Bản án số 07/2024/DS ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Kạn về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2024/DS

Tên Bản án: Bản án số 07/2024/DS ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Kạn về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Kạn
Số hiệu: 07/2024/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC KẠN
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 07/2024/DS-PT
Ngày: 19/9/2024
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất,
tài sản gắn liền với đất yêu cầu
công nhận quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đàm Thị Minh Hường.
Các Thẩm phán: Bà Vi Thị Tuyết Mai và ông Hoàng Anh Tuấn
- Thư phiên tòa: Hoàng Thị Miên - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Kạn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên toà: Bà Hoàng
Thị Chuyên - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân tỉnh Bắc Kạn
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 02/2024/TLPT-DS ngày 10 tháng
7 năm 2024 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất yêu
cầu công nhận quyền sdụng đấtdo kháng cáo của bđơn Nguyễn Thị V đối
với bản án dân sự thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 28/5/2024 ca Tòa án nhân dân
huyn , tnh Bc Kn. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXPT-
DS ngày 06 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Ma Đình Hn, sinh năm 1971.
Trú tại: Thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có đơn xin xét xvắng
mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Ma Thúy Z, sinh năm 1992.
Theo giấy ủy quyền ngày 28/02/2023.
Trú tại: Tổ 1A, phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
Người B vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đinh Xuân Diệu -
Trợ giúp viên pháp của Trung tâm trợ giúp pháp nhà nước tỉnh Bắc Kạn. (Có
mặt).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1941.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ma Thị I, sinh năm 1971. Theo
giấy ủy quyền ngày 16/9/2024.
Trú tại: Thôn Nà Oóc, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
2
- Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1972.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của Hoàng Th T (theo giấy ủy quyền ngày
28/02/2023): Chị Ma Thúy Z, sinh năm 1992.
Trú tại: Tổ 1A, phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
- Uỷ ban nhân dân xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Văn H, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã BT, huyện .
Người được uỷ quyền: Ông Ma Văn Hn công chức địa chính, xây dựng môi
trường xã BT, huyện (theo giấy ủy quyền ngày 21/9/2023). (Có mặt).
4. Người làm chứng:
- Ông Ma Đình T, sinh năm 1967.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Ma Thị N, sinh năm 1963.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt)
- Ông Mai Quốc H, sinh năm 1960.
Trú tại: Thôn Bản Tuốm, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt)
- Ông Ma Văn Th, sinh năm 1985.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Hoàng Văn V, sinh năm 1944.
Trú tại: Thôn Vằng Quân, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Ma Doãn T, sinh năm 1983.
Trú tại: Thôn Bản Điếng, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt)
- Ông Trịnh Minh Hi, sinh năm 1989.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Ma Thị X, sinh năm 1966.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Đỗ Quốc B, sinh năm 1961.
Trú tại: Thôn Nà Phầy, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
- Ông Ma Văn Hi, sinh năm 1939.
Trú tại: Thôn Bản Tuốm, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. ( Đã chết).
- Bà Mạc Thị V, sinh năm 1939.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Ma Khánh B, sinh năm 1941.
Trú tại: Tổ 5, thị trấn Bằng Lũng, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Đã chết).
- Ông Ma Đức V, sinh năm 1953.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Hứa Thị T, sinh năm 1943.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Lường Thị K, sinh năm 1944.
3
Trú tại: Thôn Bản Tuốm, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Ma Doãn T, sinh năm 1963.
Trú tại: Thôn Bản Điếng, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Hà Văn H, sinh năm 1958.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
- Ông Ma Văn N, sinh năm 1962.
Trú tại: Thôn Bản Tuốm, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Ma Thị T, sinh năm 1958.
Trú tại: Thôn Bản Tuốm, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Ma Thị H, sinh năm 1961.
Trú tại: Thôn Bản Tuốm, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Ma Khánh L, sinh năm 1961.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Hà Thị Thuyên, sinh năm 1970.
Trú tại: Thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
- Bà Ma Thị T, sinh năm 1963.
Trú tại: Tổ 6A, thị trấn Bằng Lũng, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Bà Ma Thị V, sinh năm 1965
Trú tại: Thôn Nà Tông, xã Nghĩa Tá, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
- Bà Ma Thị I, sinh năm 1971.
Trú tại: Thôn Nà Oóc, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
- Bà Ma Thị Lg, sinh năm 1957.
Trú tại: Thôn Bản Điếng, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt).
- Ông Bàn Văn T, sinh năm 1945.
Trú tại: Thôn Pác Pạu, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt).
- Bà Ma Thị T.
Trú tại: Thôn Nà Phầy, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. (Đã chết).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Căn cứ đơn khởi kiện, các chứng ctrong hồ bản án sơ thẩm, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nguyên đơn Ông Ma Đình Hn trình bày:
Thửa đất tranh chấp với Nguyễn Thị V thửa đất số 193; tờ bản đồ 47; diện
tích 708,5m
2
, địa chỉ thửa đất tại thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn, chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa
đất 194; phía Tây giáp ta luy âm đường liên thôn; phía Nam giáp đất ông Hoàng Đức
Chính; phía Bắc giáp thửa đất 180 của ông Ma Khánh Kính. Nguồn gốc thửa đất này
do cha, mđẻ của ông Hn ông Ma Đình D Nông Thị Nậu (đều đã chết) khai
phá, gia đình ông Hn sử dụng liên tục, quá trình s dụng đất như sau:
4
Từ m 1966 đến năm 1982 bố mông Hn khai phá nhiều gốc cây to, đất
mấp mô, không bằng phẳng, sau nhiều năm cải tạo rồi trồng hoa màu như (ngô, rau,
mía) trồng một số khóm tre rìa mảnh đất để chống xói lở. Từ năm 1982 đến năm
1996 gia đình ông Hn chuyển sang đào ao, thả cá. Từ 1996 đến năm 2011 vì không có
nguồn nước ổn định, lòng ao nhiều tre, gia đình ông Hn đã chuyn sang trồng
cây ăn quả như (chanh, cam, quýt, cây tre gai, cây tre bát độ) xuống lòng ao, vì bị úng
do nước đọng và bị cớm nắng nên cây còi cọc, không phát triển bị chết. Cuối
năm 2011, có dự án đo đạc kiểm kê đất đai để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các hộ dân. Bà Nguyễn Thị V và con trai là ông Ma Khánh L đến tranh chấp, chửi
bới, xúc phạm gia đình ông Hn cho rằng mảnh đất này đất của bố mẹ chồng
V khai phá để lại. Do thửa đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền s dụng đất
theo quy định, nên ngày 14/3/2012, ông Ma Đình D (bố đẻ ông Hn) đã làm đơn gửi
đến Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt UBND) xã BT đnghị giải quyết tranh chấp
đất đai. Ngày 30/7/2012, UBND BT tổ chức hoà giải, kết quả hòa giải không
thành. Ngày 06/11/2012, ông Ma Đình D tiếp tục làm đơn gửi đến UBND BT đề
nghị xem xét giải quyết dứt điểm việc tranh chấp đất với gia đình V để gia đình
ông D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Ngày 07/5/2014,
UBND BT tổ chức hoà giải, kết quả hòa giải không thành. Do vẫn tranh chấp
đất giữa hai hộ gia đình n ngày 27/11/2015 UBND BT tiếp tục hòa giải việc
tranh chấp đất đai giữa hộ ông Ma Đình D Nguyễn Thị V, tại buổi hòa giải n
cứ vào quá trình sử dụng đất các tài liệu, chứng cứ do các đương scung cấp
UBND xã BT kết luận: Về nguồn gốc đất qtrình sử dụng đất thì hộ ông Ma
Đình D tiếp tục được quản sử dụng đất tranh chấp. Tuy nhiên để hài hoà giữa hai
hộ, mong muốn hai hộ chia mỗi hộ một phần để sử dụng, canh tác. Ý kiến này không
được ông D nhất trí. Bà V cũng có ý kiến là nếu không hòa giải được thì hộ bà V cũng
không đề nghị cấp trên giải quyết nhường toàn bộ mảnh đất tranh chấp cho hộ gia
đình ông Ma Đình D quản lý, sử dụng. Sau buổi hòa giải ngày 27/11/2015 thì giữa hai
hộ gia đình không có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp gửi đến UBND xã BT nữa.
Từ ngày 28/11/2015 đến hết năm 2021 gia đình ông Hn cho Ma Thị Nga
chị gái ruột ông Hn mượn canh tác, sử dụng trồng ngô liên tục, khoảng thời gian đó
không có ai đến tranh chấp hay có ý kiến gì.
Từ ngày 25/01/2022 đến nay do gia đình ông Hn thấy mấy gốc tre lúc bố mẹ
ông Hn còn sống trồng để chống xói lở và làm ranh giới giữa các hộ từ năm 1966 cớm
nắng, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng nên gia đình ông Hn đã san ủi, múc đi 02
búi tre cải tạo lại lòng ao thành mặt bằng để thuận lợi cho việc canh tác hoa màu thì
bà Nguyễn Thị V xuống ngăn cản tiếp tục tranh chấp.
Ngày 17/3/2022, ông Hn đã làm đơn gửi UBND BT đề nghị giải quyết vụ
việc tranh chấp đất đai đối với mảnh đất số thửa 193, diện ch 708,5m
2
: địa chỉ
thửa đất tại thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. Ngày 01/6/2022 UBND xã BT
tổ chức hòa giải vụ việc tranh chấp đất đai giữa ông Ma Đình Hn Nguyễn Thị
5
V, buổi hòa giải không thành. Gia đình ông Hn không đồng ý kết quả hòa giải của
UBND xã và đã được UBND xã hướng dẫn gửi đơn đến UBND huyện để giải quyết.
Ngày 17/6/2022 gia đình ông Hn có đơn gửi UBND huyện đề nghị xem xét
giải quyết việc tranh chấp đất đai giữa ông Hn và Nguyễn Thị V. Vụ việc đã được
UBND huyện xuống xác minh, sau đó gia đình ông Hn đã nhận được công văn số
119/UBND-VP, ngày 11/10/2022 v việc trả lời đơn thư công dân của chủ tịch
UBND huyện . Tuy nhiên bà V liên tục sang chửi bới, xúc phạm gia đình ông Hn,
ngăn cản không để gia đình ông Hn canh tác trên khu đất này nên ông Hn đã làm đơn
khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện , tỉnh Bắc Kạn yêu cầu giải quyết tranh chấp
đất.
Xung quanh thửa đất tranh chấp hiện nay gia đình ông Hn còn giữ một số búi
tre, hóp cạnh bờ ao, do bố mẹ đẻ ông Hn ông D bà Nậu trồng từ năm 1966 để
làm ranh giới làm hàng rào chắn xói lở đất. Việc gia đình ông Hn khai phá, cải tạo
và sử dụng mảnh đất số 193 có rất nhiều người làm chứng.
Nay ông Ma Đình Hn yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp đất đai giữa
Nguyễn Thị V, yêu cầu gia đình V trả lại thửa đất số 193, tờ bản đồ 47; diện tích
708,5m
2
, địa chỉ thửa đất tại thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn để gia đình
ông Hn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo các quy định của pháp luật.
Đồng thời giải quyết tranh chấp tài sản gắn liền với đất công nhận quyền sử dụng
01 búi tre trên thửa đất số 193 cho gia đình ông Hn.
2.Bị đơn bà Nguyễn Thị V trình bày:
Năm 1957 bà V về làm dâu có được theo bố mẹ chồng là ông Ma Văn Kim và bà
Ma Thị Kiên canh tác trồng màu tại thoi Leo chính thửa đất số 193, tờ bản đồ
47; diện tích 708,5m
2
, địa chỉ thửa đất tại thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn
hiện nay đang tranh chấp với gia đình ông Ma Đình Hn. Bố mẹ chồng V gia
đình canh tác mảnh đất này liên tục đến năm 1960. Từ năm 1960 đến năm 1963 thành
lập Hợp tác xã và có chủ trương I các thoi bãi trồng ngô, sắn vào hợp tác xã, trong đó
gia đình bà có góp thoi Cò Leo vào tập thể theo quy định. Năm 1969 bà được bầu vào
ban quản trị, năm 1970 làm đội trưởng thôn KVằng Quân Đội 2. Đến năm 1976
Hợp tác cải tạo thoi bãi từ thoi Leo đến đầu cầu Tinh tạo thành ruộng lúa
nước, lúc đó ông Hoàng n Chu chủ nhiệm Hợp tác đội trưởng sản xuất
được huy động viên đi đắp bờ cải tạo thành từng đám ruộng lúa nước. Đến năm
1982 theo chỉ thị khoán 100, đến năm 1983 khoán 10 chia diện tích theo nhân khẩu.
Đến năm 1989 hợp tác giải thể lúc đó ông Ma Doãn thư xã, ông Ma Đức
Vượng làm chủ nhiệm Hợp tác đã giao lại đất cho các hộ gia đình đã đóng góp đất
tự canh tác và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Gia đình chồng bà V lấy lại ruộng đất
ông cha góp vào hợp tác xã và thực hiện kê khai địa chính theo quy định, tuy nhiên do
bố mẹ chồng V tuổi đã cao nên giao toàn bộ khu đất nhận lại từ hợp tác cho
cháu trai là Ma Khánh Kính và cháu dâu là Hà Thị Thuyên (con trai và con dâu của bà
V) đứng tên. Con trai cả của V Ma Khánh L năm 1982 đi bđội đến năm 1990
6
về tách hộ ra riêng nên được V chia thửa đất số 193, tờ bản đồ 47; diện tích
708,5m
2
tại thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn để canh tác nHn do xy ra
tranh chấp với gia đình ông Hn nên chưa làm được giấy chứng nhận quyền sdụng
đất.
Vnguồn gốc khai phá, quá trình sử dụng thửa đất thoi Leo của gia đình
V có người làm chứng gồm có: ông Ma Khánh Bì, bà Lường Thị K, bà Mạc Thị a,
Hứa Thị Ti\, ông Ma Đức Vg. Theo đơn ông Hn nói năm 1966 chuyển nhà sang khai
phá canh tác liên tục đến năm 1990, nHn từ năm 1960 đến năm 1963 gia đình bà V đã
I đất vào Hợp tác quản đến năm 1989. Sau khi Hợp tác giải thể, gia đình
được Hợp tác xã giao lại cho gia đình quản lý và sử dụng đến năm 2012 dự án đến
đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình V tiến hành đo đạc thửa
đất số 193 để làm thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất txảy ra
tranh chấp với gia đình ông Ma n Hn, kéo dài nhiều năm cho đến nay. Qua c
cuộc hoà giải, được tổ hòa giải phân tích tình làng nghĩa m nên đã chia cho nhà
ông Hn sử dụng 1 nửa mảnh đất của gia đình bà khai phá theo bản đồ địa chính
thửa số 194, còn gia đình V sử dụng nửa còn lại thửa số 193. Nay ông Hn khởi
kiện yêu cầu được sử dụng thửa đất số 193, V không nhất trí. Gia đình ông D (bố
ông Hn) cho rằng canh tác liên tục từ năm 1966 đến năm 1990 không đúng thực tế.
Năm 1966 ông Ma Đình n bố ông Ma Đình D và ông nội của ông Ma Đình Hn
Khuổi Lào sang hỏi xin bố mẹ chồng V ông Ma Văn Kim Ma Thị Kiên
mảnh đất vườn chuối, vườn cây bông vải sợi để làm nhà ở, là chỗ hiện nay là của
ông Ma Đình Hn. do gia đình ông An bên Khuổi Lào không con trai nên bố
mẹ chồng V nhất trí phá vườn để gia đình ông An con trai ông Ma Đình D
sang xây dựng nhà trong năm 1966, đến năm 1967 ông D đẻ được con trai ông
Ma Đình IIO(anh trai ông Ma Đình Hn), nHn gia đình ông Hn không cảm ơn còn
tranh chấp thêm mảnh đất thoi Cò Leo là thửa đất số 193 của gia đình bà V.
Về quá trình sử dụng khu đất tranh chấp của gia đình V như sau: Từ năm
1957 đến năm 1963 trồng ngô, sắn, khoai lang, cây mía, hiện trạng thửa đất soi i
tự nhiên, bằng phẳng. m 1963 I đất vào Hợp tác xã, Hợp tác quản từ năm
1963 đến năm 1989, năm 1976 Hợp tác cải tạo thành ruộng để trồng lúa nước. Từ
năm1989 đến năm 2012 không ai quản lý, sử dụng sau khi Hợp tác giải thể
gia đình V trồng ngô được hai năm nHn do các búi tre cớm nắng không năng suất
nên không trồng nữa, đến năm 2012 gia đình bà V lại tiếp tục phát để trồng ngô thì
ông D ngăn cản không cho làm. Từ m 2012 đến năm 2015 xảy ra tranh chấp với
ông Ma Đình D đến nay chưa được giải quyết dứt điểm. Năm 2021 2022 thấy
Nga chị gái ông Hn trồng ngô, sau đó thấy gia đình ông Hn thuê máy về san ủi múc đi
02 búi tre, năm 2023 Nga phát cỏ đtrồng ngô nên V ngăn cản dẫn đến xảy ra
tranh chấp vụ án bây giờ.
V cung cấp những người làm chứng biết nội dung sự việc : Ông Ma Doãn
T, nguyên chủ nhiệm hợp tác xã, Bí thư đảng uỷ xã; ông Hà Văn Hg, ông Ma Văn N,
7
bà Ma Thị Tỷ, bà Ma Thị H, ông Ma Khánh L, ông Ma Khánh K, bà Ma Thị T, bà Ma
Thị Vi, bà Ma Thị I, bà Ma Thị Tut, bà Hà Thị Tn, ông Hà Văn Hg biết và làm chứng
quá trình khai phá, sử dụng mảnh đất tranh chấp của gia đình bà.
Năm 1976 thửa đất số 193 được hợp tác khai phá thành ruộng trồng lúa
nước, còn thửa đất số 194 hợp tác xã không quản lý sử dụng nữa nên gia đình bà V đã
nhận lại được quản lý, sdụng trồng màu. Thửa đất soi Leo của gia đình I
vào hợp tác tương đương trồng được 03 ng ngô hạt giống theo bản đồ địa chính
năm 2012 gồm thửa 180 diện tích 863,5m
2
, 193 diện tích 708,5m
2
, 194 diện tích
779,7m
2
. Tổng diện tích 03 thửa là: 2.351,3 m
2
, 03 thửa đất số 180, 193, 194 đều của
gia đình V I vào Hợp tác từ năm 1963. V được biết đất thoi Leo của gia
đình ông D I vào hợp tác chỗ đất khác không phải chỗ tranh chấp bây giờ. Tuy
nhiên, V không còn lưu trữ tài liệu giấy tờ gì liên quan đến thửa đất tranh chấp.
Việc gia đình bà góp đất vào Hợp tác xã thực hiện bằng miệng không có sổ sách, giấy
tờ gì, tại thời điểm góp đất vào Hợp tác xã nhiều loại đất trong đó có đất soi bãi
tên gọi thoi Cò Leo, diện tích không cụ thể bao nhiêu nên không nhớ. Quá
trình sử dụng Hợp tác xã Bình Thành cải tạo mảnh đất tranh chấp thành ruộng lúa
nước vào năm 1976, đến năm 1989 thì giải thể, sau năm 1989 hợp tác giải thể
giao đất lại cho hộ gia đình nHn không giấy t từng hộ gia đình tự lấy đất
của mình đã góp vào hợp tác xã. Năm 1989 gia đình bà cũng lấy các thửa đất góp vào
hợp tác xã về nHn gia đình bà không kê khai mà đến năm 2011 mới kê khai thì xảy ra
tranh chấp. Ngoài ra V còn giải trình thửa đất 193 đang tranh chấp thửa đất số
194 cũng được I vào hợp tác của gia đình quản lý, sử dụng trước năm 2012,
khi giải thể hợp tác thì gia đình gia đình ông D thỏa thuận với nhau về việc
ông D canh tác thửa đất số 194 đổi thửa ruộng khác cho V, nHn ông D sử dụng
mảnh đất số 194 mà không đổi thửa ruộng khác lại cho gia đình bà V, V đã để cho
gia đình ông D sử dụng mảnh đất số 194 thì nay ông D phải trả thửa đất số 193 cho
gia đình bà.
Hiện tại trên thửa đất tranh chấp còn 01 búi tre do hợp tác trồng đchống
xói lở. NHn ông D nói các búi tre là do ông D trồng thì V không tranh chấp các
búi tre để gia đình ông Hn quản lý, sử dụng. Nay bà V không đồng ý đối với toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hn.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
[3.1] Bà Hoàng Thị T trình bày:
vcủa ông Ma Đình Hn. Về nguồn gốc đất, qtrình sử dụng đất đúng
như lời trình bày của ông Ma Đình Hn. nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông Ma
Đình Hn, không có yêu cầu độc lập nào khác.
[3.2] Đại diện UBND xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn trình bày:
Về quá trình giải quyết tranh chấp và hoà giải giữa hai hộ ông Ma Đình Hn và bà
Nguyễn Thị V tại UBND BT kéo dài nhiều năm, UBND BT đã tiến hành xác
minh, hoà giải nhiều lần và báo cáo nội dung vviệc tranh chấp đất đai tnăm
8
2012. Dựa trên sở lời khai hai bên đương sự quá trình xác minh với các nhân
chứng, không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh về nguồn gốc đất do ai khai phá
đầu tiên. Về quá trình quản lý, sdụng đất thì cũng chỉ dựa vào lời khai của các bên,
các nhân chứng và các tài sản trên đất. Có căn cứ hộ ông D quản lý, sử dụng đất tranh
chấp liên tục từ từ năm 1966 đến năm 1989. Tuy nhiên, căn cứ vào hồ sơ địa chính đo
đạc năm 2012 tại sổ mục kê quyển số 001 năm 2012 thửa đất số 193, tờ bản đồ 47,
địa chỉ tại thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn không tên người sử dụng,
quản lý. Việc kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với thửa đất
chưa có hồ nào. Thửa đất số 193, tờ bản đồ 47 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Qua kiểm tra các hồ sơ, tài liệu lưu trữ tại UBND BT hiện nay
không hồ sơ tài liệu lưu trữ liên quan đến việc mảnh đất tranh chấp được nhân
hoặc hộ gia đình nào giao vào hợp tác tnăm 1963 đến năm 1989, nên UBND
BT không sở xác định mảnh đất tranh chấp số thửa 193 được góp vào
hợp tác hay không hợp tác sử dụng hay không sử dụng hoặc giao khoán
cho hộ gia đình nào canh tác diện tích đất đang tranh chấp giữa hộ ông Hn với V
trong giai đoạn hợp tác còn hoạt động (giai đoạn 1963-1989). Tại thời điểm hiện
nay nếu thửa đất không tranh chấp, đủ điều kiện thì vẫn thể được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân theo quy định.
4. Trong quá trình tố tụng tại phiên a những người làm chứng trình
bày như sau:
[4.1] Ông Ma Đình IIOvà bà Ma Thị Ng trình bày:
Ông IIOvà bà Ng là anh trai chị gái ruột của ông Hn, con ruột của ông Ma
Đình D. Về nguồn gốc mảnh đất tranh chấp theo bố mông Tuyến, Nga kể lại do
bố mông Tuyến, Nga ông Ma Đình D và Nông Thị Nu khai phá từ năm
1966 sử dụng ổn định liên tục đến nay. Năm 1982 ông Ma Đình D đã đào một
đoạn mương nối từ IIOmương của Hợp tác xã dẫn nước, đồng thời đắp bờ xung quanh
thửa đất để thả cá. Đến năm 1986 gia đình cải tạo lại đắp tôn cao bờ và có nhờ một số
anh em họ hàng thôn bản cùng đào đắp cải tạo thành một cái ao hoàn chỉnh để nuôi
thả cá. Đến năm 1993 bố mẹ ông IIONg giao cho ông Hn con trai tiếp tục
canh tác, nHn do IIOmương của Hợp tác xã đã lâu ngày không được nạo vét tu sửa, bị
vùi lấp nên không nguồn nước vào ao, đồng thời mấy bụi tre gai do ông D trồng
trước đây phát triển mạnh rụng nhiều xuống ao không tiếp tục nuôi thả được.
Nên gia đình ông Hn chuyển sang trồng các cây cam, quýt, tre bát độ xuống lòng ao,
chỗ đọng nước thì trồng rau muống, rau dăm... nHn do cớm và lá tre rụng nên các loại
cây còi cọc phát triển kém, tuy nhiên gia đình ông Hn vẫn canh tác quản mảnh
đất tranh chấp. Đến năm 2011 đoàn đo đạc đến thôn đo các mảnh đất chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Gia đình ông Hn tiến hành đo đạc mảnh đất
số 193 và 194 thì gia đình V cũng xuống yêu cầu đo mảnh đất này cho gia đình bà
V do đó xảy ra tranh chấp. Ông Ma Đình D là bố của ông Ma Đình Hn đã làm đơn lên
UBND đề nghị giải quyết. Năm 2012 - 2014 tổ chức hoà giải nhiều lần nHn
9
không thành, đến buổi hòa giải cuối cùng năm 2015 UBND xác định đất thuộc
quyền quản lý, sdụng của gia đình ông Hn. vậy năm 2016 Nga mượn ông
Hn để canh tác trồng ngô hai mảnh đất, một mảnh đang tranh chấp và một mảnh giáp
bờ sông. Quá trình canh tác năm 2016 năm 2017 bà Nga có thuê Ma Doãn Th cày
bừa. Năm 2018 có thuê Trịnh Minh Hi cày bừa. Năm 2020 thuê Ma Doãn Th cày bừa,
năm 2021 thuê Ma Văn Th cày bừa. Năm 2022 bà V lại đến tranh chấp nên Ng
dừng canh tác từ đó theo biên bản hòa giải của UBND . Theo bà Nga và ông IIOthì
từ trước tới nay gia đình V chưa bao giờ canh tác trên mảnh đất hiện đang tranh
chấp. Mà chỉ có gia đình ông Hn canh tác, sử dụng liên tục.
[4.2] Ông Mai Quốc H trình bày:
Ông Huy xác nhận năm 1986 gia đình ông Ma Đình D có nhờ ông Huy giúp gia
đình ông D đào và đắp ao trên mảnh đất đang tranh chấp hiện nay. Tại thời điểm nh
ông Huy giúp đào ao thì gia đình ông D đã cải tạo đắp thành cái ao thả quản lý,
sử dụng không ai tranh chấp. Ông Huy giúp ông D đào để thành cái ao hoàn
chỉnh độ sâu khoảng 1m rộng khoảng 800m². Sau đó ông Huy đi ng tác nên
không nắm được quá trình sử dụng ao cá của nhà ông D sau này cải tạo như thế nào.
[4.3] Các ông Ma Văn Thc, Ma Doãn T, Trịnh Minh Hi trình bày:
Ông Thức, ông Thế, ông Hải xác nhận vào khoảng thời gian tnăm 2016 đến
năm 2021 các ông được cày thuê cho Ma Thị Nga con gái ông D tại thửa đất
dưới nhà ông Hn, chính thửa đất đang tranh chấp hiện nay giữa ông Hn V.
Trong quá trình cày thuê không thấy ai trong gia đình V ngăn cản, chỉ thấy gia
đình Nga, ông Hn canh tác. Tại phiên toà ông Thế, ông Hải khẳng định khi cày
thuê cho bà Nga thì không thấy có bụi chuối nào trên khu đất tranh chấp.
[4.4] Ông Hoàng Văn V trình bày:
Ông Hoàng Văn Vỳ xác nhận theo ông được biết mảnh đất vườn ao dưới nhà
ông Hn của ông D khai pđầu tiên. Sau khi khai phá, ông D trồng tre dọc hai bờ
xung quanh. Cái ao của nông D đắp quản . Mảnh đất do ông D khai phá từ
đầu thoi Leo đến dưới nhà ông Hn. Thửa đất tranh chấp không được góp vào Hợp
tác xã, bà V tranh chấp thửa đất đó là không đúng.
[4.5] Bà Ma Thị X trình bày:
Năm 1988 đến làm con dâu của ông Ma Đình D. Tháng 10 âm lịch năm 1989
cùng em chồng là ông Hn khai phá mở rộng thêm một mảnh đất là thửa đất số 194
hiện nay. Mảnh đấtvà ông Hn khai phá thêm liền kề với ao (là mảnh đất số 193
đang tranh chấp với V) để làm vườn trồng vụ đông xuân như su hào, bắp cải, cải
canh lúc đó không có ai làm vườn hoặc canh tác trên soi bãi này. đất bồi ven bờ
sông, cách sông chừng khoảng 8m đến 10m nHn ranh giới giáp với đất nhà V vẫn
giữ nguyên, lúc đó em chú ông Hn khai phá bãi đất đó vài cây i nhỏ
bằng cổ tay cây rau dớn, các loại cỏ khác nhau. Tại thời điểm hai chị em đến
khai phá không ai ý kiến hoặc cản trở. Đúng cùng năm đấy V cũng xuống
khai phá một mảnh đất liền kề về phía bắc hiện tại gia đình bà V đang canh tác, chứ
10
không phải mảnh đất đang tranh chấp hiện nay. Bà khẳng định rằng lúc hai chị em
khai phá đất bãi bồi ven sông chưa ai quản chưa ai chia cho mảnh đất
đó đến năm 1993 bà tách hộ ra ở riêng, hai chị em bà chia nhau mỗi người một nửa để
trồng rau. Đến năm 1995 mảnh đất này gần với ao của gia đình ông Hn nên
để lại cho gia đình em chú ông Hn canh tác hết thửa đất hai chị em khi phá thửa
194, gia đình ông Hn vẫn canh tác quản lý sử dụng liên tục hai thửa đất số 193 và 194
cho đến bây giờ.
[4.6] Ông Đỗ Quốc B trình bày:
Cuối năm 1990 sau khi phục viên về ông có sang chơi nhà ông Ma Đình D bố đẻ
của ông Hn câu ao bên dưới nhà ông D gần đường ra suối. Năm 2015
mấy lần sang hái rau muống rau răm đều gặp Tông mẹ của ông Vinh thôn
Kcũng xin rau ao nhà ông D. Đến năm 2018 ông vẫn thường xuyên lấy măng tre
với bụi tre xung quanh mảnh đất đó. Tôi thấy gia đình ông D, ông Hn canh tác trên
mảnh đất đấy liên tục, chưa bao giờ thấy gia đình bà V canh tác trên đất đó. Trong
quá trình sang câu cá, xin rau, lấy măng thì tất cả mọi người đều nói của gia đình
ông D, chưa thấy ai nói đất của nhà V. Khu đất ao bụi tre của nhà ông D
chính là khu đất tranh chấp giữa gia đình ông Hn và bà V hiện nay.
[4.7]Ông Ma Văn Hp trình bày:
Từ năm 1963 đến 1964 ông làm phó chủ nhiệm Hợp tác Tân Thành, xã BT.
Từ năm 1965 đến 1967 ông làm thư Đoàn BT. Năm 1973 trở đi ông làm Ch
tịch UBND xã BT, sau đó về nghỉ hưu tại thôn Bản Tuốm, xã BT, huyện , tỉnh Bắc
Kạn. Qtrình sinh sống và làm việc tại địa phương nên ông nắm các khu đất của
các hộ gia đình góp vào Hợp tác được Hợp tác quản lý. Nguồn gốc đất tranh
chấp năm 1966 ông D chuyển từ nơi khác đến sinh sống tại ch bây giờ, khi
chuyển đến thì năm 1967 ông D bắt đầu khai phá mảnh đất tranh chấp hiện nay
sử dụng cho đến bây giờ. Cây tre của ông D trồng, còn trồng năm nào ông không
nhớ rõ. Mảnh đất đang tranh chấp giữa nhà ông Hn V hiện nay, không đưa vào
Hợp tác Hợp tác không quản lý. Ông Kim (bchồng V) ông D (bố đẻ
ông Hn) có góp mảnh đất thoi Cò Leo vào Hợp tác xã nHn là hai mảnh đất khác ở bên
kia sông chứ không phải mảnh đất dưới nhà ông Hn hiện nay đang tranh chấp.
Mảnh đất đang tranh chấp hiện nay không phải đất của Hợp tác quản lý. Đất
của ông D khai phá, sau này ông D cải tạo thành ao thả cá, rồi cải tạo thành vườn
sử dụng liên tục từ khi khai phá đến bây giờ. Nên ông D người được quản lý, sử
dụng mới đúng.
[4.8] Ma Thị L trình bày:
Lường sinh năm 1957 tại thôn KA, đến năm 1979 đi làm dâu tại thôn Bản
Điếng, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. biết vị trí, địa chthửa đất tại thoi
Leo hiện nay đang tranh chấp nguồn gốc đất thì nghe người già kể do ông Ma
Đình D khai phá, sử dụng trồng hoa màu t1966. Năm 1968 biết ông D trồng
được 11 gốc tre để làm hàng rào thửa đất đang tranh chấp bây giờ. Tre không phải của
11
Hợp tác giao cho ông D trồng, tre của ông D tự trồng để làm ranh giới đất
ngăn xói lở. Từ khi còn nhỏ đến bây giờ chỉ thấy gia đình ông D quản lý, sử
dụng thửa đất tranh chấp chứ không thấy gia đình bà V canh tác trên đất đấy bao giờ.
Đất tre trên đất không phải của Hợp tác , đất đó cũng không phải của bố mẹ
trồng bà V I vào hợp tác xã.
[4.9] Ma Thị T trình bày:
Tiến sinh năm 1937 tại Phầy, BT, qtrình sinh sống lớn lên đến năm
1961 đi lấy chồng tại thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn, đến năm 1980 lại
quay về thôn Phầy sinh sống đến nay. Về mảnh đất đang tranh chấp hiện nay
không biết vị trí, hiện trạng, không biết đất của ai khai phá, không thấy ai sdụng
kể cả nhân hay Hợp tác xã. Tuy nhiên, Khoảng năm 1987 thấy ông Ma Đình
An, Trần Thị (là bố mẹ đẻ của ông D ông nội của ông Hn), ông Ma
Đình D phát và quản lý mảnh đất này nHn nguồn gốc đất thì bà không biết.
[4.10] Ông Ma Khánh trình bày:
Ông con trai thứ hai của ông Ma Văn Kim và bà Ma Thị Kiên ở xóm Bản Tuốm,
BT, huyện , em trai chồng của V. Năm 1952 -1953 bố ông khai phá chỗ
đất Leo để trồng ngô liên tục tnăm 1953 đến năm 1960. Đến năm 1960 địa
phương tchức thành lập Hợp tác Nông nghiệp. Năm 1963 gia đình ông góp soi
bãi Cò Leo vào Hợp tác xã để làm tài sản chung cho tới khi Hợp tác giải thể. Đến năm
2012 xảy ra tranh chấp với gia đình ông Ma Đình Hn con của ông Ma Đình D. Năm
1966 ông D Khuổi Lào cách chỗ hiện nay 2 km nHn ông Ma Đình Hn lại nói bố
mẹ khai ptừ 1966 nvậy không đúng thực tế. Chỗ đất Leo tài sản của
Hợp tác ông D cố tình tham ô làm của riêng cho nên mới xảy ra kiện cáo cho đến
bây giờ. Ông Bình cho rằng người làm chứng gồm Tiên, Kim, V, ông
Vượng và bà con trong xóm biết sự việc.
[4.11] Hứa Thị T trình bày:
Tiên xác nhận khi về làm dâu địa phương, mảnh đất đang tranh chấp
giữa ông Hn với bà V trước đây là của ông Kim, bà Kiên bố mẹ chồng bà V, khai phá,
sử dụng rồi nộp vào Hợp tác xã.
[4.12]Lường Thị K trình bày:
Năm 1961 Kim về làm dâu địa phương. Bãi đất đang tranh chấp giữa ông
Hn với V thì do ông Kim, Kiên bố mẹ chồng V khai phá sử dụng rồi I
vào Hợp tác . Năm 1962-1963 Kim được trồng khoai lang trên bãi đất đó. Năm
1963 I vào Hợp tác xã, giai đoạn từ năm 1963 đến năm 1989 thuộc đất chung của Hợp
tác xã. Năm 1982 gia đình ông Hn đắp ao là không đúng thực tế vì năm 1976 Hợp tác
đã khai phá mảnh đất tranh chấp này thành ruộng lúa nước. Năm 1989-1990 Hợp
tác giải thể thì hộ gia đình V nhận lại mảnh đất này về canh tác liên tục đến
năm 2012 thì xảy ra tranh chấp.
[4.13] Ông Ma Doãn Ttrình bày:
12
Ông Tường xác nhận. Từ m 1970 - 1973 ông làm chnhiệm Hợp tác nông
nghiệp Tân Thành, xã BT. Các soi bãi làm ngô trong đó có soi Cò Leo của gia đình
V đã I từ khi vào Hợp tác nông nghiệp, do Hợp tác quản làm ra sản phẩm
để phân phối chung. Ông Tg giải trình thêm, năm 1989 – 1990 khi Hợp tác xã giải thể
theo chủ trương chung, các hộ gia đình đều được lấy lại đất đai trước đây đã nộp
vào Hợp tác xã, khi lấy lại đất thì từng gia đình đất đã góp vào hợp tác sẽ biết
đất đai của gia đình mình đâu để lấy, chứ không cần phải tìm xem sổ sách. Qua
nhiều đợt nhận lại đất thì đến nay các hộ trong thôn đều đã làm thủ tục và được cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với phần đất gia đình họ lấy lại khi hợp
tác giải thể. Đồng thời ông Tường cung cấp cho tòa án 1 số trang sổ ghi chép của
hợp tác nội dung hộ ông Kim bố chồng V hộ ông D bố đẻ của ông Hn
đứng tên một số thửa ruộng đất trong đó cả hai hộ đều thoi Leo, nHn do thời
gian bị mục nát một phần nên không rõ sổ đó sổ gì, nội dung cũng không ghi đất
do hợp tác giao cho các hộ gia đình canh tác hay đất do c hộ gia đình góp vào
hợp tác xã.
[4.14] Ông Hà Văn H trình bày:
Ông Hg sinh năm 1958, năm 1966 ông Hg chăn trâu khu vực soi bãi được
chứng kiến gia đình ông Kim canh tác trên mảnh đất tranh chấp này. Về nguồn gốc
đất tranh chấp ông Hg khẳng định của ông cụ Ma Văn K bố chồng của V.
trước đó ông K vẫn cùng con cháu canh tác quản sử dụng không giao cho hkhác.
Gia đình V vẫn sử dụng liên tục trồng ngô khoai đến năm 2011 mới xảy ra tranh
chấp giữa hai hộ, ông xác nhận bãi soi đó là của V không phải là của ông Hn.
[4.15]Ông Ma Văn N trình bày:
Ông N là em con chú ruột của ông Nguyên chồng bà V. Nguồn gốc đất soi bãi
của ông K. Từ trước đó ông K vẫn cùng con cháu canh tác quản sử dụng liên tục
trồng màu đến năm 2011 mới xảy ra tranh chấp giữa hai hộ. Ông xác nhận soi bãi đó
là của bà V con dâu ông Kim.
[4.16]Ma Thị Th trình bày:
Bà Thuỷ xác nhận từ năm 2001 bà đi lại làm ruộng ở bên đấy thì thấy gia đình bà
V trồng chuối bãi soi đang tranh chấp sau đó đi lại vẫn thấy gia đình V
chăm sóc liên tục. Thuỷ trình bày thêm thửa đất Leo này gia đình V I vào
Hợp tác xã. Năm 1976 Hợp tác xã khai phá thành ruộng. Năm 1982 giao khoán ruộng
Cò Leo cho hộ ông Hn canh tác nHn vẫn thuộc tài sản Hợp tác xã quản lý. Năm 1989-
1990 Hợp tác xã giải thể hộ bà V nhận lại đất ruộng Cò Leo trước đây I cho tập thể v
canh tác liên tục trồng ngô, khoai, trồng chuối. Đến năm 2012 xảy ra tranh chấp
với gia đình ông Hn. Việc Ông Hn nói 1966 từ Khuổi Lào chuyển sang mới khai phá
là không đúng với thực tế vì không có việc khai phá hai lần một mảnh đất.
[4.17] Bà Ma Thị H trình bày:
xác nhận từ năm 1993 đi lại làm ruộng chăn trâu, thấy nhà V trồng
ngô, khoai, chuối ở bãi soi, đến năm 2011 lại thấy có sự tranh chấp giữa bà V với ông
13
Hn. Năm 1962 -1963 nghe các ông, kể lại ruộng, soi bãi của hộ dân đều nộp vào
Hợp tác làm tập thể, khoán 10, trong đó soi Leo của V. Năm 1976 Hợp tác
xã khai phá thành ruộng. Năm 1982 giao khoán ruộng Cò Leo cho hộ ông Hn canh tác
nHn vẫn thuộc tài sản Hợp tác quản lý. Năm 1989-1990 Hợp tác giải thể hộ
V nhận lại đất ruộng Cò Leo trước đây I cho tập thể về và canh tác liên tục trồng ngô,
khoai, trồng chuối. Đến năm 2012 xảy ra tranh chấp với gia đình ông Hn. Việc Ông
Hn nói 1966 khai phá không đúng với thực tế trước khi nộp vào Hợp tác soi
bãi đều đã được hộ khai phá canh tác, không việc mới khai phá lần 2.
khẳng định soi Cò Leo là của hộ bà Nguyễn Thị V.
[4.18] Ông Ma Khánh L trình bày:
Ông là cháu nội ông Kim ng Kim chết năm 1995), con đẻ ông Ma Văn Ngn
Nguyễn Thị V. Tháng 7 năm 1980 ông L nhập ngũ vào bộ đội, năm 1989 phục
viên. Tnăm 1976 đến tháng 7 năm 1980 ông L được tham gia theo đội sản xuất của
thôn Klấy công điểm được tham gia khai phá từ soi bãi trồng ngô sang làm ruộng
trồng lúa nước từ soi Leo đến soi bãi đầu cầu Tinh thuộc đội sản xuất KA.
Năm 1976 được tham gia đào mương dẫn nước từ khe suối Kxuống cánh đồng
Thoi điểm cuối ơng xả gần ruộng khai phá từ soi Leo. Đến năm 1989 ông về
phục viên, Hợp tác giải thể gia đình ông lấy lại ruộng đất soi bãi trước đây đã nộp
vào Hợp tác xã trong đó có soi Cò Leo. Từ tháng 8 năm 1989 ông còn ở chung với gia
đình canh tác trồng ngô khoai trên diện tích đất này. Đến năm 1991 ông ra riêng
bố mẹ ông chia thửa đất Leo cho gia đình ông một nửa, do con còn nhỏ hai gia
đình vẫn canh tác chung. Đến năm 2001 do một bụi tre cớm nắng nên chuyển sang
trồng chuối. Đến năm 2011 thực hiện theo dự án đo đạc đất soi bãi theo quy định của
nhà nước mới xảy ra tranh chấp với hộ gia đình ông Hn.
[4.19] Hà Thị Thn trình bày:
Tháng 10 năm 1990 bà Thuyên kết hôn với ông Ma Khánh Kh con trai của
ông Ma Văn Ngu Nguyễn Thị V. Ông Kính cháu nội của ông Ma Văn Kim
bà Ma Thị Ki sinh sống tại thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn. Ông Ma Khánh
Kính chồng Thn, sinh năm 1968, từ năm 1978 đã được phụ giúp ông, bố, mchăn
trâu biết soi bãi Leo được Hợp tác quản chuyên trồng lúa nước. Đến năm
1981 có chủ trương giao ruộng khoán 100, khoán 10 cho hộ tự canh tác diện tích, chia
theo số nhân khẩu của hộ nộp phần trăm thóc cho Hợp tác xã. Trong đó ruộng
Leo là đất đang tranh chấp hiện nay được Hợp tác xã giao khoán cho hộ ông D bố ông
Hn. Năm 1989 Hợp tác xã giải thể không quản lý gia đình chồng bà Thu lấy lại ruộng
đất soi bãi trước đây nộp vào Hợp tác về tsản xuất và nộp thuế cho nhà nước
theo quy định, trong đó đất soi bãi Leo. Năm 1990 Th về làm dâu, gia đình
hai anh em vẫn chung một nhà nên cùng canh tác liên tục trồng ngô, lạc, khoai lang.
Năm 2001 do búi tre sườn đồi cớm nắng nên gia đình chuyển sang trồng chuối.
Năm 1991 anh L, chị Tu ra riêng, bố mchồng chia nửa soi bãi Leo cho anh L,
chị Tuyết. Tuy ở riêng nHn con còn nhỏ nên gia đình vẫn canh tác chung là trồng ngô,
14
lạc, khoai lang, chuối. Đến năm 2011 thực hiện theo dự án đo đạc đất soi bãi theo quy
định của nhà nước mới xảy ra tranh chấp đất giữa mẹ chồng là bà V, anh trai là ông L,
chị dâu T với ông Ma Đình Hn. Quá trình giải quyết tranh chấp tại chính quyền
địa phương không thành. Ngày 07/01/2022 và ngày 24/01/2022 bà Nga lấy máy xúc
san lấp hết với mục đích xoá hết thực trạng ban đầu soi bãi Leo của gia đình
Thuyên để làm lợi cho gia đình ông Hn.
[4.20]Ma Thị Th trình bày:
Thân con gái ruột của V. nắm rất chính xác về bãi soi leo
trước năm 1990 khi thành lập Hợp tác xã, tất cả mọi người đều phải thực hiện I ruộng,
soi bãi, trâu vào Hợp tác quản lý, thời điểm đó được tham gia lao động sản
xuất theo gia đình để lấy công điểm. Năm 1978 - 1979 học sư phạm ra trường dạy học
tại huyện nHn ngày nghỉ hè, ngày thbảy, chủ N vẫn thường xuyên về tham
gia lao động sản xuất. Năm 1981 Thân đi lấy chồng Yên Mỹ, huyện , tỉnh
Bắc Kạn các em còn đi học nên vẫn về giúp gia đình. Từ năm 1990 Hợp tác
giải thể ruộng, soi bãi, trâu Hợp tác trả lại cho chủ cũ. Từ đó gia đình canh tác
liên tục trên soi bãi Leo, nHn do búi tre nhà ông D bố đẻ ông Hn trồng cớm sang
kI soi nhà bà không đủ ánh sáng nên hoa màu không phát triển được, không thu được
kết quả cao. Đến cuối năm 2001 gia đình chuyển sang trồng chuối. Năm 2011 soi
Cò Leo được dự án đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình thì
xảy ra tranh chấp. Thân khẳng định thửa đất soi Leo là của gia đình bà, do ông
bà khai phá để lại, cả họ tộc nhà bà đều biết.
[4.21] Bà Ma Thị V trình bày:
Bà Vui là con gái ruột của bà V, bà sinh ra và lớn lên tại thôn KA, BT, lớn lên
được đi theo V làm việc từ thời kỳ làm ăn tập thể, thời kỳ giao khoán đất ruộng.
Năm 1985 đi lấy chồng tại thôn Tông, xã Nghĩa Tá, huyện , tỉnh Bắc Kạn, tuy
nhiên Vui vẫn đi lại giúp bố manh chị các em những công việc cần thiết.
Trong đó giúp gia đình mẹ trồng ngô, khoai, lạc tại khu bãi Cò Leo. Do có búi tre của
ông D bố ông Hn trồng cớm ra nên ngô không tốt. Năm 1997 Vui về trồng lạc
trồng khoai lang chăn lợn. Đến năm 2011 đo giao đất đai theo dán thì xảy ra tranh
chấp với gia đình ông Hn.
[4.22]Bà Ma Thị I trình bày:
Bà I là con gái ruột của bà V, bà I sinh ra tại thôn KA, Xã BT, lớn lên đi theo mẹ
các anh chị lao động từ thời kỳ còn làm ăn hợp tác xã, khi giao khoán đất bãi, đất
ruộng. Năm 1989 đi lấy chồng tại thôn Nà Oóc, xã BT, nHn vẫn luôn đi lại giúp đỡ bố
mẹ anh chị làm những công việc cần thiết, trong đó giúp canh tác tại bãi soi
Leo, cụ thể giúp anh Ma Khánh L, anh Ma Khánh Kính, chị Ma Thị Tuyết, chị Hà
Thị Thuyên trồng ngô, lạc, khoai. Do búi tre của gia đình ông D bố của ông Hn trồng
cớm ra, không đủ ánh sáng nên ngô, lạc không thu được kết quả. Cuối năm 2001 gia
đình chuyển sang trồng chuối, chính tay bà I còn được hộ trồng. Năm 2011 đến lúc đo
đạc theo dự án thì xảy ra tranh chấp.
15
[4.23] Bà Mạc Thị V trình bày:
Va họ hàng với bên chồng của V và cùng thôn với nhau. Về nguồn
gốc thửa đất tranh chấp thì Va không biết thửa đất được khai phá khi nào, ai
người khai phá. Năm 1975, khi Va đến làm dâu tại thôn đã thấy ông Ma Văn K
bố chồng V quản lý, sdụng để trồng ngô. Gia đình ông K trồng ngô đến năm
1959 từ năm 1960 gia đình ông K có đưa vào Hợp tác xã hay không thì bà không biết
nHn khẳng định thửa đất hiện nay đang tranh chấp giữa ông Hn với V của
ông cha cụ thể của bố chồng V ông Kim khai phá ttrước năm 1957. Mấy
năm gần đây thì các con ông D khai thác sdụng còn sau khi Hợp tác giải thể thì
ai quản lý sử dụng khai thác bà không nắm rõ.
[4.24] Ông Bàn Văn Tr trình bày:
Ông Trân xác nhận. Quá trình sinh sống, công tác từ những năm 1960 tại chỗ
bây giờ thôn Pác Pạu, BT. Cụ thể năm 1960 đến 1967 dạy học đến năm 1975
làm thư ký đội sản xuất của hợp tác xã. Mảnh đất đang tranh chấp hiện nay không đưa
vào hợp tác xã. Quyển sổ mục ông Ma Doãn Tường cung cấp cho Toà án do
chính tay ông viết, chép từ sổ cái của hợp tác xãông cũng không rõ Ban chủ nhiệm
hợp tác xã yêu cầu chép quyển sổ này để sử dụng vào mục đích gì. Soi Cò Leo ghi tại
trang tên ông Ma Văn Kim ông Ma Đình D không phải là thửa đất tranh chấp
hiện nay. Ông khẳng định mảnh đất đang tranh chấp không đưa vào Hợp tác (đất
nông nghiệp trồng lúa mới đưa vào Hợp tác xã, còn đất trồng ngô thì không đưa vào
Hợp tác xã). Thực tế năm 1989 Hợp tác giải thể thì hộ dân nào có đất đưa vào Hợp tác
xã thì hộ đó đã lấy lại để canh tác ổn định từ hồi đó đến nay.
[4.25] Ông Ma Đức V trình bày:
Ông Vượng xác nhận. Năm 1960 được Nhà nước vận động toàn dân tham gia
Hợp tác trong sản xuất nông nghiệp qua các bước quản đến năm 1980 cụ thể từ
khoán 100 sang khoán 10 một bước đột phá phát triển kinh tế trong nông nghiệp c
hộ cũng phải chủ động tìm đến nguồn gốc hình thành (đất ông cha) tình trạng của
mảnh đất của V cũng nằm trong hoàn cảnh đó. Mảnh đất tranh chấp do cụ Ma
Văn K và bà Ma Thị Ki bố mẹ chồng của bà V khai phá là đúng thực tế.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 28/5/2024 của Tòa án nhân
dân huyện , tỉnh Bắc Kạn đã quyết định: Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều
147, Điều 157, Điều 158, Điều 228, Điều 229 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 95,
Điều 100, Điều 101, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản 12 Điều 26 Nghị
quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1.Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ma Đình
Hn về việc “Tranh chấp yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
trên đất” đối với bà Nguyễn Thị V.
Công nhận ông Ma Đình Hn quyền sử dụng thửa đất số 193, tờ bản đồ số 47,
địa chỉ thửa đất tại thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn tổng diện tích
775,6m
2
theo như diện tích nguyên đơn đã dẫn đạc trong buổi thẩm định ngày
16
19/5/2023. Ông Ma Đình Hn quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền
để làm thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu
trên theo quy định của pháp luật.
Công nhận ông Ma Đình Hn có quyền sở hữu 01 (một) khóm tre 70 cây gồm
cả cây già và cây non gắn liền với thửa đất số 193, tờ bản đồ số 47, địa chỉ thửa đất tại
thôn KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn tổng diện tích 775,6m
2
theo như diện
tích nguyên đơn đã dẫn đạc trong buổi thẩm định ngày 19/5/2023.
2. Về chi ptố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn đã thanh toán đầy
đủ tiền xem xét thẩm định tại chỗ thanh toán hợp đồng đo đạc trích đo địa chính
tổng số tiền là: 5.108.000
đ
(Năm triệu một trăm linh tám nghìn đồng chẵn). Trả lại số
tiền nguyên đơn đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng còn lại là: 600.000
đ
(Sáu trăm nghìn
đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định v án phí thông báo quyn
kháng cáo theo quy định pháp lut.
Ngày 30/5/2024, b đơn Nguyễn Th V đơn kháng cáo toàn b bản án
thm.
Ti phiên tòa phúc thm:
* B đơn V trình bày: Gi nguyên nội dung kháng cáo, đ ngh HĐXX chấp
nhn kháng cáo, hy toàn b bản án sơ thẩm, bác yêu cu khi kin của nguyên đơn.
* Người B v quyn và li ích hp pháp ca nguyên đơn; nời đại din theo y
quyn của nguyên đơn đại din theo y quyn của người quyn lợi, nghĩa vụ
liên quan Hoàng Thị T trình bày: Qua các tài liu trong h quá trình xét x
ti cấp sơ thẩm thì có căn cứ xác định đất tranh chấp do gia đình ông Ma Đình D khai
phá, s dng, rồi đến con trai ông D là Ma Đình Hn cùng chung sng mt nhà vi ông
D ci to, canh tác liên tục đến năm 2011-2012 txy ra tranh chp vi Nguyn
Th V. Sau năm 2015 giải quyết tranh chp giữa hai gia đình tại UBND BT thì gia
đình ông Hn li tiếp tc canh tác trên mảnh đt này. Căn cứ xác định gia đình ông Hn
s dụng đất được th hin qua li khai ca những người làm chng, các tài liu chng
c hin trng tài sản trên đất. Hin nay trên đất vn còn mt khóm tre nm trên b
cao chính b ao cũ, khóm tre này nm gia ba tha đất thửa đất s 193, thửa đất
s 194, thửa đất s 180 (thửa đất s 180 đã được cp giy chng nhn quyn s dng
đất cho ông Ma khánh Kính con trai V) đ xác định ranh giới đất gia hai gia
đình. Ngoài ra tại phần đất ta luy âm đưng liên thôn còn mt khóm tre do ông D
trồng để làm ranh gii gia thửa đất s 193 thửa đất s 180. Không chng c
nào chng minh thửa đất s 193 do gia đình V góp vào hp tác hp tác
qun lý s dụng đến năm 1989 khi hp tác gii th. T các căn cứ trên khẳng định
gia đình ông Ma Đình Hn khai phá, ci to, qun và s dng mảnh đất s 193 liên
tc t năm 1966 đến nay. Qua quá trình xem xét thẩm định ti ch xác định khóm tre
ông Hn yêu cu gii quyết tranh chấp theo đơn khi kin không nm trên thửa đất s
193 V khẳng đnh không tranh chp vi nhà ông Hn khóm tre đó. Đồng thi
17
phần đất dẫn đạc mt phần đất nm ngoài thửa đất s 193. Do đó, tại phiên tòa
phúc thẩm người đại din theo y quyn của nguyên đơn rút toàn b yêu cầu đề ngh
gii quyết tranh chp khóm tre trên ch yêu cu công nhn quyn s dụng đất cho
ông Ma Đình Hn đối vi phn diện tích đt 635,4m
2
, nm trong thửa đt s 193, t
bản đồ s 47 bản đồ địa chính năm 2012, địa ch thửa đất ti thôn KA, xã BT, huyn
, tnh Bc Kn. Đ ngh Hội đồng xét x không chp nhn toàn b kháng cáo ca
b đơn.
* Người quyn lợi, nghĩa vụ liên quan UBND xã BT, huyn trình bày:
Qua kim tra các h sơ, tài liệu hiện đang lưu trữ ti UBND BT thì không tài
liu nào th hiện đt đang tranh chấp gia h gia đình ông Ma Đình Hn và bà Nguyn
Th V đưc góp vào hợp tác xã. Không căn cứ xác định đất tranh chấp do gia đình
ông Hn hay gia đình V khai phá. Tuy nhiên, gia đình ông Hn canh tác, s dng
quản đất tranh chp liên tc t năm 1966 đến nay là căn cứ. Đến m 2011
ch trương đo đất để thc hin cp giy chng nhn quyn s dụng đất thì mi xy ra
tranh chp giữa gia đình ông Hn gia đình V, tranh chấp kéo dài đến năm 2015.
Gia đình ông Hn vn canh tác liên tc trên mảnh đất này. Đến năm 2022 gia đình ông
Hn ci to lại đất thì xy ra tranh chp. Thi gian t năm 2011 tr v trước gia đình
ông Hn canh tác trên mảnh đt này không có tranh chp vi ai. Do đó bản án sơ thm
xét x đúng với quy định ca pháp lut.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn trình bày quan điểm:
- Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, những
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự,
những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Qua các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, đã được thẩm tra tại
phiên tòa phúc thẩm xác định tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn căn cứ. Tuy nhiên việc công nhận quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn cả phần đất ngoài thửa đất số 193 là vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên a phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị được công
nhận quyền sử dụng đất cho ông Ma Đình Hn đối với phần diện tích đất 635,4m
2
,
nằm trong thửa đất số 193, t bản đồ s 47 bản đồ địa chính năm 2012, địa ch tha
đất ti thôn KA, BT, huyn , tnh Bc Kạn căn cứ cần được chp nhn.
Đối với khóm tre năm ngoài thửa đất tranh chấp trong quá trình giải quyết vụ án
nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với khóm tre bị đơn không yêu cầu phản
tố đối với khóm tre cần đình chỉ đối với yêu cầu giải quyết tài sản trên đất. Do đó đề
nghị sửa bản án sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 28/5/2024 của Tòa án nhân dân
huyện .
- Án phí chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Đề nghị xử theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
18
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
nghe lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1] Về tính hợp pháp của đơn khángo: Sau khi xét x thẩm ngày
30/5/2024 bà Nguyn Th V đơn kháng cáo vi ni dung kháng cáo toàn b bn án
s 02/2024/DS-ST ngày 28/5/2024 ca Tòa án nhân dân huyn , tnh Bc Kn.
Ni dung, hình thc, thi hn nộp đơn kháng cáo trong thời hn luật định. Ti phiên
tòa phúc thm bà V ý kiến thuộc đối tượng người cao tuổi, người dân tc
thiu s sinh sng ti khu vực có điều kin kinh tế đặc biệt khó khăn. Tại quá trình xét
x thẩm bà V đã đơn xin miễn toàn b tiền án phí. Do đó, bà V đề ngh Hi
đồng xét x xem xét cho V đưc min np tin tm ng án phí phúc thm án
phí phúc thm theo quy đnh. Kháng cáo ca bà V hp lệ, được Hội đồng xét x
chp nhn xét x theo trình t phúc thm.
[1.2 .Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn ông Ma Đình Hn vắng mặt
đơn xin xét xử vắng mặt đã ủy quyền cho chị Ma Thúy Z tham gia tố tụng.
Những người làm chứng như ông Ma Đình Tuyến, ông Ma Văn Thức, ông Hoàng
Văn Vỳ, ông Trịnh Minh Hải, Ma Thị Xuyến, ông Ma Văn Hiệp, bà Mạc Thị Va,
ông Ma Khánh Bình, ông Ma Đức Vượng, Hứa Thị Tiên, Lường Thị Kim, ông
Ma Doãn Tường, bà Ma Thị Thùy, bà Ma Thị Hà, ông Ma Khánh L, bà Ma Thị Thân,
Ma Thị Lường, bà Ma Thị Tiến vắng mặt tại phiên tòa đơn xin xét xử vắng mặt
hoặc do đã chết, tuy nhiên trong quá trình giải quyết tại cấp thẩm đã cung cấp lời
khai đầy đủ, do đó tòa án xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại Điều
228, Điều 229, Điều 294/BLTTDS.
[1.3] Về thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện đòi quyền sdụng đất tài sản
trên đất thửa đất số 193, t bản đồ s 47 bản đồ địa chính năm 2012, đa ch tha
đất ti thôn KA, BT, huyn , tnh Bc Kn chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên Tòa án nhân dân huyện , tỉnh Bắc Kạn thụ lý, giải quyết
theo quy định tại Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự đúng thẩm quyền. Tuy
nhiên, Tòa án nhân dân huyện xác định quan hệ pháp luật là Tranh chấp yêu cầu
công nhận quyền sử dụng đất tranh chấp tài sản trên đất” chưa chính xác. Hội
đồng xét xử phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật “Tranh chấp quyền sử dụng
đất, tài sản trên đất và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất”.
[2]. Về nội dung: Bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét x
xem xét các quyết định ca tòa án cấp sơ thẩm.
[2.1]. Về vị trí đất tranh chấp hiện trạng đất tranh chấp: Các đương sự đều
xác định đất tranh chấp thửa đất số 193, tờ bản đồ số 47, địa chỉ thửa đất tại thôn
KA, BT, huyện , tỉnh Bắc Kạn tổng diện tích 708,5m
2
theo bản đồ địa chính
năm 2012.
[2.2]. Về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp:
19
Căn cứ lời khai của nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, văn bản của UBND
BT trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa cho thấy lời khai của các
nhân chứng mâu thuẫn với nhau không tài liệu nào xác định ai người khai phá
mảnh đất tranh chấp, không tài liệu nào chứng minh mảnh đất tranh chấp được
góp vào hợp tác do hợp tác xã quản hay không, do đó không đủ sở để kết
luận thửa đất đang tranh chấp do ai khai phá đầu tiên.
[2.3]. Về quá trình sử dụng đất:
Ông Hn trình bày, từ năm 1966 bố mông khai phá thửa đất và sử dụng liên tục
cho đến nay, cụ thể: Từ m 1966 đến năm 1982 khi mới khai phá mảnh đất n
nhiều gốc cây to, đất mấp nên sau khi cải tạo bộ gia đình ông Hn trồng hoa
màu (ngô, rau, mía). Dọc hai bờ vườn bmẹ ông Hn trồng tre, hóp để làm ranh giới
chống xói mòn; từ năm 1982 đến năm 1996 chuyển sang đào ao, thả cá; từ 1996
đến năm 2012 không nguồn nước ổn định, lòng ao nhiều tre, gia đình ông
chuyển sang trồng một số cây ăn quả như chanh, cam, quýt trồng cây tre gai, tre
bát độ xuống lòng ao nHn do bị úng nước cớm nắng nên cây i cọc không phát
triển được và bị chết. Từ đầu năm 2012 đến ngày 27/11/2015 tạm dừng canh tác do
xảy ra tranh chấp đất đai với bà V. Sau khi UBND xã tổ chức hòa giải ngày
27/11/2015 đến hết năm 2021 ông Hn cho Ma Thị Nga chị gái ruột của ông Hn
canh tác, sử dụng trồng ngô, đến đầu năm 2022 xảy ra tranh chấp với V.
V trình bày: Từ năm 1957 đến năm 1963 do gia đình V quản lý, sử dụng
chủ yếu trồng hoa màu như ngô, sắn, khoai lang, mía. Từ 1963 đến 1989 I vào Hợp
tác do Hợp tác quản lý, sử dụng. Thời gian đầu Hợp tác trồng ngô, đến năm
1976 Hợp tác cải tạo thành ruộng đtrồng lúa nước đến khi Hợp tác xã giải thể.
Sau khi Hợp tác giải thể gia đình V trồng ngô được khoảng 02 năm nHn do
khóm tre cớm nắng, trồng ngô không hiệu quả nên gia đình không trồng ngô nữa. Đến
năm 2012, gia đình tiếp tục xuống phát để trồng ngô thì ông Ma Đình D không cho
làm nên xảy ra tranh chấp chưa được giải quyết dứt điểm.
Tại văn bản số 143/BC-UBND ngày 28/8/2023 của UBND BT nội dung:
Hiện nay UBND không hồ sơ, tài liệu lưu liên quan đến việc giao đất giữa
nhân, hộ gia đình với hợp tác xã. Từ năm 1963 đến năm 1989 hợp tác không sử
dụng diện tích đang tranh chấp không giao khoán cho hộ gia đình nào quản lý, sử
dụng (dựa theo nguồn xác minh các nhân chứng và hồ sơ địa chính).
Tại Báo cáo số 222/UBND-ĐC ngày 27/12/2023 của UBND BT nội
dung: Thời điểm Hợp tác canh tác chỉ quản từ thoi Cốc Chủ trở xuống, Hợp tác
xã không quản lý tha đất 193 đang tranh chấp; Sau khi hợp tác xã giải thể UBND xã
không có văn bản nào lưu về việc chỉ đạo các hộ lấy lại ruộng đất ông cha.
Tại công văn s123/CNVPĐKĐĐ ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện cung cấp thông tin: Việc cung cấp hồ sơ, tài liệu chứng cứ
như sổ mục kê ghi tên hộ gia đình hoặc Hợp tác xã Tân Trung hiện không tìm thấy do
hồ sổ mục hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của tổ chức hộ
20
gia đình liên quan đến thửa đất số 90 tờ bản đồ số 19 in vẽ ngày 3/8/1965 không được
lưu trữ tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện.
Xét thấy lời khai của những người làm chứng trên đều là những người cao tuổi
sinh sống lâu năm tại địa phương đều từng thời gian công tác giữ chức vụ
trong Hợp tác tuy nhiên nội dung lại sự mẫu thuẫn nhau trong việc xác định
nguồn gốc đất do ai khai phá, thửa đất đang tranh chấp được giao cho hợp tác
quản lý, sử dụng hay không. Hiện không có tài liệu, hồ sơ nào liên quan đến việc giao
đất giữa nhân, hộ gia đình với hợp tác nên không đủ sở, căn cứ để kết luận
thửa đất đang tranh chấp có được giao vào hợp tác xã hay không.
Về quá trình sdụng đất sau khi hợp tác xã giải thể: Theo lời khai của bà V từ
năm 1989, sau khi hợp tác giải thể, gia đình lấy lại thửa đất mà hiện nay đang
tranh chấp và trồng ngô từ đó đến năm 2011 thì xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên theo lời
khai ông Ma Khánh L, Thị Thuyên, Ma Thị Thân, Ma Thị Vui, Ma Thị I ều
con đẻ của bà V) thì sau khi hợp tác giải thể, từ tháng 8/1989 hai anh em ông L và
ông Kính (anh trai ông L) canh tác trồng ngô, khoai lang. Đến năm 2001 do bị các bụi
tre ông Hn trồng cớm ra nên chuyển sang trồng chuối. Như vậy lời khai sự mâu
thuẫn về quá trình sử dụng đất giai đoạn từ 1989 đến khi xảy ra tranh chấp, cụ thể: Bà
V khai sau năm 1989, canh tác trồng ngô, nHn lời khai của ông L, Thuyên,
Vui… thì cuối năm 2001 chuyển sang trồng chuối, hiện trạng thửa đất hiện nay không
bụi chuối nào trên thửa đất. Gia đình V những người làm chứng khai năm
1986 mảnh đất tranh chấp được hợp tác cải tạo thành ruộng lúa nước, nHn tại
phiên tòa phúc thẩm con dâu V Thị Thuyên lại khẳng định năm 1989 khi
gia đình bà V nhận đất từ hợp tác xã về thì mảnh đất tranh chấp là đất soi bãi. Sự mâu
thuẫn trong lời khai của gia đình V vquá trình sử dụng, nHn đều khẳng định gia
đình ông Hn sdụng phần đất này thể hiện qua việc V các con của V
công nhận do cớm nắng của các khóm tre ông D trồng nên canh tác trên mảnh đất
tranh chấp không có hiệu quả.
Sau khi hợp tác xã giải thể (từ 1989 đến nay) hộ bà V cho rằng do có sự thỏa
thuận với hộ ông Hn việc đổi thửa ruộng Cốc Vắt (của hộ ông Hn) thoi Leo
(thửa đang tranh chấp) nHn hộ ông Hn không thực hiện như đã thỏa thuận, không cho
gia đình sử dụng ruộng Cốc Vắt và vẫn tiếp tục sử dụng thoi Leo nHn V
không chứng cứ chứng minh việc đổi ruộng giữa 02 hộ, quá trình xác minh những
người làm chứng cũng không ai biết việc trao đổi đất này. Mặt khác, khi thỏa thuận
trao đổi đất không được hộ ông Hn thực hiện như bà trình bày thì bà cũng không nhắc
nhở, ngăn cản không cho hộ gia đình ông Hn canh tác trên thoi Cò Leo và gia đình bà
V cũng không trực tiếp canh tác trên đất, đến năm 2012 khi tiến hành đo đạc theo dự
án của nhà nước mới đi kê khai và xảy ra tranh chấp giữa hai hộ gia đình.
Đối với hộ ông Hn cho rằng thửa đất do bố mẹ ông khai phá từ năm 1966, khi
mới khai phá mảnh đất còn nhiều gốc cây to, đất mấp mô nên sau khi cải tạo sơ bộ gia
đình ông Hn trồng hoa màu (ngô, rau, mía). Dọc hai bờ vườn bố mẹ ông Hn trồng tre,
21
hóp để làm ranh giới chống xói mòn, hiện nay hiện trạng thửa đất còn 01 bụi tre
theo lời khai của các nhân chứng ông B, ông Vỳ, Lương, ông Hiệp gia đình
V thì bụi tre đó do ông D trồng. Đến năm 1982, gia đình ông cải tạo thửa đất thành ao
để nuôi cá. Việc đắp ao ông Mai Quốc Huy được giúp gia đình ông Hn đắp bờ,
đồng thời việc đắp ao thả của hộ ông Hn vào năm 1982 cũng đã được V thừa
nhận trong các bản khai tự khai. Theo lời khai của ông Đỗ Quốc B Ma Đình
IIOcho thấy giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2005, hộ ông Hn vẫn đang duy trì ao thả
(ông B được sang câu năm 1990, ông IIOđược ngâm vật liệu làm nhà dưới ao
từ năm 1991 đến năm 1993), sau đó do nguồn nước không ổn định nên hộ ông Hn
chuyển sang trồng cây ăn quả, cây tre, cây hópnHn do cớm nắng nên cây không
phát triển được. Theo Nga năm 2016, khi được ông Hn cho sdụng đất để trồng
ngô thì bà được nhổ một số cây ăn quả do trồng không hiệu quả.
Tại phiên tòa phúc thẩm những người làm chứng ông Văn Hùng và ông
Ma Văn N thay đổi lời khai. Ông ng không khẳng định đất tranh chấp của ông
Ma văn Kim bố chồng V khai phá sử dụng chỉ nghe thấy người khác kể lại
như vậy. Còn ông N khẳng định được xin quả bưởi của gia đình ông Kim cây
bưởi trồng khu vực đất tranh chấp chứ không khẳng định cây bưởi đó được trồng
trên mảnh đất tranh chấp hay không nên không xác định được ai là người khai phá và
quản lý, sử dụng mảnh đất tranh chấp này. Còn những người làm chứng khác mặt
vẫn giữ nguyên lời khai của mình như tại gia đoạn xét xử sơ thẩm.
Mặt khác theo lời khai của ông Hn những người làm chứng cho thấy từ năm
1966 gia đình ông Hn trồng màu trên đất, đến năm 1982, gia đình ông Hn đã đào ao,
thả cá. Giai đoạn từ năm 1990 đến 2022 thửa đất vẫn do gia đình ông Hn canh tác, sử
dụng. Hiện trạng trên bản đồ năm 2012 vẫn thể hiện giữa hai thửa đất số 193 194
một bờ cao ngăn cách bờ cao này bờ ao của gia đình ông Hn đào. Đồng
thời những tài sản trên cũng thể hiện gia đình ông Hn sử dụng đất tranh chấp ổn định,
liên tục.
Như vậy xét về quá trình sử dụng đất, hộ ông Hn thời gian sử dụng, quản
thửa đất số 193 liên tục, ổn định từ năm 1966 đến năm 2012 xảy ra tranh chấp từ
năm 2015 đến năm 2022 thì vẫn thường xuyên canh tác, quản sử dụng đất tranh
chấp.
[2.4]. Về hiện trạng thửa đất tranh chấp:
Ngày 19/5/2023 Tòa án nhân dân huyện , tỉnh Bắc Kạn đã tiến hành xem xét
thẩm định tại chỗ đối với vị trí hiện trạng thửa đất số 193, t bản đồ số 47, địa chỉ tại
thôn KA, xã BT, xác định:
Phần diện tích bên nguyên đơn dẫn đạc, cắm cọc có tổng diện tích 775.6 m
2
;
Phần diện tích bên bị đơn dẫn đạc, cắm cọc có tổng diện tích 834.1 m
2
;
Diện tích chênh lệch giữa phần đất hai bên dẫn đạc, cắm cọc là 58.4 m
2
;
Diện tích đo đạc thực tế so với bản đồ địa chính đo vẽ năm 2011 thì phần diện
tích của thửa đo hôm nay nằm trong 02 thửa của tờ bản đồ địa chính năm 2011
22
thửa 193 194 đều thuộc tờ bản đồ 47 một phần của chân ta luy âm đường liên
thôn. Cụ thdiện tích sang thửa số 194 do nguyên đơn dẫn đạc 56,1 m
2
; diện tích
sang thửa 194 do bên bị dơn dẫn đạc 57,1 m
2
; một phần diện tích của chân ta luy
âm đường liên thôn do bên nguyên đơn dẫn đạc là 7,5 m
2
; do bị đơn dẫn đạc là 23 m
2
Theo bản đồ địa chính năm 2012 thì có 01 bờ cao giáp ranh giữa hai thửa đất
số 193 194 đều thuộc tờ bản đồ 47. Diện tích nguyên đơn dẫn đạc 76,7 m
2;
theo
bị đơn dẫn đạc là 112,1 m
2
.
Qua xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân huyện xác định phần
đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 193, tờ bản đồ 47 bản đồ địa chính năm 2012
diện tích 635,4m
2
. Nguyên đơn ông Ma Đình Hn trình bày do hin trng thửa đt
thay đổi nên đã dẫn đạc vượt quá sang mt phn các thửa đất khác do đó tại phiên
tòa phúc thm ông Hn yêu cầu được công nhn quyn s dụng đất đối vi din tích
đất là 635,4m
2
, tha đất s 193, t bản đồ 47 bản đồ địa chính năm 2012, địa ch tha
đất ti thôn KA, xã BT, huyn , tnh Bc Kn.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 19/5/2023 và bản đồ trích đo địa
chính kèm theo thì hiện nay vẫn còn một khóm tre do ông Hn trồng, đếm thực tế
được 70 cây. Khóm tre này hiện nay mọc trên đất cao hơn hẳn so với mặt bằng
của thửa đất, phù hợp với lời khai của nguyên đơn những người làm chứng
khóm tre được trồng trên bờ ao khóm tre này nằm giữa ba thửa đất thửa đất số 194
gia đình ông Hn đang sử dụng, thửa đất số 193 đang tranh chấp giữa V ông Hn
thửa đất số 180 hiện nay đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
Ma Khánh Kính con trai V. Phần phía giáp đường liên thôn cũng một khóm
tre do ông D bố ông Hn trồng nằm trên phần đất ta luy âm đường liên thôn do UBND
BT quản lý, giữa thửa đất số 180 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Ma Khánh Kính là con trai bà V và thửa đất số 193 hiện nay đang tranh chấp.
Từ những nhận định trên, thấy Tòa án nhân dân huyện chp nhn yêu cu
khi kin ca ông Ma Đình Hn hoàn toàn căn c. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc
thẩm cũng như quá trình giải quyết tại tòa án cấp thẩm, nguyên đơn ông Ma Đình
Hn chỉ yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp công nhận quyền sử dụng đất đối với
phần đất thuộc thửa đất số 193 tbản đồ số 47 bản đồ địa chính năm 2012, không
yêu cầu giải quyết tranh chấp sang phần đất thuộc các thửa đất khác. Do đó, tòa án
cấp thẩm công nhận quyền sử dụng đất đối với diện ch đất 775,6m
2
cho ông Ma
Đình Hn tức công nhận quyền sử dụng đất đối với các phần đất ngoài thửa đất số
193. Xét thấy việc tòa án cấp thẩm giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn cần sửa bản án thẩm đối với phần diện tích đất công nhận quyền sử
dụng đất cho ông Ma Đình Hn.
Việc kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị V là không có căn cứ, cần bác toàn bộ
kháng cáo của bà Nguyễn Thị V.
Công nhận cho ông Ma Đình Hn quyn s dụng đất đối vi thửa đất s 193,
t bản đồ s 47, địa ch ti thôn KA, BT, huyn , tnh Bc Kn din tích
23
635,4 m
2
đưc gii hn bởi các điểm 12-13-14-15-16-17-18-19-12 theo bản đồ trích
đo đa chính ti bui xem xét thẩm định ti ch ngày 19/5/2023. (trừ diện tích nằm
trong thửa 194 là 56,1m
2
, nằm ở phần chân ta luy âm đường liên thôn là 7,5m
2
, bờ cao
cũ giáp ranh giữa thửa 193 và 194 là 76,7m
2
).
Sau khi bản án hiệu pháp luật ông Ma Đình Hn quyn liên h với quan
nhà nước thm quyền để làm th tục đề ngh cp giy chng nhn quyn s dng
đất đối vi thửa đất nêu trên theo quy định ca pháp lut.
[2.5] Về tài sản gắn liền trên đất:
Ngày 19/5/2023 Tòa án đã tiến hành tổ chức xem xét thẩm định tại chỗ đối với
vị trí hiện trạng thửa đất số 193, tờ bản đồ số 47, địa chỉ tại thôn KA, xã BT, xác định:
Tài sản gắn liền trên đất không cây trồng gì, do đầu năm 2022 xảy ra tranh chấp
giữa hai gia đình thì gia đình ông Hn cũng ngừng canh tác chờ cơ quan có thẩm quyền
giải quyết. Tại phần đất ta luy đường liên thôn 01 khóm tre nằm ngoài thửa đất số
193 và tại phần giáp ranh giữa ba thửa đất số 180, thửa đất số 194, thửa đất số 193
một khóm tre gồm 70 cây gồm y già cây non. Hai khóm tre này đều nm ngoài
thửa đất tranh chấp số 193. Trong đơn khởi kiện, ông Hn trình bày các khóm tre do
ông Ma Đình D bố ông Hn trồng và yêu cầu bà V trả lại khóm tre cho gia đình ông,
tuy nhiên xét thấy hiện nay các khóm tre vẫn do gia đình ông Hn quản lý, khai thác
các khóm tre nằm ngoài thửa đất số 193 nên ông Hn rút yêu cầu khởi kiện đối với đề
nghị tòa án giải quyết tranh chấp khóm tre. Quá trình giải quyết vụ án, bà V không
yêu cầu phản tố liên quan đến khóm tre, do đó xác định không có tranh chấp liên quan
đến búi tre, tuy nhiên bản án thẩm công nhận cho ông Hn quyền sở hữu đối với
01 khóm tre có 70 cây gồm cây già cây non vậy cần đình chỉ giải quyết đối với
yêu cầu này.
[4]. Về chi ptố tụng:
Tại phiên toà nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ số tiền chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ tổng số tiền là 5.108.000
đ
(Năm triệu một trăm linh tám nghìn đồng). Xét
thấy việc nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng với số tiền là 5.108.000
đ
(Năm triệu một trăm linh m nghìn đồng chẵn) cần được ghi nhận sự tự nguyện này
là có căn cứ pháp luật.
[5]. Về án phí:
[5.1] Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bđơn, nHn
sửa một phần bản án thẩm, do đó bị đơn Nguyễn Thị V không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm.
[5.2] Hoàn trả lại cho nguyên đơn Ma Đình Hn số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm đã nộp 300.000
đ
(Ba trăm ngìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001422 ngày
31/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện , tỉnh Bắc Kạn.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
24
Căn cứ Điều 26, Khoản 1 Điều 38, Điều 147, Điều 148, Điều 157, Điều 158,
Điều 228, Điều 229, Điều 293, Điều 294, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng
Dân sự; Điều 95, Điều 100, Điều 101, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản
12 Điều 26 Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca U ban Thường
v Quc hi quy định v mc thu, min, gim, thu, np, qun s dng án phí
l phí tòa án.
Tuyên xử:
[1] Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị V.
[2] Sửa một phần bn án dân s thẩm s 02/2024/DS-ST ngày 28/5/2024 ca
Tòa án nhân dân huyn , tnh Bc Kn.
[2.1] Công nhận quyền sử dụng diện tích 635,4m
2
đất thửa đất số 193, tbản đồ
số 47 bản đồ địa chính năm 2012, địa chỉ thửa đất tại thôn KA, xã BT, huyện , tỉnh
Bắc Kạn cho ông Ma Đình Hn, được giới hạn bởi các điểm 12-13-14-15-16-17-18-19-
12 theo bản đồ trích đo địa chính ngày 19/5/2023. Ông Ma Đình Hn trách nhiệm
liên hvới quan nhà nước thẩm quyền đlàm thủ tục đề nghị cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật.
[2.2] Đình chỉ yêu cầu của ông Ma Đình Hn về giải quyết tranh chấp đối với tài
sản trên đất gồm 01 (một) khóm tre có 70 cây gồm cả cây già và cây non. Nguyên đơn
có quyền khởi kiện lại khi có yêu cầu.
3. Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn đã thanh toán đầy
đủ tiền xem xét thẩm định tại chỗ thanh toán hợp đồng đo đạc trích đo địa chính
tổng số tiền là: 5.108.000đ (Năm triệu một trăm linh tám nghìn đồng chẵn). Xác định
nguyên đơn đã nộp đủ số tiền trên.
4. Về án phí dân sphúc thẩm:
[4.1] Bị đơn bà Nguyễn ThV không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[4.2] Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp
là 300.000
đ
(Ba trăm ngìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001422 ngày 31/3/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện , tỉnh Bắc Kạn.
“Trường hp bn án, quyết định được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Lut
thi hành án dân s thì người được thi hành án dân s, người phi thi hành án dân s
quyn tho thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án
hoc b cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 9 Lut thi hành án
dân s; thi hiệu thi hành án được thc hiện theo quy đnh tại Điều 30 Lut thi hành
án dân s”.
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
25
VY THỊ TUYẾT MAI HOÀNG ANH TUẤN ĐÀM THỊ MINH HƯỜNG
Tải về
Bản án số 07/2024/DS Bản án số 07/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2024/DS Bản án số 07/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất