Bản án số 25/2025/DS-ST ngày 16/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 25/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 25/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 25/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 25/2025/DS-ST ngày 16/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 - Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 1 - Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh |
Số hiệu: | 25/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | kiện đòi tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẠ LONG
TỈNH QUẢNG NINH
Bản án số: 25/2025/DS-ST
Ngày: 16 - 6 - 2025
“V/v tranh chấp kiện đòi tài sản”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thu Hiền
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Hồ Thị Lan
Bà Phạm Thu Hà
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Thu Hà - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
tham gia phiên tòa: Bà Trương Thị Khánh Ly - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 12 và 16 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số
309/2025/TLST-DS ngày 17 tháng 10 năm 2024 về việc “tranh chấp kiện đòi tài sản”,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2025/QĐXXST-DS ngày 18/4/2025 và
Quyết định hoãn phiên toà số 88/2025/QĐST-DS ngày 14/5/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty cổ phần Gang Thép T; địa chỉ: tổ 13, phường C,
thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh H
- chức vụ: Tổng giám đốc.
Đại diện theo uỷ quyền:
+ Ông Lê Đức K- chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Công ty cổ phần Gang thép
T tại Quảng Ninh; địa chỉ liên hệ: tổ 8, khu 6, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng
Ninh; có mặt.
+ Ông Hoàng Danh S- chức vụ: Kế toán trưởng Công ty cổ phần Gang thép
T; địa chỉ liên hệ: tổ 3, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt.
+ Bà Nguyễn Thị Thu H - chức vụ: Phó trưởng phòng Tài chính kế toán
Công ty cổ phần Gang thép T; địa chỉ liên hệ: tổ 13, phường T, thành phố T, tỉnh
Thái Nguyên; có mặt.
+ Bà Lê Thị Minh T- chức vụ: Phó trưởng Phòng phụ trách chung Phòng Kế
toán - Chi nhánh Công ty cổ phần Gang thép T tại Quảng Ninh; địa chỉ liên hệ: tổ 3,
khu 4, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Minh T –
Luật sư Công ty TNHH MTV K và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; địa
chỉ: số 91 Thợ Nhuộm, phường T, quận H, thành phố Hà Nội; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Phan Thanh P; sinh năm: 1970; nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú: tổ 2, khu 1, phường Đ, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt không
có lý do.
3. Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần T; địa chỉ:
khu 3, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; người đại diện theo pháp luật:
Ông Phạm Công C - chức vụ: Giám đốc;
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Lê Cao L; nơi cư trú: tổ 1, khu 4D,
phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; có đơn xin vắng mặt.
4. Những ngƣời làm chứng:
- Ông Đỗ Viết D; sinh năm 1951; nơi cư trú: tổ 7, khu 3B, phường Giếng
Đáy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Bà Hoàng Thị Bích N; sinh năm 1974; nơi cư trú: tổ 2B, khu 9A, phường
B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh
- Anh Lê Đức C; sinh năm 1978; nơi cư trú: tổ 2, khu 7, phường B, thành
phố H, tỉnh Quảng Ninh.
- Chị Phạm Thị Ngọc H; sinh năm 1977; nơi cư trú: tổ 3, khu 3B, phường G,
thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.
Đều có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tố tụng, người đại diện theo uỷ
quyền của Công ty cổ phần Gang thép T (viết tắt là Công ty Gang thép T) là ông Lê Đức
K trình bày:
Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh là đơn vị phụ thuộc Công ty
Gang thép T. Ngày 05/8/2002, Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh
thành lập Cửa hàng Kinh doanh kim khí và Vật tư tổng hợp G số I và ông Phan
Thanh P là cửa hàng trưởng. Ngày 29/3/2005, Cửa hàng G I sáp nhập với Cửa hàng
Kinh doanh kim khí và Vật tư tổng hợp II thành Cửa hàng G, ông P là phó Cửa hàng
trưởng. Ngày 28/02/2006 ông P điều động về làm chuyên viên tại bộ phận kinh doanh
của Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh. Trong thời gian từ năm 2002
đến năm 2009, khi thực hiện nhiệm vụ bán hàng, ông P không thu đủ tiền hàng, nộp
chậm tiền hàng, không nộp tiền lãi cho công ty, cụ thể như sau:
* Về tiền hàng chƣa nộp 3.882.311.692 đồng, gồm:
- Thời gian ông P làm cửa hàng Trưởng Cửa hàng G I là 920.050.523 đồng,
trong đó:
+ Bán thép cho Công ty Hoàng Thạch với số lượng là 75,074 tấn trị giá
395.840.534 đồng, đã trả 135.840.000 đồng, chưa thu được 260.000.000 đồng. Sau khi
trừ đi chi phí bán hàng của cửa hàng là 50.000.000 đồng, còn nợ 210.000.000 đồng.
+ Bán thép cho Công ty TNHH Thuận Đạt chưa thu được 62.080.529 đồng.
3
+ Bán thép cho Công ty CP TM Thái Dương chưa thu được 181.345.400 đồng.
+ Bán thép cho Công ty CP Chế biến Thuỷ Sản Hạ Long chưa thu được
58.706.025 đồng.
+ Bán thép cho Công ty KD thép và vật tư tổng hợp Hà Nội chưa thu được
127.000.338 đồng.
+ Bán thép cho Công ty CP thương mại Đông Đô chưa thu được 280.918.231 đồng.
- Thời gian ông P làm Chuyên viên tại Chi nhánh Công ty Gang thép T tại
Quảng Ninh là 2.823.153.761 đồng, trong đó:
+ Bán thép cho Công ty thép hình và tấm lợp Việt Á chưa thu được
1.715.165.510 đồng.
+ Bán thép cho Xí nghiệp tư vấn xây dựng - Công ty 508 chưa thu được
1.107.988.251 đồng.
Các khoản tiền trên đều có biên bản chốt nợ và hoá đơn bán hàng.
- Ngoài ra, trong thời gian làm tại Chi nhánh Công ty Gang thép tại Quảng Ninh,
Ông P còn lấy 8,190 tấn thép trị giá 115.955.658 đồng (gồm 110.433.960 đồng tiền
hàng và 5% tiền thuế) mang đi bán nhưng chưa thanh toán cho Chi nhánh (ông P đã
xác nhận tại Biên bản ngày 16/10/2012 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh
Thái Nguyên).
- Tiền hàng bán lẻ trước năm 2002 tại Công ty Kim khí Quảng Ninh (năm
2002 sáp nhập Công ty Gang thép T) là 23.151.750 đồng chưa nộp (theo Biên bản
tổng hợp giải quyết công nợ khó đòi số 574/CN ngày 12/10/2005).
* Về tiền lãi do chậm nộp tiền hàng là 150.241.305 đồng, cụ thể:
- Thời điểm ở Cửa hàng G: lãi tháng 06/2006 theo Quyết 225/2007/QĐ-CNQN
ngày 16/7/2007 là 36.760.978 đồng, gồm tiền lãi của số tiền hàng chưa thu được của
các Công ty Hoàng Thạch, Thuận Đạt, Thái Dương, Thuỷ Sản Hạ Long, Công ty KD
Thép vật tư Tổng hợp Hà Nội, Công ty Đông Đô và một số công ty khác (những công
ty khác này đến nay đã thanh toán đủ tiền hàng).
- Thời điểm ở Văn phòng Chi Nhánh Công ty Gang Thép T tại Quảng Ninh: lãi
tháng 6/2006 theo Quyết định 225/2007/QĐ-CNQN ngày 16/7/2007 là 53.482.519
đồng, gồm tiền lãi của số tiền hàng thu chậm đối với Công ty cổ phần Tín Phát, Công
ty TM gia công kim khí và Công ty cầu 75, đến ngày 30/7/2007 tại Phiếu thu số 314
ông P đã thanh toán 20.000.000 đồng, còn nợ là 33.482.519 đồng.
- Tiền lãi của 115.955.658 đồng tiền hàng còn thiếu: từ năm 2009 đến tháng
11/2012 là 79.997.808 đồng.
Tại Biên bản làm việc ngày 15/6/2016, Công ty Gang thép T và ông Phan Thanh
P đã chốt tổng số công nợ của ông P như trên là: 4.032.552.997 đồng và phương án
trả nợ từ ngày 15/6/2016. Tuy nhiên, ông P không trả nợ như cam kết. Ngày
16/3/2020, hai bên tiếp tục đối chiếu công nợ xác định ông P vẫn nợ Công ty số tiền
như trên. Ngày 24/7/2020, ông P trả cho Công ty 150.000.000 đồng, còn nợ
3.882.552.997 đồng. Từ đó cho đến nay ông P không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền
trên cho Công ty. Căn cứ quy định tại mục 6.4 Điều 6 của Nội quy kỷ luật lao động và
trách nhiệm vật chất bán hàng kèm theo Quyết định số 52 ngày 30/7/2002; mục 3 về

4
quản lý công nợ theo quy định tạm thời về quản lý công tác kế toán tài chính số
113/CN-QN ngày 14/8/2002; mục III về quản lý công nợ theo quy định tạm thời về
quản lý công tác kế toán tài chính số 09/CNQN ngày 01/01/2004; mục 3 của Quy chế
kinh doanh số 03 ngày 01/10/2004; mục 4.1 của Phụ lục kèm theo Quyết định số 271
ngày 30/6/2005 của Chi nhánh Công ty Gang thép tại Quảng Ninh, ông P có trách
nhiệm trả cho Công ty Gang thép T toàn bộ số tiền trên và tiền lãi trên số tiền chưa
trả. Vì vậy, Công ty khởi kiện yêu cầu ông P trả tổng số tiền tạm tính đến ngày
29/02/2024 là 6.265.336.346 đồng, trong đó:
- Theo biên bản chốt công nợ là 3.882.552.997 đồng (đã trừ 150.000.000 đồng
tiền hàng ông P trả ngày 24/7/2020).
- Tiền lãi của số tiền chưa trả là 2.382.783.349 đồng (trong đó, từ ngày
15/6/2016 đến 23/7/2020 tính lãi trên số tiền 4.032.552.997 đồng x 7,8%/năm =
1.290.903.075 đồng; từ ngày 24/7/2020 tạm tính đến ngày 29/02/2024 tính lãi trên số
tiền 3.882.552.997 đồng x 7,8%/năm = 1.091.880.274 đồng).
* Quá trình tố tụng, bị đơn ông Phan Thanh P trình bày: đồng ý chốt nợ theo
Biên bản làm việc ngày 15/6/2016 giữa ông P và Công ty Gang thép T, cụ thể:
- Đồng ý trả các khoản tiền hàng còn nợ gồm:
+ Tiền hàng của Công ty tấm lợp Việt Á, nhưng trừ đi 46 tấn hàng trị giá
519.225.000 đồng (vì không thuộc trách nhiệm của Công ty Việt Á) và số tiền
150.000.000 đồng ông P đã trả ngày 24/7/2020, cụ thể là: 1.715.165.510 đồng -
519.225.000 đồng - 150.000.000 đồng = 1.045.940.510 đồng.
+ Tiền hàng còn thiếu của 8,190 tấn thép trị giá 115.955.658 đồng;
+ Tiền hàng bán lẻ trước năm 2002 tại Công ty Kim khí Quảng Ninh là
23.151.750 đồng.
- Đối với khoản tiền hàng còn lại, ông P đề nghị được phối hợp cùng công ty
đi đòi, gồm: khoản nợ Xí nghiệp tư vấn xây dựng - Công ty 508 là 1.107.988.251 đồng;
khoản nợ tại Cửa hàng G I là 920.050.523 đồng.
- Về các khoản tiền lãi, ông P đề nghị công ty xem xét miễn cho ông.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên Công ty cổ phần T trình bày: Xí nghiệp
tư vấn và xây dựng - Công ty 508 thành lập năm 1995, là đơn vị thuộc Công ty
TNHH MTV 508. Năm 2010 chuyển đổi thành Xí nghiệp tư vấn xây dựng Công ty
TNHH MTV 508, đến năm 2024 dừng hoạt động. Năm 2014, thực hiện cổ phần hoá
Công ty TNHH MTV 508 được chuyển đổi thành Công ty cổ phần T, trên sổ sách
Công ty cổ phần T không theo dõi, không được bàn giao hay tiếp nhận công nợ của
Xí nghiệp tư vấn xây dựng Công ty 508 hay Công ty TNHH MTV 508. Do đó, việc
mua bán hàng hoá giữa ông Phan Thanh P và Xí nghiệp tư vấn và xây dựng - Công ty
508, Công ty cổ phần T không có quyền lợi hay nghĩa vụ liên quan và đề nghị Toà án
giải quyết vụ án theo quy định.
* Người làm chứng trình bày:
Ông Đỗ Viết D: Ông là Giám đốc Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng
Ninh từ tháng 11 năm 2003, đến năm 2011 ông nghỉ hưu theo chế độ. Thời điểm ông
P là Cửa hàng trưởng Cửa hàng G I và là chuyên viên bộ phận kinh doanh của Chi

5
nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh, theo quy chế, quy định của Công ty thì
khoản tiền hàng, tiền lãi ông P chưa nộp cho Công ty là trách nhiệm của cá nhân của
ông P. Bản thân ông P đã xác nhận và cam kết trả số tiền trên cho Công ty, nhưng
không thực hiện .
Chị Phạm Thị Ngọc H: từ năm 2002 đến năm 2008, chị công tác tại Chi nhánh
Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh. Công việc của chị là thống kê, theo dõi bán
hàng, lập hoá đơn bán hàng..v.v. Chị là người theo dõi lượng hàng ông Phan Thanh P
lấy để giao cho một số đơn vị, nên khi các đơn vị này chuyển tiền về mà được Phòng
kế toán báo chị sẽ viết hoá đơn.
Anh Lê Đức C: căn cứ vào số lượng, chủng loại hàng hoá ông Phan Thanh P
cung cấp, anh viết hoá đơn giá trị gia tăng cho Xí nghiệp tư vấn xây dựng Công ty
508. Ông P là cán bộ bán hàng của Chi nhánh nên có trách nhiệm bán hàng và thu tiền
hàng nộp về cho Chi nhánh. Ông P nhiều lần cam kết chịu trách nhiệm cá nhân về các
khoản nợ, nhưng chưa thực hiện.
Chị Hoàng Thị Bích N: Chị là Kế toán tổng hợp kho của Chi nhánh Công ty
Gang thép T tại Quảng Ninh. Năm 2014, khi Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh
Quảng Ninh điều tra về công nợ bán hàng của ông Phan Thanh P, chị đã cung cấp
chứng từ, hoá đơn bán hàng, cam kết trả nợ của ông P và các biên bản làm việc của
Công ty Gang thép T cho Công an.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu
khởi kiện, cụ thể không yêu cầu ông P trả tiền lãi đối với số tiền lãi chưa trả 150.241.305
đồng, yêu cầu khác giữ nguyên. Về tiền lãi đối với số tiền hàng chưa trả, tính từ ngày
15/6/2016 đến ngày xét xử (16/6/2025) yêu cầu ông P trả 2.651.821.876 đồng, cụ thể:
Từ ngày 15/6/2016 đến ngày 23/7/2020 là: 3.882.311.692đ x 7,8%/năm x 04
năm 01 tháng 08 ngày = 1.242.807.746 đồng;
Ngày 23/7/2020 ông P trả 150.000.000 đồng, nên từ ngày 24/7/2020 đến ngày
31/12/2024 tiền lãi tính trên số tiền là: 3.732.311.692 đồng x 7,8%/năm x 04 năm 05
tháng = 1.292.893.222 đồng;
Từ ngày 01/01/2025 đến ngày 16/6/2025 là: 3.732.311.692đ x 6,8%/năm x 05
tháng 16 ngày = 116.120.908 đồng.
Bị đơn ông Phan Thanh P vắng mặt tại phiên tòa nên không có quan điểm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh tham
gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
* Về tố tụng: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử thực hiện đúng quy định tại Điều 198, Điều 203 Bộ luật Tố
tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự về trình tự phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án; nguyên đơn, người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tại các Điều
70, 71, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn cơ bản chưa thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố Tụng dân sự.
* Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 164, 166, 357, 466,
468 Bộ luật Dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Gang thép
6
T, buộc ông Phan Thanh P phải trả số tiền nợ gốc chưa thanh toán và khoản tiền lãi
theo quy định của Bộ luật dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem
xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn Công ty cổ
phần Gang thép T khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Phan Thanh P trả tiền hàng không thu
được và tiền lãi cho Công ty. Ông P có nơi cư trú tại phường Đại Yên, thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “tranh chấp kiện đòi
tài sản” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long theo
khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
- Về thay đổi yêu cầu khởi kiện: tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể không yêu cầu ông P trả tiền lãi đối
với số tiền lãi 150.241.305 đồng. Việc thay đổi trong phạm vi yêu cầu khởi kiện ban
đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên chấp nhận.
- Về sự vắng mặt của đương sự: bị đơn ông Phan Thanh P được Tòa án triệu tập
hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan Công ty ty cổ phần Thống Nhất 508 có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điểm b
khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX xét xử vắng mặt các
đương sự này.
[2] Về nội dung:
2.1 Về yêu cầu của Công ty Gang thép T buộc ông Phan Thanh P trả tiền hàng
còn thiếu và tiền lãi do chậm nộp tiền hàng:
Ông Phan Thanh P làm việc tại Công ty kim khí Quảng Ninh từ năm 1995. Năm
2002, Công ty Kim khí Quảng Ninh sáp nhập với Công ty Gang thép T. Ngày
05/8/2002, Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh thành lập Cửa hàng G
I, ông P được bổ nhiệm là cửa hàng trưởng. Ngày 28/02/2006, ông P được điều động
về làm chuyên viên tại bộ phận kinh doanh của Chi nhánh Công ty Gang thép T tại
Quảng Ninh. Căn cứ lời khai của đương sự, phiếu thu, biên bản đối chiếu công nợ, tài
liệu, chứng cứ thu thập được xác định từ năm 2002 đến năm 2009, khi thực hiện
nhiệm vụ bán hàng, ông P không thu đủ tiền hàng và không nộp tiền lãi do chậm nộp
tiền hàng cho Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh cụ thể:
- Thời gian ông P làm cửa hàng Trưởng Cửa hàng G I: tiền hàng còn nợ là:
920.050.523 đồng, trong đó: Công ty Hoàng Thạch nợ 210.000.000 đồng; Công ty
TNHH Thuận Đạt nợ 62.080.529 đồng; Công ty CP TM Thái Dương nợ 181.345.400
đồng; Công ty CP Chế biến Thuỷ Sản Hạ Long nợ 58.706.025 đồng; Công ty KD thép
và vật tư tổng hợp Hà Nội nợ 127.000.338 đồng và Công ty CP thương mại Đông Đô
nợ 280.918.231 đồng.
- Thời gian ông P làm Chuyên viên tại Chi nhánh Công ty Gang thép T tại

7
Quảng Ninh tiền hàng còn nợ 2.823.153.761 đồng, trong đó: Công ty Thép hình và
Tấm lợp Việt Á: 1.715.165.510 đồng; Xí nghiệp tư vấn xây dựng - Công ty 508 nợ
1.107.988.251 đồng.
- Ông P bán lẻ 8,190 tấn thép trị giá 115.955.658 đồng (110.433.960 đồng
tiền hàng và 5.521.698 tiền thuế) chưa thanh toán cho Chi nhánh.
- Khi làm tại Công ty Kim khí Quảng Ninh, ông P bán lẻ hàng trị giá
23.151.750 đồng chưa nộp tiền cho Công ty.
- Về khoản tiền lãi 150.241.305 đồng do chậm nộp tiền hàng, cụ thể:
+ Ở Cửa hàng G: theo Quyết định số 225/2007/QĐ-CNQN ngày 16/7/2007,
ông P phải chịu trách nhiệm cá nhân tiền lãi chậm trả phải thu là 36.760.978 đồng.
+ Ở Văn phòng Chi Nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh: theo Quyết
định số 225/2007/QĐ-CNQN ngày 16/7/2007, ông P phải chịu trách nhiệm cá nhân
tiền lãi chậm trả phải thu là 53.482.519 đồng. Tại phiếu thu ngày 30/7/2007, ông P đã
trả 20.000.000 đồng, còn nợ là 33.482.519 đồng.
+ Tiền lãi chậm trả của tiền hàng còn thiếu 115.955.658 đồng từ năm 2009 đến
tháng 11/2012 là 79.997.808 đồng.
Tại Biên bản làm việc ngày 15/6/2016 giữa ông P và Công ty Gang thép T,
ông P đồng ý nhận trả các khoản nợ trên tổng là 4.032.552.997 đồng (nhưng tạm
trừ 46 tấn hàng thiếu của Công ty Tấm lợp Việt Á trị giá 519.225.000 đồng và đề
nghị miễn giảm tiền lãi 150.241.305 đồng), và cam kết trả nợ từ ngày 15/6/2016 đến
trước ngày 31/12/2017. Ngày 16/3/2020, tại Biên bản đối chiếu công nợ giữa ông P
và Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh chốt số tiền ông P nợ công ty là
4.032.552.997 đồng (chưa tính lãi suất) và đề nghị ông P trả nợ trước ngày
31/3/2020. Ngoài ra, trước đó tại Biên bản làm việc ngày 16/9/2013 với Công ty
Gang thép T và Bản cam kết ngày 17/01/2014 gửi Công an tỉnh Thái Nguyên và
Công ty Gang thép T, ông P cũng đã nhận trách nhiệm cá nhân và cam kết tự khắc
phục các khoản nợ cho Công ty Gang thép T, dùng giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông P để đảm bảo cho việc trả tiền. Tuy nhiên, ngày 24/7/2020, ông P
mới trả cho Công ty 150.000.000 đồng, còn lại 3.882.552.997 đồng chưa trả là vi
phạm thoả thuận tại các Biên bản làm việc trên.
Tại mục 6.4 Điều VI Quyết định số 52/TC-QĐ ngày 30/7/2002 quyết định nội
quy kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất quy định:
“…người lao động làm nhiệm vụ mua bán vật tư hàng hóa, tài sản có trách
nhiệm thanh lý hợp đồng theo các điều khoản hợp đồng. Trường hợp để khách
hàng chiếm dụng tiền hàng thì cá nhân người đó phải bồi thường 100% giá trị
thiệt hại tại thời điểm bồi thường….”.
Tại mục 3 Quyết định số 113/CN-QN ngày 14/8/2002 và mục III Quyết định số
09/CNQN ngày 01/01/2004 về quản lý công nợ theo quy định tạm thời về quản lý
công tác kế toán tài chính đều quy định:
“…..nếu cửa hàng nào để phát sinh công nợ quá hạn hay nợ khó đòi thì cửa
hàng trưởng các cửa hàng phải chịu trách nhiệm vật chất và xử lý hành chính trước
giám đốc chi nhánh và Nhà nước về những khoản nợ đó…..

8
Khi phát sinh công nợ quá hạn thanh toán thì khoản lãi suất chậm trả sẽ tính
vào quyền lợi của cửa hàng. Nếu không thu được thì cửa hàng trưởng phải chịu trách
nhiệm bồi thường….”
Tại mục 3 của Quy chế kinh doanh số 03 ngày 01/10/2004 và mục 4.1 của Phụ
lục kèm theo Quyết định số 271 ngày 30/6/2005 của Chi nhánh Công ty Gang thép
tại Quảng Ninh, đều quy định:
“Đơn vị cá nhân nào thuộc Chi nhánh tham gia bán hàng thì đơn vị cá nhân
phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc Chi nhánh về số lượng, trọng lượng, chất
lượng từng quy cách cỡ loại hàng hóa đã nhận, bán hàng đúng giá, thu tiền đúng
quy định của Công ty và của Chi nhánh.
Các cửa hàng trực tiếp bán hàng ông phụ trách cửa hàng phải chịu trách
nhiệm trước Giám đốc về bán hàng thu tiền cũng như các điều khoản thỏa thuận
với khách hàng được thể hiện trong hợp đồng mua bán.
Nếu không thu được tiền đúng hạn phải chịu lãi xuất theo quy định của phòng
Kế toán-Tài chính-Tổng hợp Chi nhánh.
Nếu để rủi ro mất vốn ông phụ trách đơn vị phải chịu trách nhiệm trực tiếp vì
những rủi ro chủ quan gây lên”.
Theo quy định trên việc ông P bán hàng nhưng không thu được tiền hàng, nộp
chậm tiền hàng cho Chi nhánh Công ty Gang thép T tại Quảng Ninh phải trả lãi là
thuộc trách nhiệm cá nhân của ông P. Tại Biên bản làm việc 15/6/2016 và Biên bản
đối chiếu công nợ ngày 16/3/2020, ông P nhận trách nhiệm cá nhân số tiền trên là tự
nguyện và phù hợp với quy chế và quy định của Công ty. Ông P đề nghị trừ 46 tấn
thép trị giá 519.225.000 đồng vì không thuộc trách nhiệm của Công ty Tấm lợp Việt
Á, nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh. Ngoài ra, ông P đề nghị phối hợp
với Công ty Gang thép T đi đòi nợ Xí nghiệp tư vấn xây dựng – Công ty 508, Công ty
Hoàng Thạch, Công ty TNHH Thuận Đạt nợ, Công ty CP TM Thái Dương, Công ty
CP Chế biến Thuỷ Sản Hạ Long, Công ty KD thép và vật tư tổng hợp Hà Nội và
Công ty CP thương mại Đông Đô. Tuy nhiên, các công ty này đều đã dừng hoạt động,
giải thể hoặc không còn hoạt động từ lâu nên không thể thu hồi tiền nợ được. Do đó,
đề nghị của ông P là không có cơ sở thực hiện. Từ những phân tích trên, chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của Công ty Gang thép T, buộc ông P trả số tiền 3.882.552.997
đồng, trong đó tiền hàng là 3.732.311.692 đồng, tiền lãi là 150.241.305 đồng.
2.1 Về yêu cầu của Công ty Gang thép T buộc ông Phan Thanh P trả tiền lãi:
Công ty Gang thép T yêu cầu ông P trả tiền lãi trên số tiền hàng chưa trả tính từ
ngày 15/6/2026 đến ngày xét xử (16/6/2025) tổng là 2.651.821.876 đồng, trong đó:
Từ ngày 15/6/2016 đến ngày 23/7/2020 tiền lãi tính trên tiền hàng là:
3.882.311.692đ x 7,8%/năm x 04 năm 01 tháng 08 ngày = 1.242.807.746 đồng;
Ngày 24/7/2020 ông P trả 150.000.000 đồng hàng, nên từ ngày 24/7/2020 đến
ngày 31/12/2024 tiền lãi tính trên số tiền hàng là: 3.732.311.692 đồng x 7,8%/năm x
04 năm 05 tháng = 1.292.893.222 đồng;
Từ ngày 01/01/2025 đến ngày 16/6/2025 là: 3.732.311.692đ x 6,8%/năm x 05
tháng 16 ngày = 116.120.908 đồng.

9
Xét thấy tại Biên bản làm việc ngày 15/6/2016, ông P đã chốt số tiền hàng còn
nợ Công ty Gang thép T và cam kết trả nợ từ ngày 15/6/2016 đến trước ngày
31/12/2016. Tuy nhiên, ông P không thực hiện đúng cam kết, vi phạm nghĩa vụ trả
tiền, việc Công ty Gang thép T yêu cầu ông P trả tiền lãi đối với số tiền hàng chưa
trả từ ngày 15/6/2016 là có căn cứ và đúng quy định tại mục 3 Quyết định số
113/CN-QN ngày 14/8/2002; mục III Quyết định số 09/CNQN ngày 01/01/2004 về
quản lý công nợ theo quy định tạm thời về quản lý công tác kế toán tài chính; mục 3
của Quy chế kinh doanh số 03 ngày 01/10/2004 và mục 4.1 của Phụ lục kèm theo
Quyết định số 271 ngày 30/6/2005 của Công ty Gang thép T Chi nhánh Quảng Ninh.
Về lãi suất, Công ty Gang thép T tính lãi suất từ ngày 15/6/2016 đến ngày 31/12/2024
là 7,8%/năm và từ ngày 01/4/2025 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 16/6/2025) là
6,8%/năm là phù hợp với Công văn số 1001/GTTN-KTTC ngày 02/12/2014 và số
08/GTTN-TCKT ngày 03/01/2025 về việc thực hiện lãi suất trong giao dịch của Công
ty Gang thép T; Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự. Do đó, chấp nhận yêu cầu của
Công ty Gang thép T về việc buộc ông P trả số tiền lãi như trên.
[3] Về án phí: yêu cầu khởi kiện của Công ty Gang thép T được chấp nhận,
ông P có nghĩa vụ trả cho Công ty Gang thép T số tiền 6.534.374.873 đồng, nên
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 114.534.375 đồng.
Trả lại cho Công ty Gang thép T 57.138.518 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự
sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại
Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 166, Điều 170, Điều 446, Điều 468, Điều 357
Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Gang thép
T, buộc ông Phan Thanh P phải trả cho Công ty cổ phần Gang thép T số tiền là
6.534.374.873đ (sáu tỷ năm trăm ba mươi bốn triệu ba trăm bảy mươi bốn nghìn
tám trăm bảy mươi ba đồng), trong đó tiền hàng 3.732.311.692đ (ba tỷ bảy trăm ba
mươi hai triệu ba trăm mười một nghìn sáu trăm chín mươi hai đồng), tiền lãi là
2.802.063.181đ (hai tỷ tám trăm linh hai triệu không trăm sáu mươi ba nghìn một
trăm tám mốt đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

10
2. Về án phí: Ông Phan Thanh P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là
114.534.375đ (một trăm mười bốn triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn ba trăm bảy
mươi lăm đồng).
Trả lại Công ty cổ phần Gang thép T 57.138.518đ (năm mươi bảy triệu một
trăm ba mươi tám nghìn năm trăm mười tám đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm theo Biên lai thu tiền số 0001244 ngày 17/10/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
3. Quyền kháng cáo: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt, nguyên
đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn;
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15
(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo
quy định của của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND thành phố Hạ Long;
- Chi cục THADS thành phố Hạ Long;
- TAND,VKSND tỉnh Quảng Ninh;
- Lưu hồ sơ, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thu Hiền

11
12
13
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 03/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 08/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 01/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm