Bản án số 01/2024/DS-PT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 01/2024/DS-PT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Điện Biên |
Số hiệu: | 01/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Bản án số: 01/2024/DS-PT
Ngày: 28-11-2024
“V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG H XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG H XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thu Hương
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thị Thu Hằng, ông Nguyễn Văn Phương
- Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Thùy Dung - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Điện Biên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên toà: Bà
Nguyễn Thị H - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 11 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 01/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng
10 năm 2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm
số: 04/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh
Điện Biên bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
02/2024/QĐ-PT ngày 05/11/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lừu Goản H, sinh năm: 1986 và bà Sỉ Seo D, sinh năm:
1990; cùng địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên, xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lê Thị D - Trợ
giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên có mặt.
- Bị đơn: Ông Sần Sẻng M, sinh năm: 1975 và bà Liều Tỷ D, sinh năm: 1977;
cùng địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên, có mặt. Người đại diện theo
ủy quyền của bị đơn: ông Sần Phu M; địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện
Biên, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Triệu Thị H - Luật sư
thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện
Biên, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên. Người đại diện theo pháp luật: ông
Trang A L, chức vụ: Chủ tịch; Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Hồng N, chức
vụ: Phó Chủ tịch, xin xét xử vắng mặt.
Ông Lý Mí H (tên gọi khác: Ly Chín H), sinh năm: 1962 và bà Liều Dỉnh M,
sinh năm: 1961; cùng địa chỉ: Bản Đ, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, xin xét xử
vắng mặt.
Bà Thàn Chín T; địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, bản tự khai, trong quá trình giải
quyết và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn trình bày:
Ngày 18/4/2021, nguyên đơn ông Lừu Goản H và bà Sỉ Seo D có nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nương, đất nhà ở và tài sản gắn liền với đất của gia đình
ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M trú tại Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên gồm
02 thửa đất, hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng, giá chuyển nhượng hai bên
thỏa thuận là 200.000.000 đồng. Ngày 18/4/2021 gia đình nguyên đơn thanh toán
trước cho ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M 100.000.000 đồng, đến ngày 28/01/2022
thanh toán số tiền còn lại 100.000.000. Ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M đã nhận đủ
số tiền 200.000.000 đồng. Thửa đất hiện nguyên đơn đang dựng nhà ở tại Bản H, xã
H, huyện M hiện không xảy ra tranh chấp chỉ tranh chấp diện tích nhận chuyển
nhượng là 7.100 m
2
trong đó có 2.095,2 m
2
đã được UBND huyện M cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào ngày 22/01/2016. Số vào sổ cấp GCN: CH00682 cho
gia đình ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M, thuộc thửa đất số 04 tờ bản đồ số 15, diện
tích còn lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với diện tích đất
nương hiện đang xảy ra tranh chấp với bị đơn ông Sần Sẻng M và bà Liều Tỷ D tại
khu vực P, thuộc Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên nguyên đơn yêu cầu ông Sần
Sẻng M và bà Liều Tỷ D trả lại toàn bộ diện tích đất 7.100 m
2
hiện hai bên đang
xảy ra tranh chấp
cho nguyên đơn.
Bị đơn ông Sần Sẻng M, bà Liều Tỷ D trong quá trình giải quyết và tại
phiên tòa trình bày:
Diện tích đất đang tranh chấp chính là đất của bố, mẹ của ông Sần Sẻng M
khai hoang và để lại cho vợ chồng ông M, bà D. Ông bà chỉ canh tác tại diện tích đất
này trong thời gian 02 năm sau đó bỏ hoang. Tháng 03 năm 2022 gia đình nguyên
đơn làm nương ngô trên mảnh đất đó bị đơn không cho làm nên mới xảy ra tranh
chấp. Sau khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên đã được H giải nhiều lần nhưng
không thỏa thuận được với nhau. Việc nguyên đơn cho rằng thửa đất đó nguyên

3
đơn nhận chuyển nhượng của ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M, nhưng việc mua
bán giữa hai bên bị đơn không biết, ông H, bà M bán thửa đất đó là không đúng vì
đó là đất của bố mẹ ông bà để lại cho bị đơn. Nay nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc
bị đơn trả lại diện tích đất đang tranh chấp bị đơn không nhất trí. Yêu cầu phản tố
của bị đơn đề nghị Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Số CH00682 do
UBND huyện M cấp ngày 22/01/2016 mang tên ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M,
sau đó bị đơn đã rút yêu cầu phản tố.
Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện M trình bày:
Không nhất trí đối với yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án giải quyết hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00682 do UBND huyện M cấp ngày
22/01/2016 mang tên ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M, vì UBND huyện M cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên là đúng đối tượng, đảm bảo về trình tự, thủ tục
theo quy định tại khoản 2 Điều 101; khoản 4 Điều 129 Luật đất đai năm 2013;
khoản 5 Điều 20 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật đất đai.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M trình
bày:
Trước đây ông bà sinh sống tại Bản H, xã H, huyện M, cho đến năm đến 2021
ông bà chuyển về bản Đ, xã P, huyện N sinh sống. Trước khi ông bà chuyển đi ông bà
đã chuyển nhượng đất nương tại khu vực P, thuộc Bản H, xã H, huyện M và đất nền
nhà và tài sản gắn liền với đất tại bản H cho vợ chồng ông H, bà D. Diện tích đất nương
là 7.100 m
2
, trong đó một phần diện tích đất 2.095,2 m
2
đã được UBND huyện M cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 04 tờ bản đồ số 15 và phần
diện tích 5.004,8 m
2
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giá trị
chuyển nhượng là 200.000.000 đồng, nguyên đơn đã trả đủ số tiền 200.000.000
đồng cho ông bà. Nguồn gốc diện tích đất trước đây là đất của ông Ly Seo P để lại
cho ông bà từ năm 1989, hiện ông P đã chết ông P không có vợ con, từ ngày ông P
cho thửa đất, ông bà canh tác từ năm 1989 liên tục cả phần diện tích đất đã được
cấp GCNQSDĐ và cả phần diện tích đất chưa đươc cấp GCNQSDĐ cho đến năm
ông bà chuyển nhượng cho nguyên đơn không xảy ra tranh chấp với ai. Nay thửa
đất đó ông bà đã chuyển nhượng cho nguyên đơn hiện thửa đất đó thuộc quyền
quản lý, sử dụng của nguyên đơn ông bà không còn quyền lợi, nghĩa vụ gì đối với
thửa đất đó nữa, ông bà không có yêu cầu gì khác, đề nghị Tòa án giải quyết theo
quy định.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên, Quyết định:
1. Về áp dụng pháp luật:

4
- Khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều
70; 71; 72; 147; 157; 158; 193; 200; 228; 229; 231; 244 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Các Điều 4; 5; 11; 14; 27; 39; 40; khoản 2 Điều 49; 99; 100; 101; 125; 126; 129;
131; 166; 167; 168; 170; 179; 188; 195 điểm b khoản 2 Điều 203; 210 Luật đất đai.
- Các Điều 117; 118; 119; 189; 197; 213; 221; 400; 401; 503 của Bộ luật dân sự.
- Điều 20; Điều 21 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.
- Nghị định số: 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 Nghị định sửa đổi, bổ sung
một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai.
- Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
2. Tuyên xử:
2.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lừu Goản H
và chị Sỉ Seo D.
- Buộc ông Sần Sẻng M và bà Liều Tỷ D trả diện tích đất 7.100 m
2
đất tại khu
vực P, thuộc Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên. Trong đó 2.095,2 m
2
đất đã được
UBND huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 22/01/2016. Số
vào sổ cấp GCN: CH00682 cho gia đình ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M, thuộc
thửa đất số 04 tờ bản đồ số 15 và 5.004,8 m
2
đất chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. (Sơ đồ đất kèm theo) cho nguyên đơn anh Lừu Goản H và chị Sỉ Seo
D.
Phía bắc giáp đất rừng thuộc tiểu khu 459 có các cạnh dài 8,7 m + 9,0 m +
41,5 m + 13,5 m. Phía nam giáp đất rừng thuộc tiểu khu 480, có các cạnh dài 9,5 m
+ 9,9 m + 31,7 m + 4,9 m + 10,8 m. Phía tây giáp đất nương của bà Thàn Chử M,
có các cạnh dài 30,5 m + 17,3 m + 43,4 m. Phía đông giáp đất nương của Lò Mẩy
C có các canh dài 19,2 m + 73,9 m.
Phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong tổng diện tích
7.100 m
2
có các cạnh tiếp giáp:
Phía bắc giáp diện tích đất đang tranh chấp bên phía thuộc tiểu khu 459 có
cạnh dài 38,9 m. Phía nam giáp diện tích đất đang tranh chấp bên phía thuộc tiểu
khu 480, có cạnh dài 37,3 m. Phía tây giáp diện tích đất đang tranh chấp bên phía
đất nương của bà Thàn Chử M, có các cạnh dài 32,4 m + 25,5 m. Phía đông giáp
đất nương của Lò Mẩy C có cạnh dài 51,9 m. Tổng diện tích là 2.095,2 m
2
.

5
- Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất số 04 tờ bản đồ số 15 diện tích đất 2.095,2 m
2
cấp
GCNQSDĐ vào ngày 22/01/2016 số vào sổ cấp GCN: CH00682.
Các nguyên đơn anh Lừu Goản H và chị Sỉ Seo D được quyền đến Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục sang tên đổi chủ đối với thửa đất số
04 tờ bản đồ số 15 diện tích đất 2.095,2 m
2
cấp GCNQSDĐ vào ngày 22/01/2016
số vào sổ cấp GCN: CH00682 theo quy định pháp luật.
Tạm giao 5.004,8 m
2
diện tích đất tại khu vực P, thuộc Bản H, xã H, huyện M,
tỉnh Điện Biên cho anh Lừu Goản H và chị Sỉ Seo D tiếp tục sử dụng. Nếu anh H và chị
D có nhu cầu thì được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kê khai làm
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
3. Về chi phí đi xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc ông Sần Sẻng M và bà Liều Tỷ
D phải chịu 3.600.000 đồng tiền xem xét thẩm định tại chỗ, ông M và bà D đã nộp
1.800.000 đồng. Còn 1.800.000 đồng buộc ông Sần Sẻng M phải trả 900.000 đồng cho
anh Lừu Goản H. Buộc bà Liều Tỷ D phải trả 900.000 đồng cho anh Lừu Goản H.
Căn cứ khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành
án chậm thi hành án khoản tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm trả lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật dân sự.
Quyết định này được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho ông Sần Sẻng M và bà
Liều Tỷ D.
3. Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự theo quy
định pháp luật.
Ngày 05/8/2024, bị đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án
sơ thẩm.
Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên:
1. Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên
tòa, người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Thẩm
phán chủ tọa và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân thủ
đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
6
2. Thủ tục kháng cáo: Căn cứ các Điều 271; 272; 273; 276 của Bộ luật tố tụng
dân sự kháng cáo của bị đơn hợp lệ được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
3. Về nội dung: Bị đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án hủy Bản án sơ thẩm,
chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vì cho rằng có vi phạm nghiêm
trọng về tố tụng và nội dung. Xét thấy:
Về quyền sử dụng đất, bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đều khai rằng nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp là của người thân M để lại,
nhưng không có tài liệu gì để chứng minh. Theo lời khai của những người làm
chứng không phải họ hàng với các đương sự như trưởng bản, các hộ giáp ranh, cán
bộ địa chính... thì gia đình ông Ly Mí H canh tác lâu dài tại thửa đất đến khi
chuyển đi. Vợ chồng ông H, bà M đã được UBND huyện cấp GCNQSDĐ đối với
một phần diện tích đất, việc cấp giấy được thực hiện công khai, minh bạch và đúng
trình tự, thủ tục, không ai có ý kiến gì về việc này.
Hợp đồng chuyển nhượng đất của ông bà H, M và ông bà H, D, tuy chưa
tuân thủ về hình thức (chưa công chứng), nhưng đã đảm bảo các điều kiện về chủ
thể, mục đích của hợp đồng, vợ chồng ông H cũng đã giao đủ tiền theo thỏa thuận
cho vợ chồng ông H, gia đình ông H đã bàn giao đất trên thực địa cho gia đình ông
H canh tác. Theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự 2015, Tòa án công
nhận việc mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông H, bà D
và vợ chồng ông Hồ, bà M là đúng quy định.
Do bị đơn đã rút yêu cầu phản tố nên việc Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối
với yêu cầu phản tố của bị đơn là đúng quy định theo Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và án phí Tòa án tuyên đúng quy định
của pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn
cứ, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Tuy nhiên cần chỉnh sửa cho
chính xác một phần nhận định của bản án sơ thẩm, cụ thể: Đối với 5.004,8m
2
đất
tại khu vực P, Bản H, xã H, huyện M mà anh Lừu Goản H và chị Sỉ Seo D đang
trực tiếp quản lý, sử dụng do nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Ly Mí H
được tiếp tục sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai.
Từ những phân tích như trên, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số
04/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của TAND huyện M, tỉnh Điện Biên.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.
Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung yêu cầu
kháng cáo của bị đơn, lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm, ý
kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên.

7
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về quan hệ tranh chấp, thời hiệu, thẩm quyền giải quyết
Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất, bất động sản có
địa chỉ tại xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên. Do đó, cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án
tranh chấp quyền sử dụng đất và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện M, tỉnh Điện Biên theo khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c
khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự là đúng quy định của pháp luật.
[2]. Xét thủ tục kháng cáo
Ngày 22/7/2024, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên tuyên bản án sơ
thẩm. Ngày 05/8/2024, Tòa án nhận được đơn kháng cáo của bị đơn, ngày
06/8/2024 bị đơn nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định tại các Điều 271,
272, 273, 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự, kháng cáo của bị đơn là hợp lệ được
chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[3]. Nội dung kháng cáo
Bị đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm với lý do Tòa án
cấp sơ thẩm xét xử không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ly Chín H
vào tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn, việc rút yêu cầu phản tố của bị đơn,
Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ là vi phạm tố tung, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Ly Chín H không đúng trình tự thủ tục, cấp sơ thẩm không xem
xét, đánh giá hết các tài liệu, chứng cứ từ đó ra bản án không đúng quy định của
pháp luật gây thiệt hại lớn đến quyền lợi của bị đơn.
[4]. Xét nội dung kháng cáo
[4.1]. Về trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng của Tòa án sơ thẩm:
Trình tự thủ tục tiến hành tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm đầy đủ, việc đưa
người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn
cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ly
Chín H vào tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn là không đúng quy định tại
khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “nguyên đơn là người khởi
kiện”, diện tích đất đang tranh chấp đã được gia đình ông Ly Chín H chuyển
nhượng cho nguyên đơn từ ngày 28/01/2022, nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa
vụ tài chính đối với ông H nên ông H không còn quyền lợi gì đối với diện tích đất
này, Tòa án cấp sơ thẩm đưa ông H vào tham gia tố tụng với tư cách người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật
tố tụng dân sự do vậy không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung
kháng cáo này của bị đơn.
Bị đơn Sần Sẻng M do bị bắt tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật đã ủy
quyền cho Sần Phu M tham gia tố tụng (BL 52): Nội dung và phạm vi ủy quyền
Sần Sẻng M ủy quyền cho Sần Phu M tham gia giải quyết, xét xử vụ án cho đến
khi kết thúc vụ án. Sần Phu M được toàn quyền quyết định toàn bộ những gì liên
quan đến việc giải quyết, xét xử vụ án theo nội dung ủy quyền nêu trên thì ông Sần
Phu M có đơn phản tố mà không cần ông Sần Phu M phải ký hoặc điểm chỉ vào
8
đơn phản tố và được Tòa án sơ thẩm chấp nhận là đúng quy định, không có căn cứ
để cấp phúc thẩm chấp nhận nội dung kháng cáo này của bị đơn.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm bị đơn có yêu cầu phản tố về việc hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CH00682 của Ủy ban nhân dân
huyện M cho gia đình ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M sau đó có đơn xin rút yêu
cầu phản tố, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố bị đơn, bị
đơn có quyền khởi kiện lại yêu cầu này là đúng quy định khoản 2 Điều 244 của Bộ
luật tố tụng dân sự, không có căn cứ để cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo
này của bị đơn.
[4.2]. Về quan hệ tranh chấp:
Ngày 18/4/2021, nguyên đơn ông Lừu Goản H và bà Sỉ Seo D có nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 255989
được UBND huyện M cấp ngày 22/01/2016 cho gia đình ông Ly Mí H và bà Liều
Dỉnh M trú tại Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên gồm 02 thửa đất, hai bên có
lập hợp đồng chuyển nhượng, giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận là 200 triệu
đồng. Ngày 18/4/2021 gia đình nguyên đơn thanh toán trước cho ông Ly Mí H và bà
Liều Dỉnh M 100 triệu đồng, đến ngày 28/01/2022 thanh toán số tiền còn lại 100
triệu đồng. Ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M đã nhận đủ số tiền 200 triệu đồng. Diện
tích đất gia đình ông H chuyển nhượng cho nguyên đơn đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 167, Điều 188 Luật Đất đai năm
2013 gia đình ông H có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mặc dù Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản giữa gia đình ông H và nguyên đơn
chưa được công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất
đai. Tuy nhiên các thỏa thuận trong hợp đồng đảm bảo về điều kiện, mục đích và
hình thức theo quy định tại Điều 117, 119, 129, 398, 401 của Bộ luật dân sự. Hợp
đồng đã được thực hiện như hai bên đã thỏa thuận, không có bên nào khiếu nại
hoặc có ý kiến khác, nên hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực kể từ ngày nguyên
đơn thực hiện xong nghĩa vụ tài chính 28/01/2022 nhận bàn giao quyền sử dụng
đất và nhà cùng tài sản trên đất, theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự
2015 hợp đồng chuyển nhượng không vô hiệu các bên không phải thực hiện công
chứng, chứng thực.
Diện tích đất đang tranh chấp, nguyên đơn và bị đơn đều công nhận là 7.100
m
2
thuộc thửa đất số 4, tờ bản đồ số 15, tại khu vực P (Suy Cớ T, Sờ C) thuộc Bản
H, xã H, huyện M, một phần thửa đất diện tích 2.095,2 m
2
đã được UBND huyện M
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Ly Mí H và bà Liều Dỉnh M
vào ngày 22/01/2016. Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên đã có văn bản khẳng
định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.095,2 m
2
cho hộ
gia đình ông Ly Mí H bà Liều Dỉnh M là đúng đối tượng, đảm bảo về trình tự, thủ tục
theo quy định tại khoản 2 Điều 101; khoản 4 Điều 129 Luật đất đai năm 2013; khoản 5
Điều 20 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật đất đai. Bị đơn cho rằng việc Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh
Điện Biên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Ly Mí H bà
9
Liều Dỉnh M không đúng quy định, thủ tục bị đơn không biết việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho gia đình ông Hồ. Ý kiến này của bị đơn là không có căn cứ tại
BL 233 – 238 thể hiện Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M đã có tờ trình gửi Ủy
ban nhân dân huyện M đề nghị công nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (đất sản xuất
nông nghiệp) cho hộ gia đình, cá nhân tại xã H, huyện M trong danh sách các hộ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có tên hộ gia đình bị đơn và
hộ gia đình ông Ly Mí H, bà Liều Dỉnh M cùng được đề nghị và được Ủy ban nhân dân
huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp theo Quyết
định số 126/QĐ-UBND ngày 22/01/2016 của Ủy ban nhân dân huyện M, mặt khác khi
làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của M bị đơn cũng không làm thủ
tục đối với diện tích đất đang tranh chấp này nên không có căn cứ để chấp nhận ý kiến
của bị đơn về việc không biết việc Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.095,2 m
2
cho hộ gia đình ông Ly Mí
H và bà Liều Dỉnh M.
Đối với diện tích 5.004,8 m
2
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất: Diện tích đất này cùng với diện tích 2.095,2 m2 đều thuộc thửa đất số 4, tờ
bản đồ số 15 và được những người làm chứng là ông Sần Sú M trưởng bản, ông
Thàn Quáng S là người nhà của nguyên đơn và bị đơn và các chủ giáp ranh với
diện tích đất đang tranh chấp là bà Lò Mẩy C, bà Thoàn Chử M đều xác nhận “Gia
đình ông H đã canh tác liên tục sau đó chuyển nhượng cho gia đình ông H, khi ông
H chuyển nhượng gia đình ông M cũng biết vì người trong bản ai làm gì đều biết
cả nhưng không thấy gia đình ông M có ý kiến gì (BL 151, 152, 153-154, 166A).
Tại công văn số: 34b/CV-TTQLĐĐ ngày 14 tháng 3 năm 2023 và công văn số:
161b/CV-TTQLĐĐ ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Trung tâm quản lý đất đai
huyện M, xác định: Diện tích còn lại 5.004,8 m
2
thuộc đất ngoài quy hoạch 3 loại
rừng (BL 211).
Bị đơn khai nhận nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp là 7.100 m
2
là đất
của mẹ bị đơn cho từ năm 1998, sau khi được cho bị đơn canh tác được 02 năm rồi
bỏ hoang do tập quán sản xuất của người dân địa phương bỏ hoang để phục hồi
đất, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa làm thủ tục kê
khai để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và từ trước đến nay chưa được
nộp tiền thuế đất và cũng không có đề nghị xin miễn nghĩa vụ nộp tiền thuế, chưa
được cơ quan có thẩm quyền giao quản lý, sử dụng đất, chưa có một loại giấy tờ gì
theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai. Bà Thàn Chín T mẹ của bị đơn cũng thừa
nhận thửa đất tranh chấp là của vợ chồng bà chia cho con trai là Sần Sẻng M, việc
cho đất chỉ cho bằng miệng không có giấy tờ gì, bà cũng không có giấy tờ gì chứng
minh thửa đất tặng cho là của gia đình bà. Vì vậy không có căn cứ để xác định
10
7.100 m
2
đất thuộc thửa đất số 4, tờ bản đồ số 15 thuộc quyền sử dụng, quản lý của
bị đơn. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
có căn cứ, vì vậy không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị
đơn.
[4.3]. Từ những phân tích tại các mục [4.1], [4.2], [4.3] không có căn cứ để
Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn về việc hủy bản án sơ
thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
M, tỉnh Điện Biên. Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát,
giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên về mặt nội dung, tuy nhiên do phần
quyết định của Bản án có một số nội dung cấp sơ thẩm tuyên chưa đúng quy định
của pháp luật cần được sửa lại theo đúng quy định tại Điều 59, Điều 169 của Luật đất
đai,
[5] Về chi phí tố tụng và án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng
dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án.
Hội đồng xét xử xét thấy, việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn do vậy buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là đúng quy định tại khoản 1 Điều
147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 26
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng, án
phí, lệ phí Tòa án.
Bị đơn kháng cáo không được chấp nhận phải chịu 300.000 đồng án phí dân
sự phúc thẩm nhưng bị đơn là người dân tộc thiểu số sinh tại bản đặc biệt khó
khăn, tại phiên tòa có ý kiến xin miễn nộp ứng án phí phúc thẩm. Theo quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án, bị đơn được miễn án phí dân sự phúc thẩm. Trả
lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số: 0001714 ngày 06/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện M, tỉnh Điện Biên cho bị đơn ông Sần Sẻng M và bà Liều Tỷ D.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

11
Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn về việc hủy bản án sơ thẩm
dân sự sơ thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện M, tỉnh Điện Biên
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên, cụ thể như sau:
2.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lừu Goản H
và chị Sỉ Seo D.
2.1.2. Nguyên đơn anh Lừu Goản H và chị Sỉ Seo D được quyền sử dụng
2.095,2 m
2
đất đã được UBND huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào
ngày 22/01/2016. Số vào sổ cấp GCN: CH00682 mang tên ông Ly Mí H và bà Liều
Dỉnh M, thuộc thửa đất số 04 tờ bản đồ số 15; địa chỉ thửa đất: Khu vực P, thuộc Bản
H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên. Nguyên đơn anh Lừu Goản H và chị Sỉ Seo D
được quyền đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục sang tên
đổi chủ đối với thửa đất số 04 tờ bản đồ số 15 diện tích đất 2.095,2 m
2
cấp
GCNQSDĐ vào ngày 22/01/2016 số vào sổ cấp GCN: CH00682 theo quy định
pháp luật.
2.1.3. Nguyên đơn anh Lừu Goản H và chị Sỉ Seo D được tiếp tục sử dụng
5.004,8 m
2
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số
04 tờ bản đồ số 15; địa chỉ thửa đất: Khu vực P, thuộc Bản H, xã H, huyện M, tỉnh
Điện Biên. Anh H và chị D có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kê
khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất
đai. (Sơ đồ đất kèm theo).
Phía bắc giáp đất rừng thuộc tiểu khu 459 có các cạnh dài 8,7 m + 9,0 m +
41,5 m + 13,5 m. Phía nam giáp đất rừng thuộc tiểu khu 480, có các cạnh dài 9,5 m
+ 9,9 m + 31,7 m + 4,9 m + 10,8 m. Phía tây giáp đất nương của bà Thàn Chử M,
có các cạnh dài 30,5 m + 17,3 m + 43,4 m. Phía đông giáp đất nương của Lò Mẩy
C có các canh dài 19,2 m + 73,9 m.
Phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong tổng diện tích
7.100 m
2
có các cạnh tiếp giáp:
Phía bắc giáp diện tích đất đang tranh chấp bên phía thuộc tiểu khu 459 có
cạnh dài 38,9 m. Phía nam giáp diện tích đất đang tranh chấp bên phía thuộc tiểu
12
khu 480, có cạnh dài 37,3 m. Phía tây giáp diện tích đất đang tranh chấp bên phía
đất nương của bà Thàn Chử M, có các cạnh dài 32,4 m + 25,5 m. Phía đông giáp
đất nương của Lò Mẩy C có cạnh dài 51,9 m. Tổng diện tích là 2.095,2 m
2
.
2.1.4. Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn về yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 04 tờ bản đồ số 15 diện tích đất 2.095,2 m
2
cấp GCNQSDĐ vào ngày 22/01/2016 số vào sổ cấp GCN: CH00682.
2.1.5. Về chi phí đi xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc ông Sần Sẻng M và bà Liều
Tỷ D phải chịu 3.600.000 đồng (ba triệu sáu trăm nghìn đồng) tiền xem xét thẩm định
tại chỗ, ông M và bà D đã nộp 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng). Còn
1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng) buộc ông Sần Sẻng M phải trả
900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng) cho anh Lừu Goản H. Buộc bà Liều Tỷ D phải
trả 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng) cho anh Lừu Goản H.
Căn cứ khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành
án chậm thi hành án khoản tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm trả lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật dân sự.
Quyết định này được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí: Ông Sần Sẻng M và bà Liều Tỷ D Miễn được miễn án phí dân
sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001714 ngày
06/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Điện Biên cho bị đơn
ông Sần Sẻng M và bà Liều Tỷ D .
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (28/11/2024).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Điện Biên;
- TAND huyện M;
- Chi cục THADS huyện M;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Đỗ Thu Hương
13
,
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm