Bản án số 99/2024/DS-ST ngày 23/08/2024 của TAND huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng gia công
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 99/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 99/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 99/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 99/2024/DS-ST ngày 23/08/2024 của TAND huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng gia công |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng gia công |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hòa Thành (TAND tỉnh Tây Ninh) |
Số hiệu: | 99/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng xây dựng giữa anh NHAC và chị NKT |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HT, TỈNH TN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bích Vân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Tô Hiền Đức.
2. Ông Bùi Dân An.
- Thư ký phiên tòa: Ông Thái Công Danh - Thư ký Tòa án nhân dân thị xã
HT, tỉnh TN.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã HT, tỉnh TN tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Lâm Thúy Vi- Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã HT, tỉnh TN
xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 215/2024/TLST-DS ngày 23 tháng
5 năm 2024 về việc “Tranh chấp Hợp đồng xây dựng” theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số 121/2024/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 7 năm 2024 và Quyết định
hoãn phiên tòa số 90/2024/QĐST-DS ngày 01 tháng 8 năm 2024, giữa các đương
sự:
* Nguyên đơn: Anh NHAC, sinh năm 1977; Địa chỉ đăng ký hộ khẩu
thường trú: ấp Lập Thành, xã Khánh Hòa Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An;
Hiện tạm trú: Số nhà 15/8, Ô4, đường Trảng Dầu, ấp Trường Đức, xã Trường
Đông, thị xã HT, tỉnh TN (Có mặt).
* Bị đơn: Chị Ngô Kim Th, sinh năm 1987; Địa chỉ: Số 27, tổ 1, ấp Trường
Lộc, xã Trường Tây, thị xã HT, tỉnh TN (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong đơn khởi kiện ngày 17/5/2024 và các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn anh NHAC trình bày:
Anh Ch làm nghề thầu xây dựng, chị Th là người thuê anh Ch xây dựng công
trình cho chị Th, giữa anh Ch và chị Th không có họ hàng gì. Vào tháng 7/2023, vì
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ HT
TỈNH TN
Bản án số: 99/2024/DS-ST
Ngày: 08-8-2024
V/v “Tranh chấp Hợp đồng
xây dựng”.
NINH
2
mối quan hệ quen biết giữa chị Th và em vợ của anh Ch nên giới thiệu anh Ch cho
chị Th để xây dựng công trình. Sau khi liên hệ với chị Th, thương Th việc anh Ch
xây dựng cho chị Th 01 quán cà phê, diện tích ước chừng khoảng 230m
2
, với tổng
giá trị 125.000.000 đồng, thì hai bên thống nhất giao kết, nhưng chỉ là giao kết
miệng, không có lập hợp đồng bằng văn bản. Sau khi xây dựng xong diện tích nêu
trên, chị Th yêu cầu anh Ch tiếp tục xây dựng thêm các công trình, hạng mục khác
cho chị Th (cũng là thỏa thuận miệng, không ký kết hợp đồng xây dựng) nên giá trị
tiền công xây dựng cũng tăng lên. Do đó, tổng tiền công các công trình, hạng mục
mà anh Ch đã xây dựng cho chị Th, bao gồm:
Diện tích nhà 80m
2
x 1.250.000 đồng/m
2
= 100.000.000 đồng; Dán gạch 170m
2
x 100.000 đồng/m
2
= 17.000.000 đồng; Nhà quán ăn 150m
2
x 450.000 đồng/m
2
=
67.000.000 đồng; Lát gạch vỉa hè 197m
2
x 60.000 đồng/m
2
= 11.820.000 đồng; Xây
tường rào 44m tới x 1.150.000 đồng/m tới = 50.600.000 đồng; Hàn điện gia công trụ
bồn nước và ghế 15,5 ngày công x 500.000 đồng/ngày công = 8.750.000 đồng; Phát
sinh làm cổng là 2.105.000 đồng; Cán hồ cổng 20m
2
x 70.000 đồng/m
2
= 1.400.000
đồng; Chà ron gạch vỉa hè 12 ngày công x 360.000 đồng/ngày = 4.320.000 đồng;
Tổng giá trị tiền công của công trình là 262.995.000 đồng.
Trong quá trình xây dựng, chị Th đã thanh toán cho anh Ch số tiền 205.000.000
đồng, còn nợ lại 57.995.000 đồng. Đến ngày 28/12/2023, anh Ch bàn giao toàn bộ
công trình, hạng mục thi công cho chị Th, chị Th nghiệm thu và đồng ý. Hai bên lập
biên bản bàn giao công trình ngày 28/12/2023, thể hiện rõ từng khoản, từng hạng
mục thi công và tổng giá trị phải thanh toán, sau khi chị Th đọc thì ký tên đồng ý
“đã nhận nhà”, xác nhận tổng số tiền của công trình là 262.995.000 đồng. Tại thời
điểm nhận bàn giao công trình, chị Th trình bày cho chị Th thêm thời gian để trả
57.995.000 đồng còn lại. Tuy nhiên, anh Ch đã nhiều lần liên hệ với chị Th, yêu cầu
chị Th trả 57.995.000 đồng thì chị Th cố tình trốn tránh, chặn số điện thoại, không
trả tiền cho anh Ch nên anh Ch khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết vụ việc.
Nay anh Ch yêu cầu chị Th phải trả tiền xây dựng còn lại là 57.995.000 đồng
(Năm mươi bảy triệu, chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng). Ngoài ra, anh Ch
không còn yêu cầu gì khác.
- Tại Bản tự khai ngày 17/6/2024 cũng như tại phiên tòa, bị đơn chị
NKTtrình bày: Anh Ch là thầu xây dựng, chị Th thuê anh Ch xây dựng công trình
cho chị Th, giữa chị Th và anh Ch không có họ hàng gì. Vào tháng 7/2023, thông
qua mối quan hệ quen biết với em vợ của anh Ch nên chị Th liên hệ với anh Ch để
xây dựng các công trình, hạng mục cho chị Th. Sau khi liên hệ, thương Th giá cả,
hai bên thống nhất anh Ch xây dựng cho chị Th 01 quán cà phê, diện tích khoảng
3
230m
2
, với giá 125.000.000 đồng, hai bên thống nhất giao kết nhưng chỉ giao kết
miệng, không lập hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên, sau khi xây dựng xong diện
tích nêu trên, anh Ch đề xuất xây thêm các hạng mục khác cho chị Th, việc anh Ch
tự ý xây dựng và chất lượng thi công công trình không đảm bảo, tăng ngày công lao
động để nâng tổng giá trị của các hạng mục là 262.995.000 đồng. Trong quá trình
xây dựng, chị Th đã thanh toán được cho anh Ch số tiền 205.000.000 đồng, còn nợ
lại 57.995.000 đồng. Đến ngày 28/12/2023, anh Ch bàn giao toàn bộ công trình cho
chị Th, chị Th nghiệm thu công trình và đưa vào sử dụng ổn định cho đến nay.
Nay chị Th thừa nhận còn nợ anh Ch số tiền xây dựng còn lại là 57.995.000
đồng, tuy nhiên vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên xin trả dần hàng tháng, mỗi tháng
1.000.000 đồng, thời gian bắt đầu trả nợ là ngày 25/01/2025 âm lịch cho đến khi trả
hết số tiền nợ cho anh Ch. Trường hợp anh Ch không đồng ý, thì chị Th cũng không
đồng ý trả cho anh Ch số tiền nêu trên vì anh Ch đã tự ý xây dựng thêm các hạng
mục, chất lượng công trình không đảm bảo, gia tăng ngày công lao động nên đã
nâng tổng số tiền của cả công trình tăng nhiều như vậy.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã HT, tỉnh TN:
Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và
đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền
của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng
trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt Nội quy phiên tòa.
Về nội dung: Căn cứ các Điều Điều 138, 139, 140, 144 của Luật Xây dựng
năm 2014; Căn cứ các Điều 351, 400, 401 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh NHAC đối với chị NKTvề “Tranh
chấp hợp đồng xây dựng”. Buộc chị NKTcó nghĩa vụ trả cho anh NHAC số tiền
57.995.000 đồng (Năm mươi bảy triệu, chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
- Về án phí: Tính án phí theo quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
4
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn anh NHAC khởi kiện
yêu cầu bị đơn chị NKTtrả số tiền còn nợ phát sinh từ việc xây dựng các công
trình, hạng mục cho chị NKTvào tháng 7/2023. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26
của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 138 của Luật Xây dựng năm 2014, quan hệ
pháp luật tranh chấp giữa các bên được xác định là “Tranh chấp hợp đồng xây
dựng”.
[1.2] Về thẩm quyền thụ lý vụ án: Bị đơn chị NKTcó nơi cư trú tại nhà số
27, tổ 1, ấp Trường Lộc, xã Trường Tây, thị xã HT, tỉnh TN. Căn cứ điểm a khoản
1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã HT, tỉnh TN.
[1.3] Về người tham gia tố tụng và sự có mặt của các đương sự: Xét, bị
đơn chị NKTđã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các lần
triệu tập hợp lệ để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuy
nhiên, chị NKTchỉ đến Tòa án vào ngày 17/6/2024. Sau đó, Tòa án triệu tập hợp lệ
chị NKTtham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải vào các ngày 12/7/2024, ngày 17/7/2024 nhưng chị NKTkhông đến
làm việc và không cung cấp thêm bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào. Do đó, xem như
chị Th từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trong quá trình giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung yêu cầu khởi kiện: Nguyên đơn anh NHAC khởi kiện yêu
cầu bị đơn chị NKTtrả số tiền xây dựng còn lại là 57.995.000 đồng.
Hội đồng xét xử, xét thấy:
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh Ch và chị Th đều thừa
nhận các bên có giao kết Hợp đồng xây dựng, cụ thể anh Ch xây dựng công trình
cho chị Th với diện tích khoảng 230m
2
, bằng hình thức thỏa thuận miệng, không
lập thành văn bản. Đây là tình tiết, sự kiện không không phải chứng minh. Do đó,
Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 92, Điều 119 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
làm cơ sở giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, anh Ch và chị Th thống nhất trình bày tổng các công trình, các
hạng mục mà anh Ch đã xây dựng cho chị Th, bao gồm: Diện tích nhà 80m
2
x
1.250.000 đồng/m
2
= 100.000.000 đồng; Dán gạch 170m
2
x 100.000 đồng/m
2
=
17.000.000 đồng; Nhà quán ăn 150m
2
x 450.000 đồng/m
2
= 67.000.000 đồng; Lát
gạch vỉa hè 197m
2
x 60.000 đồng/m
2
= 11.820.000 đồng; Xây tường rào 44m tới x
1.150.000 đồng/m tới = 50.600.000 đồng; Hàn điện gia công trụ bồn nước và ghế
15,5 ngày công x 500.000 đồng/ngày công = 8.750.000 đồng; Phát sinh làm cổng là
2.105.000 đồng; Cán hồ cổng 20m
2
x 70.000 đồng/m
2
= 1.400.000 đồng; Chà ron
gạch vỉa hè 12 ngày công x 360.000 đồng/ngày = 4.320.000 đồng; Tổng giá trị tiền
5
công của công trình là 262.995.000 đồng. Trong quá trình xây dựng, chị Th đã thanh
toán cho anh Ch số tiền 205.000.000 đồng, còn nợ lại 57.995.000 đồng.
Tại phiên tòa, chị Th trình bày, sau khi xây dựng xong diện tích 230m
2
, anh
Ch đề xuất xây thêm các hạng mục khác cho chị Th, việc anh Ch tự ý xây dựng và
chất lượng thi công công trình không đảm bảo, tăng ngày công lao động để nâng
tổng giá trị của các hạng mục là 262.995.000 đồng. Tuy nhiên, chị Th không cung
cấp được bất kỳ chứng cứ gì để chứng minh, đồng thời, sau khi nghiệm thu công
trình, chị Th không có bất kỳ thắc mắc, khiếu nại hay khởi kiện anh Ch đến Tòa án
yêu cầu giải quyết việc vi phạm nghĩa vụ trong quá trình thi công công trình. Cụ
thể, đến ngày 28/12/2023, anh Ch bàn giao tất cả công trình cho chị Th, chị Th ký
tên nhận nhà và đưa vào sử dụng ổn định cho đến nay. Ngoài ra, tại Bản tự khai
ngày 17/6/2024 (bút lục 26) và Tờ cam kết (bút lục 27), chị Th thừa nhận còn nợ
anh Ch số tiền xây dựng còn lại là 57.995.000 đồng. Chị Th trình bày, vì hoàn cảnh
kinh tế khó khăn xin được trả dần hàng tháng, mỗi tháng 1.000.000 đồng, tính từ
ngày 25/01/2025 âm lịch cho đến khi trả hết nợ cho anh Ch, là không có cơ sở
chấp nhận. Bởi lẽ, bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm
dân sự đối với bên có quyền. Do đó, đã đủ cơ sở xác định, chị Th phải có nghĩa vụ
trả cho anh Ch số tiền còn lại là 57.995.000 đồng. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu
của anh Ch là phù hợp với quy định các Điều 138, 139, 140, 144 của Luật Xây
dựng năm 2014; Các Điều 351, 400, 401 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn chị NKTphải chịu 2.900.000 đồng
(Hai triệu chín trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã HT là phù hợp với
các tình tiết, chứng cứ và nội dung của vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
6
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 138, Điều 139, Điều 140 và Điều 144 của Luật Xây dựng năm
2014; Điều 351, Điều 400 và Điều 401 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh NHAC đối với chị NKTvề việc
tranh chấp hợp đồng xây dựng.
Buộc chị NKTcó nghĩa vụ trả cho anh NHAC số tiền 57.995.000 đồng (Năm
mươi bảy triệu, chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị NKTphải chịu 2.900.000 đồng (Hai triệu,
chín trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho anh NHAC số tiền 1.450.000 đồng (Một triệu, bốn trăm năm
mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0011217 ngày 23/5/2024 của Ch cục Thi
hành án dân sự thị xã HT, tỉnh TN.
3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh TN
trong thời hạn mười lăm ngày kể từ tuyên án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Bích Vân
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- TAND cấp cao;
- VKSND cấp cao;
- Vụ Giám đốc kiểm tra 1
- TAND tỉnh TN.
- Phòng Kiểm tra nghiệp vụ;
- VKSND thị xã HT;
- CC.THADS thị xã HT;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu tập án.
Tải về
Bản án số 99/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 99/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 18/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 24/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 22/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm