làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng. Mặc dù vợ chồng đã được
gia đình hai bên nhiều lần khuyên giải, các bên cũng đã ngồi lại nói chuyện với nhau
để giải quyết mâu thuẫn nhưng không đạt được kết quả vì anh luôn mặc cảm nặng nề
do cảm thấy mình bị lừa dối. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không
thể hàn gắn, hôn nhân chỉ còn tồn tại về mặt pháp lý nên đề nghị Tòa án giải quyết
cho anh được ly hôn với chị Mến.
Về con chung: Anh Nguyễn Huy K trình bày, xác nhận vợ chồng có hai người
con chung là cháu Nguyễn Huy T (con trai), sinh ngày 11/10/2012 và cháu Nguyễn
Huy N (con trai), sinh ngày 28/7/2014. Hiện tại cả hai cháu đều đang sống với anh.
Khi xin ly hôn, anh K có nguyện vọng xin được nhận nuôi cả hai cháu, không yêu
cầu chị M phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Về con riêng, con nuôi: Anh Nguyễn Huy K trình bày, xác định vợ chồng
không có con riêng, con nuôi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và các nghĩa vụ chung khác của vợ
chồng: Anh Nguyễn Huy K trình bày, xác định vợ chồng không có tài sản chung, tài
sản riêng, không có công nợ gì với ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Quá trình giải quyết vụ án, chị Đỗ Thị M luôn vắng mặt, không chấp hành
yêu cầu triệu tập của Tòa án để giải quyết việc anh Nguyễn Huy K xin ly hôn. Xác
minh tại nơi cư trú xác định chị M có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố H, phường
L, thành phố Phủ Lý và hiện tại vẫn đang chung sống cùng với gia đình nhà chồng.
Do đó, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng cho chị M thông qua
gia đình anh K và đại diện chính quyền tại địa phương nơi chị M cư trú theo quy
định của pháp luật.
* Tại bản khai ngày 21/11/2024, các cháu Nguyễn Huy T và Nguyễn Huy N
là con chung của vợ chồng đều trình bày: Hiện tại các cháu đang ở cùng mẹ và ông
bà nội tại tổ dân phố tổ dân phố H, phường L, thành phố Phủ Lý và đều đang đi học.
Trường hợp Tòa án giải quyết cho bố mẹ các cháu ly hôn, nguyện vọng của các cháu
đều xin được ở với mẹ.
* Tại biên bản làm việc ngày 07/11/2024, đại diện gia đình anh Nguyễn Huy
K ông Nguyễn Huy C (bố đẻ anh K) xác nhận: Anh K, chị M và các con của anh chị
đang chung sống cùng với gia đình ông tại tổ dân phố H, phường L, thành phố Phủ
Lý. Chị M là lao động tự do nên sáng đi làm, tối mới về nhà. Ông chứng kiến từ đầu
năm 2024 đến nay vợ chồng anh chị có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị M
thiếu thốn tình cảm khi vợ chồng xa cách không làm chủ được bản thân dẫn đến vợ
chồng nghi ngờ lẫn nhau, xô sát cãi chửi nhau. Ông đã khuyên giải anh K cho chị M
cơ hội để vợ chồng quay về đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng anh K không
chấp nhận. Ông mong muốn anh chị hóa giải mâu thuẫn, cùng nhau chung sống để
nuôi dạy con cái vì không muốn các cháu thiếu vắng tình cảm của cha, mẹ. Trường
hợp anh K vẫn quyết tâm xin ly hôn thì ông đề nghị giải quyết theo quy định của
pháp luật.
* Quan điểm của Ủy ban nhân dân phường L, thành phố Phủ Lý xác nhận:
Anh Nguyễn Huy K và chị Đỗ Thị M có đăng ký kết hôn tại địa phương ngày
28/05/2012, từ sau khi kết hôn đến nay vợ chồng anh chị chung sống cùng với gia
đình anh K tại tổ dân phố tổ dân phố H, phường L, thành phố Phủ Lý. Vợ chồng có
3
hai người con chung như anh K đã trình bày tại Tòa án là đúng. Nay anh K có yêu
cầu xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn và giải quyết vấn
đề con chung của anh chị theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho các bên.
* Tại phiên toà:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng
dân sự theo quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành các quy định về quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật do đã được tống đạt hợp lệ văn
bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt không có lý do trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa sơ thẩm mở lần thứ hai.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích các tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án, xem xét ý kiến, nguyện vọng và đánh giá tình trạng hôn nhân của các bên
đương sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đề nghị Hội đồng xét
xử áp dụng các điều 28, 35, 39, 68, 144, 147, 227, 228 và 238 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; các điều 51, 54, 56, 57, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Nguyễn Huy K.
- Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa anh Nguyễn Huy K và chị Đỗ Thị M.
- Về con chung: Giao các cháu Nguyễn Huy T và Nguyễn Huy N là con chung
của vợ chồng cho anh Nguyễn Huy K và chị Đỗ Thị M mỗi người trực tiếp quản lý,
nuôi dưỡng một người con chung. Các bên không phải thực hiện việc cấp dưỡng
nuôi con chung cho nhau.
- Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, nghe Kiểm sát viên trình bày ý
kiến phát biểu, Tòa án nhận định:
[1] Về thẩm quyền, thủ tục tố tụng:
1.1. Bị đơn chị Đỗ Thị M có hộ khẩu thường trú tại phường L, thành phố Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án: “Kiện xin ly hôn và nuôi
con chung” giữa anh Nguyễn Huy K và chị Đỗ Thị M thuộc thẩm quyền giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
1.2. Về xét xử vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa mở lần thứ hai, chị Đỗ Thị
M vắng mặt không có lý do và không có người đại diện tham gia phiên tòa; nguyên
đơn anh Nguyễn Huy K vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ
4
khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa
án vẫn xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Cuộc hôn nhân giữa anh Nguyễn Huy K và chị Đỗ
Thị M trên cơ sở các bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 28/05/2012 tại UBND
xã Lam Hạ (nay là phường Lam Hạ), thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam do đó hoàn toàn
hợp pháp, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Huy K, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Sau kết hôn, anh K và chị M đã có thời gian dài chung sống hòa thuận, hạnh phúc,
đến đầu năm 2024 vợ chồng mới phát sinh mâu thuẫn. Về nguyên nhân dẫn đến mâu
thuẫn theo anh K xác định là do cách sống, quan điểm sống của hai bên không còn
phù hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, cuộc sống không còn hạnh
phúc, hay xảy ra xô sát. Một nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn khác được anh K xác
định là do chị M đã không làm chủ được bản thân, không còn chung thủy, có quan hệ
ngoại tình với người khác. Xét thấy, mặc dù anh K đưa ra nguyên nhân mâu thuẫn
vợ chồng như đã nêu ở trên khi khởi kiện xin ly hôn nhưng trên thực tế cho thấy tuy
các bên vẫn chung sống trong cùng một nhà nhưng không còn quan tâm đến cuộc
sống của nhau, khi vợ chồng phát sinh mâu thuẫn anh K đã được gia đình khuyên
giải để vợ chồng quay về chung sống hòa thuận, cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng
không đạt kết quả. Khi anh K khởi kiện xin ly hôn, chị M biết sự việc đó nhưng bỏ
mặc, không có quan điểm, chính kiến để tự bảo vệ mình và hạnh phúc của gia đình
chứng tỏ chị M không còn quan tâm, níu kéo đến hạnh phúc gia đình. Như vậy, tình
trạng hôn nhân của vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích cuộc hôn nhân của
anh chị đã không đạt được nên cần xem xét, chấp nhận giải quyết cho anh K được
ly hôn với chị M là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật tại Điều 56 của
Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 người con chung là cháu Nguyễn
Huy T (con trai), sinh ngày 11/10/2012 và cháu Nguyễn Huy N (con trai), sinh ngày
28/7/2014. Hiện tại cả hai cháu đều đang sống với anh chị. Nay giải quyết cho anh
chị ly hôn, xét điều kiện, hoàn cảnh của các bên về việc nuôi dưỡng, chăm sóc con
chung và nguyện vọng của các cháu thấy rằng cả anh K và chị M hiện đều đang
trong độ tuổi lao động, có công ăn việc làm ổn định, đảm bảo đủ điều kiện để chăm
sóc, nuôi dưỡng con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt, tạo môi trường
ổn định không bị xáo trộn trong cuộc sống của con chung, phù hợp với tâm sinh lý
các cháu và điều kiện, hoàn cảnh của các bên xét thấy cần giao cháu Nguyễn Huy T
cho anh K, giao cháu Nguyễn Huy N cho chị Mến trực tiếp quản lý, nuôi dưỡng,
giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành tự lập được hoặc đến khi có sự thay đổi
khác, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là phù hợp với thực
tế và quy định của pháp luật tại Điều 81của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con nuôi, con riêng: Anh K xác nhận các bên không có con riêng, con
nuôi và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
[6] Về tài sản, công nợ chung: Đương sự không ai có yêu cầu Tòa án giải quyết
về tài sản và công nợ chung nên không đặt ra xem xét.
[7] Về án phí: Anh K phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự thực hiện theo quy định pháp luật.
5
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
các điều 144, 147, 227, 228, 238, 271, 273, 278 và 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm
2014; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Nguyễn Huy K: Xử ly hôn
giữa anh Nguyễn Huy K và chị Đỗ Thị M.
2. Về con chung:
2.1. Giao cháu Nguyễn Huy T (con trai), sinh ngày 11/10/2012 là con chung
của vợ chồng cho anh Nguyễn Huy K trực tiếp quản lý, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến
khi cháu Nguyễn Huy T trưởng thành đủ 18 tuổi.
2.2. Giao cháu Nguyễn Huy N (con trai), sinh ngày 28/7/2014 là con chung của
vợ chồng cho chị Đỗ Thị M trực tiếp quản lý, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu
Nguyễn Huy Nhật P trưởng thành đủ 18 tuổi.
2.3. Các bên không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
2.4. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc
thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế
quyền thăm nom con của người đó.
2.5. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được
cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con.
3. Về con riêng, con nuôi, tài sản chung và công nợ chung: Đương sự không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Huy K phải chịu toàn bộ án phí ly
hôn sơ thẩm là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), được đối trừ khoản tiền tạm ứng
án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0000445 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ
Lý, anh K đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo bản án: Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo
bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
6
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND thành phố Phủ Lý;
- Chi cục THADS thành phố Phủ Lý;
- UBND phường Lam Hạ, TP. Phủ Lý;
- Đương sự;
- Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(đã ký)
Lê Thanh Sơn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm