Bản án số 07/2024/HC-PT ngày 21/08/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 07/2024/HC-PT ngày 21/08/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 07/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | “Khiếu kiện hủy quyết định hành chính và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 07/2024/HC-PT
Ngày 21 - 8 - 2024
“V/v khiếu kiện hủy quyết định
hành chính và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Ông Nguyễn Huy Cẩn
- Thư ký phiên toà: Bà Nông Thị Linh Chi - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên tòa:
Ông Vũ Thành Vinh - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 05/2024/TLPT-HC ngày 18
tháng 6 năm 2024 về việc “khiếu kiện hủy quyết định hành chính và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 26 tháng 4 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo. Theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 07/2024/QĐ-PT ngày 05 tháng 8 năm 2024 giữa các
đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Khuất Thị L, sinh năm 1967; địa chỉ: Thôn H, xã
V1, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt).
2. Người bị kiện:
- Ủy ban nhân dân xã V1, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc;
Địa chỉ trụ sở: Xã V1, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phùng Lâm B - Chức vụ: Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu K - Chức vụ: Phó Chủ
tịch (Văn bản ủy quyền ngày 25/7/2024), (có mặt).
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã V1, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu K - Chức vụ: Phó Chủ
tịch (Văn bản ủy quyền ngày 25/7/2024), (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Cụ Nguyễn Thị C (tức V2), sinh năm 1940, (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị C (tức V2): Bà Khuất
Thị L, sinh năm 1967, địa chỉ: Thôn H, xã V1, huyện V (Văn bản ủy quyền ngày
28/10/2021), (có mặt).
- Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1964, (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967, (vắng mặt).
- Anh Nguyễn Văn L1, sinh năm 1988, (vắng mặt).
- Anh Nguyễn Văn L2, sinh năm 1992, (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Phùng Đ, sinh năm 1957, (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Công Đ1, sinh năm 1949, (vắng mặt).
Đu ở địa chỉ: Thôn H, xã V1, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Chị Nguyễn Thị E, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn X, xã V1, huyện V,
tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Bà Khuất Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 5 năm 2020 và các lời khai tiếp
theo người khởi kiện bà Khuất Thị L (đồng thời là người đại diện theo ủy quyền
của cụ Nguyễn Thị C) trình bày:
Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc chia đất nông nghiệp cho
người dân canh tác vào các đợt năm 1988 và năm 1993 trên 05 xứ đồng (C1, C2,
G, G1, C3). Trong đó, tiêu chuẩn ở C1 là: 1.35m x 140m/suất. Gia đình bà có 07
nhân khẩu nhưng vì 01 nhân khẩu sinh năm 1992 (con trai bà) là con thứ ba nên
theo chính sách chỉ được chia ½ suất tiêu chuẩn. Do vậy, gia đình bà có tổng tất
cả là 6.5 suất tiêu chuẩn. Bố chồng bà - cụ Nguyễn Văn B1 là Liệt sỹ nên hộ gia
đình bà còn được chia 01 suất đèn hương cho liệt sỹ có kích thước 0.33m x
140m. Riêng bà và chồng bà là ông T còn được chia 02 suất dân công, tương
ứng với 1m x 140m.
Năm 1988, hộ gia đình bà đã có 05 nhân khẩu, gồm: Cụ Nguyễn Thị C
(V2), bà Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Văn T, bà là Khuất Thị L và anh Nguyễn
Văn L1, sinh tháng 6/1988. Ông Nguyễn Phùng Đ đã đứng ra chia đất nhưng
chia thiếu cho gia đình bà 01 suất tiêu chuẩn ở C1 (gia đình bà phải được chia
05 suất ở C1 và các thửa ruộng nhưng ông Đ chỉ chia cho gia đình bà có 04 suất
ở C1). Đến đợt chia năm 1993, hộ gia đình bà phải được chia thêm 1.5 suất tiêu
chuẩn trên tất cả các thửa ruộng cho con thứ hai và thứ ba của bà nhưng khi đó
ông Nguyễn Công Đ1 là người đứng ra chia cũng lại chia thiếu, chỉ chia cho gia
đình bà thêm 1.8m x 130m cho 1.5 suất tiêu chuẩn (đúng tiêu chuẩn phải là
2.025m x 140m/1.5 suất) ở G1, còn các xứ đồng khác cũng không chia cho gia
đình bà. Ông Đ1 còn tự ý cắt đi 01 suất đất trên tất cả các thửa ruộng của gia
đình bà. Theo lời ông Đ1 thì việc cắt đi 01 suất đất là suất của bà M do bà M
không ở địa phương.
Năm 1993 chia đất theo Nghị định 64/CP năm 1993, phần ruộng các hộ
được chia năm 1988 vẫn giữ nguyên, chỉ chia thêm cho các nhân khẩu mới từ
năm 1988 đến năm 1992. Tính đến năm 1992, hộ gia đình bà có thêm 02 nhân
khẩu là: Chị Nguyễn Thị E (Sinh năm: 1990) và anh Nguyễn Văn L2 (Sinh năm:
1992). Lúc này gia đình bà phải được chia thêm 01 suất của con gái và 1/2 suất
của con trai bà (do con thứ 3 chỉ được chia 1/2 suất tiêu chuẩn) trên tất cả các
thửa ruộng được sử dụng trong thôn. Như vậy, đến năm 1993, Hộ gia đình bà
phải có tất cả là: 6.5 suất đất tiêu chuẩn, 02 suất dân công và 01 suất Liệt sỹ là
2
033m x 140m. Lúc này, ông Phan Dương Đ2 là đội trưởng, ông Nguyễn Công
Đ1 là đội phó, ông Đ1 là người được bà con giao cho đứng ra chia đất nhưng
ông Đ1 cũng làm sai, đúng ra phải chia thêm cho gia đình bà 1.5 suất tiêu chuẩn.
Thế nhưng, khi đó ông Đ1 chỉ chia cho gia đình bà phần ruộng có số đo là 1.8m
x 130m ở G1, thiếu của gia đình bà rất nhiều đất các xứ đồng còn lại. Thậm chí
ông Đ1 còn tự ý cắt đi 01 suất đất tiêu chuẩn của bà M. Trong khi, gia đình ông
Đ1 có 9 người con mỗi nguời đều được chia đủ 01 suất đất tiêu chuẩn mà chính
sách chung là con thứ ba chỉ được chia 1/2 suất đất tiêu chuẩn, từ con thứ tư trở
đi không được chia đất.
Việc chia thiếu đất và tự ý cắt đất của gia đình bà của ông Đ, ông Đ1
khiến nhiều năm qua gia đình bà không có đất để canh tác. Ước tính thiệt hại do
hành vi của ông Đ gây ra khoảng 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Việc
ông Đ1 tự ý cắt đất của gia đình bà gây ra thiệt hại ước tính là 50.000.000 đông
(Năm mươi triệu đồng). Hành vi trái pháp luật của những người này cần phải bị
xử lý nghiêm khắc. Đồng thời, chính quyền phải giải quyết chia bổ sung những
phần đất còn thiếu cho gia đình bà theo Nghị định 64-CP.
Nay, khi bà có ý kiến về việc ông Đ chia đất thiếu cho gia đình bà, UBND
xã V1 lại trả lời gia đình bà chỉ được chia 04 suất tiêu chuẩn do vào thời điểm
chia đất năm 1988, hộ chỉ có 04 nhân khẩu, bà M đi xuất khẩu lao động sang
nước ngoài từ năm 1987 thì không được chia đất. Điều này hoàn toàn không có
căn cứ, không đúng sự thật. Bởi, năm 1987 bà M vẫn còn ở nhà làm lụng, canh
tác cùng gia đình. Mãi đến đầu năm 1989 bà M mới đi xuất khẩu lao động ở
nước ngoài cho đến nay. Hơn nữa, nếu UBND xã V1 cho rằng gia đình bà khi đó
chỉ có 04 nhân khẩu thì tại sao ở các xứ đồng khác vẫn chia đủ 5 suất đất tiêu
chuẩn cho gia đình bà, duy chỉ có ở C1 là chia thiếu 01 suất.
Bà đã có đơn đề nghị UBND xã V1 giải quyết chia bổ sung 01 suất đất
của bà M bị chia thiếu năm 1988 ở C1 do ông Đ chia thiếu; trả lại cho gia đình
bà 01 suất đất tiêu chuẩn của bà M trên tất cả các thửa ruộng do ông Đ1 đã tự cắt
của gia đình bà năm 1993. Đồng thời, phải đảm bảo giữ nguyên quyền sử dụng
phần đất đèn hương liệt sỹ và 02 suất dân công (140m
2
) của vợ chồng bà.
UBND xã V1 đã thụ lý giải quyết đơn thư của bà theo thủ tục giải quyết khiếu
nại và ra Thông báo về việc trả lời đơn khiếu nại của công dân số 61/TB-UBND
ngày 19/11/2019. UBND xã V1 cho rằng vào các thời điểm chia đất trước đây,
hộ gia đình bà chỉ có 6 nhân khẩu và chỉ được quyền sử dụng 5.5 suất tiêu chuẩn
là hoàn toàn sai.
- Chủ trương của Đảng, Nhà nước là dồn thửa đổi ruộng năm 2019 nhưng
phải đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đã được giao đất,
không bổ sung cũng không được cắt bớt đất của người dân. UBND xã V1 lại cắt
đi 01 suất đất thờ cúng liệt sỹ và 02 suất đất dân công của gia đình bà, chỉ ghi
nhận gia đình bà có quyền sử dụng 5.5 suất đất tiêu chuẩn. Trong khi đó, Chỉ thị
số 11-CT/TU ngày 11/11/2016 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, Kế hoạch
số 256/KH-UBND ngày 22/6/2018 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Nghị quyết số
07/NQ-HU ngày 15/12/2016 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện V và Kế hoạch
số 1203/KH-UBND ngày 23/5/2018 của UBND huyện V thì nguyên tắc dồn
điền đổi thửa phải đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đã được
3
giao theo Nghị định 64/CP của Chính phủ và Quyết định số 450/QĐ-UB ngày
19/5/1992, Quyết định số 159/QĐ-UB ngày 08/02/1994 của UBND tỉnh Vĩnh
Phú (cũ), không để xảy ra các sai phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai tại
địa phương khi thực hiện dồn thửa đổi ruộng. Vậy mà, UBND xã V1 lại cố tình
không ghi nhận phần quyền sử dụng đất này cho gia đình bà, xâm phạm các
quyền và lợi ích hợp pháp của hộ gia đình bà.
Nay bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy Thông báo về việc trả lời đơn khiếu nại công dân số 61/TB-UBND
ngày 19/11/2019 của UBND xã V1.
- Buộc UBND xã V1 chia bổ sung cho gia đình bà 01 suất đất tiêu chuẩn
ở C1 bị thiếu đợt chia đất năm 1988;
- Buộc UBND xã V1 trả lại cho gia đình bà L 01 suất đất đèn hương Liệt
Sỹ (0,33m x 140m);
- Buộc UBND xã V1 trả lại 02 suất đất dân công cho vợ chồng bà;
- Đề nghị UBND xã V1 trả lại cho bà M 01 suất đất tiêu chuẩn từ năm
1993 trên tất cả các xứ đồng là: Xứ đồng C1, C2, G, G1.
- Xử lý hành vi trái pháp luật của ông Nguyễn Phùng Đ, ông Nguyễn
Công Đ1.
- Buộc UBND xã V1 phải bồi thường cho gia đình bà tiền công đi lại
khiếu nại, khiếu kiện từ năm 2018 đến nay là 30.000.000đ.
- Buộc ông Đ phải bồi thường cho gia đình bà số tiền 30.000.000đ do đã
chia thiếu 01 suất đất ở C1, gây thiệt hại cho gia đình bà.
- Buộc ông Đ1 phải bồi thường cho gia đình bà 50.000.000đ thiệt hại do
ông Đ1 đã tự ý cắt 01 suất đất tiêu chuẩn của bà M trên tất cả các xứ đồng bao
năm qua.
Người bị kiện là Ủy ban nhân dân xã V1 do đại diện theo ủy quyền ông
Nguyễn Hữu K- Phó Chủ tịch UBND xã trình bày:
Thời điểm năm 1988, hộ gia đình bà Nguyễn Thị V2 gồm 04 khẩu được
bàn giao từ Hợp tác xã nông nghiệp X, do ông Phùng Văn T1 làm Chủ nhiệm
Hợp tác xã X bàn giao, gồm có các khẩu: Bà Nguyễn Thị V2, ông Nguyễn Văn
T, bà Khuất Thị L và anh Nguyễn Văn L1.
Trước năm 1987, theo chủ trương hợp nhất của Hợp tác xã, xóm 7 thôn H
được sát nhập vào Hợp tác xã X (cả người và đất), sau đó các hợp tác xã hoạt
động không hiệu quả, thì xóm 7 (trong đó có cả gia đình bà V2- L) được trả về
hợp tác xã H. Hợp tác xã H không nhận cả người và đất vì lý do Hợp tác xã H đã
giao đất cho các hộ sản xuất nông nghiệp ổn định. Sau đó đến năm 1989, xóm 7
được UBND xã V1 chỉ đạo giao cho ông Nguyễn Văn Q lúc đó là Đảng viên ở
xóm 7 họp xóm và thống nhất cử đội trưởng, đội phó đứng ra họp xóm và chia
đất cho 31 hộ thuộc xóm 7, thôn H cho kịp thời vụ sản xuất của năm đó. Xóm 7
thống nhất bầu ông Nguyễn Văn H1 làm đội trưởng, ông Nguyễn Phùng Đ là
thư ký (kiêm đội phó) chỉ đạo trực tiếp là ông Nguyễn Văn Q. Trước khi giao
đất của từng vùng, thì tổ có cử 1 nhóm đi khảo sát lại diện tích đất của từng
vùng, sau đó về lên phương án chia. Trước khi chia đã họp xóm Thông báo nội
dung và số lượng đất được chia của từng hộ và bốc thăm. Tất cả các hộ trong
xóm đều nhất trí, không thắc mắc gì. Riêng vùng đất C1, năm 1989 chia theo
4
Quyết định số 450 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc.
Cụ thể đối với hộ bà Nguyễn Thị V2 được chia 04 khẩu = 4m ngang x
145m dài = 580m
2
/ 4 khẩu.
Đất rau xanh bằng 1,32m ngang x 145m dài = 191,4m
2
= 47,85m
2
/1 người
(đất 10 % đất rau xanh); Đất thờ cúng liệt sỹ 0,33m ngang x 145m dài = 48m
2
;
Đất dân công được chia 2 suất =1m ngang x145m dài = 145m
2
.
Tổng hộ bà Nguyễn Thị V2 được chia ở xứ đồng C1 theo chiều ngang là
6,65m ngang x145m dài = 964m
2
.
Tại thời điểm chia đất năm 1989, bà Nguyễn Thị M không có mặt ở địa
phương, bà M đi xuất khẩu lao động ở Đức. Năm 1989, theo bàn giao của Hợp
tác xã X cho đội 7 thì chia đất cho các nhân khẩu có mặt tại địa phương, còn các
nhân khẩu không có mặt tại địa phương thời điểm đó thì không được chia. Đến
năm 1990, đội họp thống nhất chia lại đất theo khẩu hiện có của năm 1990.
Riêng vùng đất C1 là đất loại 1 (đất tốt) đội giữ nguyên không chia, những khẩu
biến động được chia ở vùng khác theo diện tích bình quân của đội nên khẩu C1
vẫn giữ nguyên đến năm 2019. Đến thời điểm chia đất năm 1992 theo Nghị định
64, thì hộ bà Nguyễn Thị V2 được bổ sung 1,5 khẩu gồm: Khẩu của Nguyễn Thị
E, sinh năm 1990 và ½ khẩu của Nguyễn Văn L2, sinh năm 1992 (L2 là con thứ
3 thì được ½ khẩu). Đối với khu C1 thì hộ bà Nguyễn Thị V2 vẫn giữ nguyên
diện tích được chia là 6,65m ngang và 02 xuất dân công theo Biên bản bàn giao
ngày 29/6/1992 giữa người bàn giao là ông Nguyễn Phùng P (thư ký) bàn giao
cho ông Phan Dương Đ2.
Năm 1992, khi chia đất theo Nghị định 64, hộ bà Nguyễn Thị V2 được
5,5 khẩu đất và thống nhất của tổ là cắt bỏ phần đất dân công của tất cả các hộ
trong xóm trong đó có cả 02 xuất dân công của hộ bà Nguyễn Thị V2. Chỉ để lại
phần đất liệt sỹ và duy trì cho đến nay là mỗi một liệt sỹ được 48m
2
đất thờ
cúng. Như vậy là đất dân công không còn tồn tại.
Thời điểm năm 2018 khi có chủ trương dồn thửa đổi ruộng của UBND
tỉnh Vĩnh Phúc, UBND xã V1 tiến hành thành lập Ban chỉ đạo, Ban quản lý và
tiểu ban dồn thửa đổi ruộng thôn H, tiến hành họp nhân dân theo các bước
hướng dẫn. Quá trình thực hiện, hộ bà L đề nghị tiểu ban dồn thửa đổi ruộng xác
minh diện tích của hộ gia đình bà trước khi dồn thửa đổi ruộng. Tiểu ban dồn
thửa đổi ruộng thôn H đã thực hiện theo đề nghị của bà L và đã có biên bản làm
việc, xác minh các thửa đất ở các xứ đồng hộ bà Nguyễn Thị V2 canh tác từ năm
1992 đến thời điểm thực hiện chủ trương dồn thửa đổi ruộng. Khi kiểm tra xong,
đối chiếu với số khẩu được chia theo sổ cũ thì bà L phát hiện hộ gia đình bà V2
thừa đất, bà L cho rằng khi cán bộ đội 7 chia đất là không vào sổ. Khi tiểu ban
dồn thửa đổi ruộng đội 7 làm rõ thì bà Khuất Thị L lại đề nghị là hộ bà V2 bị
thiếu một xuất đất của Nguyễn Thị E. Tiểu ban dồn thửa đổi ruộng đã có báo cáo
UBND xã, đề nghị UBND xã cung cấp nhân khẩu của hộ bà Nguyễn Thị V2
thời điểm giao đất thực hiện Nghị định 64. Tiểu ban dồn thửa đổi ruộng đã làm
việc và Thông báo với gia đình bà L nhưng bà L không đồng ý và tiếp tục đề
nghị lên UBND xã. UBND xã đã xác minh và có Thông báo trả lời bà L. Đối với
Thông báo về việc trả lời đơn khiếu nại số 61/TB-UBND ngày 19/11/2019 thì
UBND xã có ý kiến như sau:
5
Thực hiện chỉ thị số 11/CT-UT ngày 11/11/2016 của Ban Thường vụ tỉnh
ủy Vĩnh Phúc về tiếp tục thực hiện công tác dồn thửa đổi ruộng trong nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết số 07-NQ/HU ngày 15/12/2016 về dồn thửa
đổi ruộng giai đoạn 2016- 2020; Kế hoạch số 1203/KH-UBND ngày 23/5/2018
của UBND huyện V về triển khai công tác dồn thửa đổi ruộng.
Ngày 28/5/2018, Ban chấp hành Đảng bộ xã V1 ra Nghị quyết số
06-NQ/ĐU về công tác dồn thửa đổi ruộng trên địa bàn xã V1. Nghị quyết hội
nghị họp dân toàn thôn H ngày 15/11/2018. Thôn H có 04 xóm dân cư, có 31 hộ
thuộc xóm 1 (Đội 7 cũ) do đặc thù khi thực hiện Nghị định 64-CP ngày
27/9/1993 của Chính phủ không đồng nhất diện tích xứ đồng chung của thôn H
nên Tiểu ban dồn thửa đổi ruộng thôn H đã đề nghị Ban chỉ đạo, Ban quản lý
DTĐR cho 31 hộ thuộc xóm 1 thực hiện xong công tác dồn thửa đổi ruộng thì
thực hiện toàn thôn. Hiện toàn thôn H đang thực hiện bước 6 DTĐR; 31 hộ Đội
7 đã thực hiện xong bước 8. Tính đến ngày 31/12/2019 tại Đội 7 thôn H đã có
30/31 hộ nhận ruộng và tiến hành canh tác. Hiện còn hộ bà Nguyễn Thị V2 (mẹ
chồng bà Khuất Thị L) chưa nhất trí bàn giao ruộng, có đơn gửi các cấp đề nghị
bổ sung cho gia đình thêm 01 khẩu đất do Đội trưởng, Đội phó của xóm chia
thiếu từ khi thực hiện Nghị định 64-CP năm 1993 của Chính phủ.
Ngày 15/7/2019, UBND xã nhận được đơn đề nghị của bà Khuất Thị L
nội dung đề nghị UBND xã xác minh làm rõ diện tích của hộ ông Nguyễn Công
Đ1 trú tại Đội 7 thôn H khi được chia theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của
Chính phủ (do nghi ngờ ông Đ1 lợi dụng lúc đó làm Đội phó Đội 7 thôn H cũ
chia thêm khẩu đất cho gia đình ông và chia thiếu 01 khẩu đất hộ nhà bà Nguyễn
Thị V2 trú Đội 7 thôn H, là mẹ chồng của Khuất Thị L); làm rõ việc gia đình bị
chia thiếu khẩu đất vào năm 1993.
Uỷ ban nhân dân xã tiến hành thụ lý giải quyết theo thẩm quyền, cụ thể:
+ Ngày 29/7/2019, UBND xã đã có Thông báo số 34/TB-UBND về việc
Thông báo trả lời đơn của công dân.
+ Ngày 12/10/2019, UBND xã nhận văn bản số 2511/UBND-BTCD ngày
04/10/2019 của UBND huyện V v/v chuyển đơn của bà Khuất Thị L sau khi
nghiên cứu nội dung đơn UBND xã tiếp tục thụ lý và có Thông báo số
52/TB-UBND ngày 15/10/2019 nội dung: Thời điểm chia đất theo Nghị định
64- CP gia đình bà Khuất Thị L đã được chia đủ số đất là 5,5 khẩu đất; tại thời
điểm chia đất bà Nguyễn Thị M (con bà Nguyễn Thị V2) không còn hộ khẩu
thường trú tại địa phương do đã xuất cảnh đi nước ngoài vào năm 1987 chưa trở
về địa phương (trong sổ quản lý nhân hộ khẩu của Công an xã V1 từ năm 1987
trường hợp Nguyễn Thị M đã không có tên, không có hộ khẩu thường trú tại địa
phương). Bà L không đồng ý với nội dung trả lời tại Thông báo số
52/TB-UBND ngày 15/10/2019 và tiếp tục có đơn khiếu nại. Ngày 19/11/2019,
UBND xã V1 ra Thông báo số 61/TB-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà
L. Sau khi ban hành Thông báo số 61 thì UBND xã thấy rằng việc ban hành
Thông báo số 61 chưa đúng theo trình tự giải quyết khiếu nại, nên UBND xã ban
hành Quyết định số 01/QĐ-CT ngày 19/11/2019 về việc giải quyết khiếu nại của
bà L. Do sơ xuất, UBND xã V1 chưa thu hồi và hủy bỏ Thông báo số
61/TB-UBND ngày 19/11/2019. Ngày 27/3/2023, UBND xã V1 đã ra Quyết
6
định số 51/QĐ-CT về việc thu hồi, hủy bỏ Thông báo số 61/TB-UBND ngày
19/11/2019.
Nay bà Khuất Thị L khởi kiện với các nội dung như nêu trên, quan điểm
của Uỷ ban nhân dân xã V1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L và đề
nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông Nguyễn Phùng Đ trình bày: Ngày 10/9/1988, Uỷ ban nhân dân huyện
Vĩnh Lạc do ông Nguyễn Đình Đá ký quyết định cho tách 19 hộ dân thôn H sáp
nhập vào Hợp tác xã X. Sau khi hoàn tất việc kiểm đếm, khi bàn giao Hợp tác xã
H từ chối nhận bàn giao 19 hộ (đội 7) và tài sản. Cuối năm 1988, Uỷ ban nhân
dân xã V1 giao cho ông Q là Đảng viên trong xóm 7 đương nhiệm là Phó Chủ
nhiệm Hợp tác xã X cũ về họp xóm và tạm chia đất cho bà con trong xóm lấy
đất sản xuất kịp thời vụ. Ông Q đã tổ chức họp xóm với nội dung cụ thể như
sau:
+ Thông báo nội dung chưa chuyển về Hợp tác xã H được
+ Thông báo tổng số tài sản được phân chia gồm tài sản và đất canh tác
+ Thông báo số hộ và số khẩu được bàn giao lúc chưa tách
+ Bầu đội trưởng và thư ký để chia đất.
Sau khi hội nghị nghe ông Q phổ biến các nội dung, xã đội nhất trí với nội
dung trên và bầu ông Nguyễn Văn H1 làm đội trưởng, ông Nguyễn Phùng Đ làm
thư ký. Sau đó, đội đã cử 02 người đi đo lại toàn bộ diện tích đất đã bàn giao để
lên kế hoạch chia. Sau khi đo xong thì họp lại xóm để lên kế hoạch chia và cho
nhúp phiếu thứ tự.
Nội dung được chia vùng C1 như sau: Vùng đất C1 chiều dài đầu ngoài
229,5m; đầu trong = 219,5m; chiều rộng 148m.
Sau khi chia trên sổ sách xong thì tiến hành họp xóm lần 2 để Thông báo
cho các hộ dân các nội dung:
Tổng số khẩu được chia là 151 khẩu bao gồm cả khẩu mới sinh.
- Chia đất 5% cho mỗi khẩu được chia = 47,85m
2
/1 người = 0,33 ngang.
- Chia 5% cho liệt sỹ được chia = 48m
2
= 0,33 ngang.
- Chia đất cho khẩu phải chịu dân công =72,5m
2
/1suất=0,5m ngang/1suất.
- Chia bình quân cho 01 khẩu = 145m
2
= 1,0 ngang.
Thu hồi đất 5% các hộ đổi đất 5% làm đất ở, mỗi hộ là 4 suất đất 5% vùng
đất C1. Do địa lý hai đầu không bằng nhau, nên đội 7 đã chia bình quân một đầu
còn lệch đầu ngoài 12,2m; đầu trong 0,0m (số đất này sau chia cho hai hộ đang
chuẩn bị sinh con).
Thời điểm chia đất vùng C1 tháng 01/1989 hộ bà Nguyễn Thị V2 chủ hộ
có những khẩu sau:
1, Bà Nguyễn Thị C (V2), sinh năm 1942
2, Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1966 (con trai bà V2);
3, Chị Khuất Thị L, sinh năm 1967 (con dâu bà V2);
4, Cháu Nguyễn Văn L1, sinh năm 1988 (cháu bà V2).
Tổng số khẩu bà V2 là 04 người.
Tổng số đất C1 được chia cho hộ bà V2 như sau:
+ Đất bình quân khẩu: 1m x 4 khẩu = 4m = 576m
2
7
+ Đất 5%: 0,33m x 4 khẩu = 1,32m = 145m
2
+ Đất 5% liệt sỹ: 0,33m x 1 = 0,33m = 47,85m
2
+ Đất dân công: 0,50 x 2 = 1,000m = 145m
2
+ Cộng: 6,65m = 964m
2
Số đất này thống nhất của đội được giữ nguyên, không thay đổi, theo dõi
cho đến năm 2018 vẫn giữ nguyên, không có sự thay đổi. Còn nếu tăng giảm thì
chuyển vùng khác. Năm 2018, có kế hoạch dồn điền đổi thửa. Khi làm thủ tục,
hộ bà L gây cản trở cho tập thể thôn H, xã V1 vì lý do một số diện tích đất của
hộ bà L đã chuyển nhượng cho người khác. Nếu hộ bà L thiếu đất thì tại sao bà
L không kêu thiếu từ những năm chia đất mà vẫn sản xuất sau 29 năm kể từ khi
được chia từ năm 1989 đến năm 2018. Bản thân ông cùng các thế hệ đội đã làm
đúng chức năng, nhiệm vụ dưới sự giám sát của tổ đảng và toàn bộ bà con trong
đội. Đến nay, công việc dồn điền đổi thửa đã xong chỉ còn hộ bà L vẫn chống
đối, không giao đất cho tập thể. Ông đã được giao nhiệm vụ giữ chức thư ký từ
tháng 9/1988 đến tháng 5/1989, ông xin nghỉ chuyển giao cho ông Nguyễn
Phùng P làm thư ký thay ông.
Nay bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung như nêu trên,
quan điểm của ông không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L. Đề
nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Ông Nguyễn Công Đ1 trình bày: Năm 1993, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phú
cân đối lại đất. Từ năm 1988 đến năm 1993, mỗi cặp vợ chồng đẻ 02 con thì
được chia 100% đất. Từ con thứ 3 trở đi được chia 50%. Thời điểm năm 1993,
gia đình bà V2 có 5,5 nhân khẩu. Khi đó, ông Đ1 là đội phó và là thư ký, ông
Phan Dương Đ2 là đội trưởng, đã tổ chức họp để chia đất theo chỉ thị 1993 của
tỉnh Vĩnh Phú. Nhưng tổ chức không tin tưởng ông và ông Đ2 đứng ra chia nên
đã cử ông Nguyễn Văn D và ông Nguyễn Văn H1 đứng ra chia cho công bằng.
Trước đó ông P bàn giao sổ sách cho ông và ông đã giao lại sổ sách cho ông H1
và ông D. Ông và ông Đ2 cũng đi nhận đất và hộ nào thắc mắc thì giải quyết.
Trong khi đó, hai trường hợp thiếu đất trên thửa cao phải chia bù dưới thấp được
tính 01 thước bằng 02 thước. Sau khi chia, số đất của ông D và ông H1 trả cho
Uỷ ban nhân dân xã V1, cùng sổ sách chia đất nói trên. Uỷ ban nhân dân xã V1
chuyển đội 7 về Hợp tác xã H. Từ đó, ông không rõ sổ sách của Hợp tác xã H
như thế nào. Từ năm 1993 trở về trước, người đã mất không được chia đất cũng
không phải cắt đất. Năm 1993, ông, ông Đ2 và ông P không thấy hộ bà V2 có bà
M. Ông nghe nói bà M đã đi Đức.
Nay bà Khuất Thị L khởi kiện với các nội dung như trên, quan điểm của
ông không nhất trí vì ông không phải là người đứng ra chia đất cho các hộ dân.
Ông đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Ông Nguyễn Văn T xác nhận như trình bày của bà Khuất Thị L.
Đối với bà Nguyễn Thị M, anh Nguyễn Văn L1, anh Nguyễn Văn L2, chị
Nguyễn Thị E, Tòa án không lấy được lời khai do không có mặt theo giấy triệu
tập.
Người làm chứng ông Nguyễn Hữu Q1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng
trong quá trình giải quyết vụ án ông trình bày: Ông giữ chức Chủ tịch UBND xã
V1 từ tháng 7/2016 đến tháng 11/2020 thì về hưu. Trong thời gian giữ chức vụ
8
Chủ tịch UBND xã V1 ông Q1 đã làm đúng chức trách nhiệm vụ được giao. Về
thời điểm chia đất, số khẩu được chia của từng hộ, cách thức chia thì ông Q1
trình bày thống nhất với UBND xã V1, ông Đ, ông Đ2 và ông P. Năm 2019, Nhà
nước có chủ trương dồn thửa đổi ruộng và thực hiện dồn thửa ở C1 sát nhập với
C2, G sát nhập với G1. Gia đình bà L không đồng ý dồn thửa đổi ruộng của gia
đình bà nên bà L yêu cầu phải để nguyên vì bà thắc mắc trước đó vào đợt chia
đất năm 1989-1993 nhà nước chia thiếu cho gia đình bà 01 suất đất của bà M.
Theo quy hoạch chung về dồn thửa đổi ruộng đã được huyện phê duyệt có 01
con đường để cho các hộ lấy lối đi vào canh tác. Khi đắp con đường này thì tất
cả các hộ đều đồng thuận, nhất trí và hiến đất để đắp đường, chỉ riêng hộ bà L
không đồng ý, nhưng tiểu ban chỉ đạo dồn thửa đổi ruộng của thôn H vẫn thực
hiện để lấy đường đi lại trên cơ sở chỉ đạo của UBND xã V1 qua rà soát thực tế
của Ban chỉ đạo UBND xã và tiểu ban chỉ đạo thôn H, đảm bảo đúng quy định
của UBND tỉnh về việc thực hiện dồn thửa đổi ruộng (chiều rộng, chiều dài) và
đường đi vào canh tác. Đối với khu vực C3 có 30 hộ canh tác. Các hộ có đất ở
C3 đều không trực tiếp canh tác mà đều cho tư nhân thầu làm trang trại chăn
nuôi. Khi đắp đường cũng không ảnh hưởng gì đến phần diện tích đất thầu làm
trang trại.
Thời điểm năm 2019, thực hiện dồn thửa, đổi ruộng, ông Q1 đã lãnh, chỉ
đạo các bộ phận chuyên môn làm đúng quy định của nhà nước về đất đai. Sau
khi thực hiện việc dồn thửa, đổi ruộng xong thì gia đình bà L có đơn thư khiếu
nại, UBND xã V1 đã có Thông báo về việc trả lời đơn khiếu nại của công dân số
61/TB-UBND ngày 19/11/2019. Sau khi ban hành Thông báo số 61 thì UBND
xã thấy rằng việc ban hành Thông báo số 61 chưa đúng hình thức ban hành văn
bản giải quyết khiếu nại, nên UBND xã ban hành Quyết định số 01/QĐ-CT ngày
19/11/2019 về việc giải quyết khiếu nại của bà L.
Nay bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung như trong đơn
khởi kiện, quan điểm của ông Q1 đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Người làm chứng ông Phùng Văn T1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong
quá trình giải quyết vụ án ông trình bày: Ông T1 làm chủ nhiệm HTX X từ năm
1987 đến đầu năm 1989 thì nghỉ. Về thời gian chia đất, số khẩu chia ông T1
trình bày thống nhất với ông Q1, ông Đ và ông P. Ông T1 không biết cụ thể chia
như thế nào. Đối với bà Nguyễn Thị M (là con gái bà Nguyễn Thị V2), đi xuất
khẩu lao động từ năm 1987, ông T1 là người ký xác nhận hoàn cảnh của bà M
để bà M làm hồ sơ đi xuất khẩu lao động. Bà M đi xuất khẩu lao động nhưng
không lấy tên bà M mà lấy tên bà Nguyễn Thị H2.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án hành chính sơ thẩm số
01/2023/HC-ST ngày 29 tháng 03 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh
Vĩnh Phúc quyết định: Căn cứ Điều 193, Điều 348 Luật tố tụng hành chính;
Luật khiếu nại năm 2011; Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Khuất Thị L về việc “Khiếu kiện
yêu cầu hủy Thông báo về việc trả lời đơn khiếu nại công dân”.
9
Hủy Thông báo về việc trả lời đơn khiếu nại công dân số 61/TB-UBND
ngày 19/11/2019 của UBND xã V1.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L về việc buộc UBND xã
V1 phải bồi thường cho gia đình bà tiền công đi lại khiếu nại, khiếu kiện từ năm
2018 đến nay là 30.000.000đ.
Ngoài ra bản án còn quyết định về quyền kháng cáo và án phí đối với các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 12 tháng 4 năm 2023 bà Khuất Thị L kháng cáo đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm số
01/2023/HC-ST ngày 29 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh
Vĩnh Phúc chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà.
Ngày 27 tháng 4 năm 2023 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc ban hành Kháng nghị số 100/QĐ-VKS-HC đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho
Tòa án nhân dân huyện V giải quyết lại vụ án.
Tại Bản án phúc thẩm 05/2023/HC-PT ngày 30/6/2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc quyết định: Căn cứ Khoản 3 Điều 241 Luật Tố tụng hành
chính 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc. Hủy bản án sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 29 tháng 3 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân
huyện V giải quyết lại vụ án.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 26 tháng 4 năm
2024 Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ Điều 17, 31 Luật khiếu nại năm 2011; Khoản 4 Điều 36 Luật tổ
chức chính quyền địa phương;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Khuất Thị L về việc đề nghị Toà án Hủy
Thông báo số 61/TB-UBND ngày 19/11/2019 của UBND xã V1 về việc trả lời
đơn khiếu nại công dân và buộc UBND xã V1 phải bồi thường cho gia đình bà
tiền công đi lại khiếu nại, khiếu kiện từ năm 2018 đến nay là 30.000.000đ.
Ngoài ra bản án còn quyết định về quyền kháng cáo và án phí đối với các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 06 tháng 5 năm 2024 bà Khuất Thị L kháng cáo đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc sửa Bản án sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 26 tháng
4 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L giữ nguyên đơn khởi kiện và đơn kháng
cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và phát biểu quan điểm:
10
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án cấp
phúc thẩm đã tuân thủ đảm bảo đúng trình tự, thủ tục từ khi thụ lý đến tại phiên
tòa phúc thẩm; người tham gia tố tụng đã thực hiên đầy đủ và chấp hành đúng
quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố
tụng hành chính: Bác kháng cáo của bà Khuất Thị L, giữ nguyên quyết định của
Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 26 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ được thẩm tra công khai tại
phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; ý kiến Kiểm sát viên
về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về đối tượng khởi kiện vụ án hành chính:
Bà L khởi kiện và đề nghị Tòa án xem xét nhiều nội dung, tuy nhiên chỉ
có yêu cầu về việc Hủy Thông báo về việc trả lời đơn khiếu nại công dân số
61/TB-UBND ngày 19/11/2019 của UBND xã V1 (viết tắt Thông báo 61) là
quyết định hành chính theo khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính và yêu cầu
buộc UBND xã V1 phải bồi thường cho gia đình bà tiền công đi lại khiếu nại,
khiếu kiện từ năm 2018 đến nay là 30.000.000đ theo khoản 1 Điều 7 Luật tố
tụng hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện như trên thuộc
thẩm quyền của Tòa án; Tòa án nhân dân huyện V thụ lý, giải quyết vụ án là
đúng theo quy định tại Điều 30, 31 Luật tố tụng hành chính.
Các yêu cầu: Buộc UBND xã V1 chia bổ sung cho gia đình bà 01 suất đất
tiêu chuẩn ở C1 bị thiếu đợt chia đất năm 1988; Buộc UBND xã V1 trả lại cho
gia đình bà L 01 suất đất đèn hương Liệt Sỹ (0,33m x 140m); Buộc UBND xã
V1 trả lại 02 suất đất dân công cho vợ chồng bà; Đề nghị UBND xã V1 trả lại
cho bà M 01 suất đất tiêu chuẩn từ năm 1993 trên tất cả các xứ đồng là: Xứ đồng
C1, C2, G, G1; Buộc ông Đ phải bồi thường cho gia đình bà L số tiền
30.000.000đ do đã chia thiếu 01 suất đất ở C1, gây thiệt hại cho gia đình bà;
Buộc ông Đ1 phải bồi thường cho gia đình bà L 50.000.000đ thiệt hại do ông Đ1
đã tự ý cắt 01 suất đất tiêu chuẩn của bà M trên tất cả các xứ đồng. Tòa án nhân
dân huyện V xác định không phải đối tượng khởi kiện vụ án hành chính và
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là đúng quy định của Luật tố
tụng hành chính.
[1.3] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 19/11/2019 Chủ tịch UBND xã V1 ban
hành Thông báo số 61/TB-UBND và gửi cho bà Khuất Thị L. Ngày 06/5/2020
bà L làm đơn khởi kiện là đảm bảo thời hiệu khởi kiện 01 năm theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
[1.4] Về đơn kháng cáo: Kháng cáo của bà Khuất Thị L làm trong hạn
luật định hợp lệ cần chấp nhận.
[1.5] Về sự vắng mặt cảu những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Văn L1, anh Nguyễn Văn L2, chị Nguyễn Thị E, bà Nguyễn Thị
M, ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn cố tình
11
vắng mặt không có lý do. Ông Nguyễn Phùng Đ và ông Nguyễn Công Đ1 có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy Toà án tiến hành xét xử vắng mặt người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung:
Xét nội dung kháng cáo của bà Khuất Thị L đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà. Hội đồng xét xử thấy:
[2.1] Về yêu cầu khởi kiện hủy Thông báo số 61/TB-UBND ngày
19/11/2019 của Chủ tịch UBND xã V1 (Sau đây gọi là Thông báo số 61).
- Về thẩm quyền và trình tự thủ tục ban hành Thông báo số 61:
Ngày 15/7/2019, UBND xã nhận được đơn đề nghị của bà Khuất Thị L
nội dung đề nghị UBND xã xác minh làm rõ diện tích của hộ ông Nguyễn Công
Đ1 trú tại Đội 7 thôn H khi được chia theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của
Chính phủ (do nghi ngờ ông Đ1 lợi dụng lúc đó làm Đội phó Đội 7 thôn H cũ
chia thêm khẩu đất cho gia đình ông và chia thiếu 01 khẩu đất hộ nhà bà Nguyễn
Thị V2 trú tại Đội 7 thôn H, là mẹ chồng của Khuất Thị L); làm rõ việc gia đình
bị chia thiếu khẩu chia đất vào năm 1993.
+ Ngày 29/7/2019, UBND xã V1 đã ra Thông báo số 34/TB-UBND về
việc Thông báo trả lời đơn của bà L (viết tắt Thông báo số 34).
+ Ngày 12/10/2019, UBND xã V1 nhận văn bản số 2511/UBND-BTCD
ngày 04/10/2019 của UBND huyện V v/v chuyển đơn của bà Khuất Thị L ghi
ngày 16/9/2019 (cùng nội dung đơn của bà L gửi UBND xã ngày 15/7/2019 nêu
trên).
+ Ngày 15/10/2019, UBND xã V1 ra Thông báo số 52/TB-UBND (viết tắt
Thông báo số 52) trả lời đơn đề nghị của bà L với nội dung: Thời điểm chia đất
theo Nghị định 64-CP gia đình bà Khuất Thị L đã đuợc chia đủ số đất là 5,5
khẩu đất; tại thời điểm chia đất bà Nguyễn Thị M (con bà Nguyễn Thị V2)
không còn HKTT tại địa phương do đã xuất cảnh đi nước ngoài vào năm 1987
chưa trở về địa phương (trong sổ quản lý nhân hộ khẩu của Công an xã V1 từ
năm 1987 trường hợp Nguyễn Thị M đã không có tên, không có hộ khẩu thường
trú tại địa phương).
+ Ngày 17/10/2019, bà L có Đơn khiếu nại Thông báo số 52/TB-UBND
ngày 15/10/2019 của UBND xã V1.
+ Ngày 19/11/2019, UBND xã V1 ra Thông báo số 61/TB-UBND về việc
giải quyết khiếu nại của bà L. Sau khi ban hành Thông báo số 61, UBND xã V1
nhận thấy Thông báo số 61 ban hành chưa đúng về mặt hình thức ban hành văn
bản và thẩm quyền giải quyết khiếu nại nên đã ra Quyết định số 01/QĐ-CT ngày
19/11/2019 (viết tắt Quyết định số 01) giải quyết đơn khiếu nại của bà L (nội
dung tương tự Thông báo số 61). Do sơ suất nên UBND xã V1 chưa thu hồi và
hủy bỏ Thông báo số 61 và khi giao Quyết định số 01 cho bà L không lập biên
bản giao nhận. Sau đó UBND xã V1 nhận được Thông báo số 139/TB-UBND,
ngày 20/4/2020 của UBND huyện V về việc không giải quyết khiếu nại của bà L
(bà L khiếu nại Quyết định số 01 nêu trên).
+ Ngày 27/3/2023 Chủ tịch UBND xã V1 đã ra Quyết định số 51/QĐ-CT
(viết tắt Quyết định số 51) về việc thu hồi, huỷ bỏ Thông báo số 61/TB-UBND
ngày 19/11/2019 của UBND xã V1.
12
Về nội dung của Thông báo số 61 và các văn bản liên quan gồm: Thông
báo số 34/TB-UBND ngày 29/7/2019; Thông báo số 52/TB-UBND ngày
15/10/2019; Quyết định số 01/QĐ-CT ngày 19/11/2019; Quyết định số
51/QĐ-CT ngày 27/3/2023. Hội đồng xét xử xét thấy:
Thông báo số 34 và Thông báo số 52 của UBND xã V1 cùng một nội
dung trả lời đơn của bà Khuất Thị L đề ngày 15/7/2019 có nội dung đề nghị
UBND xã xác minh làm rõ diện tích của hộ ông Nguyễn Công Đ1 trú tại Đội 7
thôn H khi được chia theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ (do
nghi ngờ ông Đ1 lợi dụng lúc đó làm Đội phó Đội 7 thôn H cũ chia thêm khẩu
đất cho gia đình ông và chia thiếu 01 khẩu đất hộ nhà bà Nguyễn Thị V2 trú tại
Đội 7 thôn H, là mẹ chồng của Khuất Thị L) làm rõ việc gia đình bị chia thiếu
khẩu chia đất vào năm 1993.
Sau khi nhận được đơn đề nghị của bà L, UBND xã V đã tiến hành xác
minh, làm việc với các ông, bà nguyên là đội trưởng, đội phó của đội 7 (cũ) chia
đất cho các hộ theo Nghị định 64 và Quyết định 450, kiểm tra lại các sổ sách về
nhân khẩu, sổ sách quản lý đất của hộ bà V2, xác định: Tại thời điểm chia đất hộ
bà V2 chỉ có 06 khẩu gồm: Nguyễn Thị V2; Nguyễn Văn T; Khuất Thị L;
Nguyễn Văn L1, sinh năm 1988; Nguyễn Thị E, sinh năm 1990; Nguyễn Văn
L2, sinh năm 1992 (là 03 con của bà L). Theo hướng dẫn, thống nhất của thôn H
và đội 7 là mỗi cặp vợ chồng chỉ được chia 02 người con, còn con thứ ba là
được 1/2 xuất nên anh Nguyễn Văn L2 là con thứ ba chỉ được chia 1/2 xuất đất.
Như vậy tại thời điểm chia đất gia đình nhà bà L (hộ bà V2) chỉ được chia 5,5
khẩu đất và đã được chia đủ.
Căn cứ kết quả xác minh ngày 29/7/2019 UBND xã V1 ra Thông báo số
34, về việc trả lời đơn đề nghị của bà L với nội dung:“việc bà L cho rằng hộ gia
đình bà thiếu 01 khẩu đất của cháu Nguyễn Thị E là không có căn cứ và ông
Nguyễn Công Đ1 lợi dụng tại thời điểm chia đất đã chia thừa phần đất của cháu
Nguyễn Thị E về gia đình ông là không có cơ sở.“
Sau khi nhận được văn bản của UBND huyện V chuyển về UBND xã ra
Thông báo số 52 có nội dung: “Năm 1993, theo Nghị định 64-CP ngày
27/09/1993, về việc ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích sản xuất Nông nghiệp thì tại
thời điểm chia đất công dân có hộ khẩu thường trú tại địa phương thì được chia
đất. Theo hướng dẫn và thống nhất của thôn H và đội 7 là mỗi cặp vợ chồng chỉ
được chia 02 người con, còn con thứ ba là được 1/2 xuất (thời điểm tính sinh
con thứ 3 từ năm 1988 đến thời điểm chia đất), con thứ 4 trở lên không được
chia đất; Hộ gia đình nhà bà L tại thời điểm chia đất có 06 nhân khẩu đất gồm
bà Nguyễn Thị V2 (chủ hộ), Ông Nguyễn Văn T, Bà Khuất Thị L, cháu Nguyễn
Văn L1, Nguyễn Thị E, Nguyễn Văn L2 (vì cháu E là con thứ hai đã được chia
đủ 1 xuất đất; cháu Nguyễn Văn L2 là con thứ ba thì được chia 1/2 xuất đất).
Như vậy tại thời điểm chia đất gia đình nhà bà L đã được chia đủ số đất là 5,5
khẩu đất và cũng tại thời điểm chia đất theo Nghị định 64, bà Nguyễn Thị M
không còn nhân khẩu thường trú tại xã V1; bà M xuất cảnh đi nước ngoài từ
năm 1987 đến nay. Việc bà L cho rằng ông Đ1 chia cho hộ gia đình Nguyễn Thị
V2 nửa khẩu đất tại xứ đồng G1 mà không vào sổ là không đúng với hồ sơ thôn
13
đang lưu giữ và biên bản xác minh thực trạng các xứ đồng giữa thôn và bà
Khuất Thị L. Như vậy, việc bà L cho rằng hộ gia đình bà thiếu 01 khẩu đất là
không có căn cứ.“
Như vậy UBND xã V1 ra Thông báo số 34 và Thông báo số 52 trả lời đơn
của bà L có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
Ngày 17/10/2019 bà L khiếu nại Thông báo số 52, UBND xã ra Thông
báo số 61 giải quyết khiếu nại lần đầu và Chủ tịch UBND ký thay mặt UBND
(nội dung Thông báo số 61 cùng nội dung Thông báo số 52).
Hội đồng xét xử thấy:
Về nội dung Thông báo số 61 có nội dung như Thông báo số 52, không
chấp nhận khiếu nại của bà L là có căn cứ như đã nhận định. Tuy nhiên Chủ tịch
UBND ký thay mặt UBND xã ra Thông báo số 61 giải quyết khiếu nại là chưa
đúng thẩm quyền. Vì theo quy định tại Điều 17 Luật khiếu nại năm 2011 quy
định về thẩm quyền: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây
gọi chung là cấp xã); Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp” như vậy
Ủy ban nhân dân ban hành Thông báo 61 là không đúng thẩm quyền. Mặt khác
theo Điều 31 Luật khiếu nại năm 2011 quy định về hình thức văn bản giải quyết
khiếu nại phải ban hành bằng Quyết định “1. Người giải quyết khiếu nại lần đầu
phải ra quyết định giải quyết khiếu nại.
2. Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải có các nội dung sau
đây:…..”
Khi phát hiện Thông báo 61 không đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền,
cùng ngày 19/11/2019 Chủ tịch UBND xã đã ra Quyết định số 01/QĐ-CT giải
quyết đơn khiếu nại thay cho Thông báo số 61 (nội dung tương tự Thông báo số
61) và ngày 27/3/2023 Chủ tịch UBND xã ban hành Quyết định số 51/QĐ-CT
thu hồi, huỷ bỏ Thông báo số 61.
Mặc dù, Thông báo số 61 ngày 19/11/2019 của UBND xã V1 ban hành
không đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền nhưng đúng về nội dung và sau khi
phát hiện việc ra Thông báo số 61 giải quyết khiếu nại không đúng về hình thức
văn bản và thẩm quyền ban hành, Chủ tịch UBND xã đã ban hành Quyết định số
01/QĐ-CT ngày 19/11/2019 thay Thông báo số 61, nội dung Quyết định số 01
tương tự nội dung Thông báo số 61. Quyết định số 01 ban hành đúng về trình tự
thủ tục và thẩm quyền, nội dung Quyết định số 01 không làm thay đổi nội dung,
bản chất sự việc và không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của hộ bà
L. Ngày 27/3/2023 Chủ tịch UBND xã ban hành Quyết định số 51/QĐ-CT thu
hồi, huỷ bỏ Thông báo số 61. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L vẫn đề nghị Hội
đồng xét xử hủy bỏ Thông báo số 61, tuy nhiên thực tế Thông báo số
61/TB-UBND ngày 19/11/2019 đã bị hủy bỏ theo Quyết định số 51/QĐ-CT nên
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của bà L là có căn
cứ.
Qua công tác xét xử, Hội đồng xét xử thấy cần rút kinh nghiệm trong
công tác ban hành văn bản hành chính đối Chủ tịch UBND xã V1, việc ban hành
14
các văn bản phải theo đúng mẫu quy định và theo thẩm quyền tránh để người
dân khiếu kiện kéo dài.
[2.2] Về nội dung khởi kiện bà L buộc UBND xã V1 phải bồi thường cho
gia đình bà tiền công đi lại khiếu nại, khiếu kiện từ năm 2018 đến nay là
30.000.000đ. Đây là những chi phí khi bà thực hiện quyền và nghĩa vụ của công
dân khi đi khởi kiện. Thông báo số 61 của Chủ tịch UBND xã V1 không gây ra
những thiệt hại cho bà L. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Tố tụng hành
chính, số tiền 30.000.000 đồng không phải là thiệt hại thực tế do Thông báo số
61 gây ra nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà. Do đó, cấp
sơ thẩm không xem xét chấp nhận yêu cầu của bà là đúng quy định.
[2.3] Đối với những yêu cầu khởi kiện khác của bà L:
- Buộc UBND xã V1 chia bổ sung cho gia đình bà 01 suất đất tiêu chuẩn
ở C1 bị thiếu đợt chia đất năm 1988;
- Buộc UBND xã V1 trả lại cho gia đình bà L 01 suất đất đèn hương Liệt
Sỹ (0,33m x 140m);
- Buộc UBND xã V1 trả lại 02 suất đất dân công cho vợ chồng bà;
- Đề nghị UBND xã V1 trả lại cho bà M 01 suất đất tiêu chuẩn từ năm
1993 trên tất cả các xứ đồng là: Xứ đồng C1, C2, G, G1.
- Buộc ông Đ phải bồi thường cho gia đình bà L số tiền 30.000.000đ do
đã chia thiếu 01 suất đất ở C1, gây thiệt hại cho gia đình bà;
- Buộc ông Đ1 phải bồi thường cho gia đình bà L 50.000.000đ thiệt hại do
ông Đ1 đã tự ý cắt 01 suất đất tiêu chuẩn của bà M trên tất cả các xứ đồng bao
năm qua.
- Xử lý hành vi trái pháp luật của ông Nguyễn Phùng Đ, ông Nguyễn
Công Đ1.
Các yêu cầu khởi kiện trên của bà L đều không phải đối tượng khởi kiện
của vụ án hành chính và không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện V
theo quy định của Luật tố tụng hành chính nên Hội đồng xét xử không xem xét
là có căn cứ.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm bác toàn bộ yêu cầu
kháng cáo của bà Khuất Thị L, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số
01/2024/HC-ST ngày 26 tháng 4 năm 2024 như đề nghị của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc tại phiên tòa phúc thẩm.
[3] Về án phí: Bà Khuất Thị L là thân nhân của gia đình liệt sỹ nên được
miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của ghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tại phiên
tòa là có căn cứ cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Bác kháng cáo của bà Khuất Thị L và giữ nguyên quyết định của Bản án
15
hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 26 tháng 4 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ Điều 17, 31 Luật khiếu nại năm 2011; Khoản 4 Điều 36 Luật tổ
chức chính quyền địa phương;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Khuất Thị L về việc đề nghị Toà án Hủy
Thông báo số 61/TB-UBND ngày 19/11/2019 của UBND xã V1 về việc trả lời
đơn khiếu nại công dân và buộc UBND xã V1 phải bồi thường cho gia đình bà
tiền công đi lại khiếu nại, khiếu kiện từ năm 2018 đến nay là 30.000.000đ (ba
mươi triệu đồng).
2. Về án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm: Bà Khuất Thị L là thân
nhân của gia đình liệt sỹ nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 12 của nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Hoàn trả lại bà L số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005275 ngày 08 tháng
10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- VKSND huyện V
- TAND huyện V;
- Chi cục THADS huyện V;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
16
Tải về
Bản án số 07/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 07/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm