Bản án số 59/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng gia công

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 59/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 59/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng gia công
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng gia công
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu: 59/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Dương Minh C khởi kiện Công ty TNHH Bình D
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 59/2024/DS - PT
Ngày: 18 - 11 - 2024
V/v tranh chấp hợp đồng gia công
và yêu cầu bồi thường thiệt hại
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Thu Lan
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Túc
Bà Huỳnh Thị Hồng Hoa
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Hồng Như - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi: Nguyễn Thị
Kim Quý - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 20 tháng 9, ngày 13 ngày 18 tháng 11 m 2024, tại
trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi mphiên tòa xét xử phúc thẩm công
khai vụ án dân sự thụ số 33/2024/TLPT-DS ngày 10 tháng 6 năm 2024, về
việc: “Tranh chấp hợp đồng gia công và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Do bản án dân sthẩm số 13/2024/DS-ST ngày 15/3/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Q bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 101/2024/QĐ-PT ngày
07/8/2024 Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 618/TB-TA ngày
18/10/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Dương Minh C - sinh năm 1965; trú tại thôn T,
N, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
- Bị đơn: Công ty TNHH C1.
Địa chỉ trụ sở: Lô F, khu công nghiệp Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật:Nguyễn Thị Thu D - Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Thanh H - sinh năm 1986; cư trú
tại số A đường N, phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi và ông Nguyễn Đức
N - sinh năm 1957; trú tại số A đường H, phường N, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi (theo văn bản ủy quyền ngày 20/9/2024).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn T - sinh năm 1983; trú tại xóm E, T, huyện C,
tỉnh Hà Tĩnh.
2
2. Ông Trần Văn Q - sinh năm 1984; cư trú tại thôn B, xã N, thị xã N, tỉnh
Thanh Hóa.
3. Ngô Thị Bích T1 - sinh năm 1981 ông Yin Minh T2 - sinh năm
1980; cùng trú tại số nB đường Đ, phường B, thành phố M, tỉnh Tiền
Giang.
4. Phạm Thị Thanh M - sinh năm 1966; trú tại số nhà G đường N,
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
5. Ông Trần Văn T3 - sinh năm 1981; ttại xóm T, thôn Đ, N,
huyện T, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người kháng cáo: Công ty TNHH C1 là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/12/2018, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và
tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là ông Dương Minh C trình bày:
Ông chủ doanh nghiệp nhân C2 kinh doanh thu mua, chế biến thủy
hải sản. Năm 2018, ông nhận đặt hàng của khách Thành phố Hồ Chí Minh
một số lượng lớn mực cấp đông thành phẩm nên ông cần tìm Công ty chuyên
chế biến thủy sản. Qua một người bạn giới thiệu, ông được biết Công ty TNHH
C1 (viết tắt Công ty C1) chuyên thu mua, gia công mực nên ông gọi điện
thoại vào Công ty C1 (cụ thể gọi trực tiếp cho D) đbàn bạc về việc mua
01 container mực với khối lượng 30 tấn thành phẩm từ 10up (tức chiều dài
của mực thành phẩm từ 10cm trở lên) với giá 24.500 đồng/kg, được bà D thống
nhất bằng lời nói; D yêu cầu ông đặt cọc để làm hàng nên ông đặt cọc
200.000.000 đồng vào ngày 15/9/2018 để D mua hàng; khi nào làm xong 30
tấn thì ông sẽ vào lấy hàng thanh toán số tiền còn lại. D hẹn sau 15 ngày
sẽ đầy đủ hàng giao cho ông. Ngày hôm sau, ông cho anh Nguyễn Văn T
anh Trần Văn Q là nhân viên của ông vào Công ty C1 để kiểm hàng. Anh T, anh
Q vào làm được khoảng 7 - 8 ngày thì Công ty C1 mới làm được khoảng 844
thùng (tương ứng khoảng 7.174 kg). Anh Q, anh T gọi điện báo cho ông biết là
Công ty C1 làm không đáp ứng yêu cầu về tiến độ. Ông gọi điện thoại làm việc
lại với D thì D bảo không tìm được nguồn hàng; ông nói với D smua
hàng (mực) bổ sung để giao cho D gia công làm cho kịp tiến độ để ông giao
hàng cho khách; bà D đồng ý thỏa thuận gia công với giá 3.500 đồng/kg. Sau đó,
ông liên hệ mua hàng của Phạm Thị Thanh M Quảng nh với số lượng
18.200,9kg M chở hàng vào Công ty C1 để anh T cân, kiểm đếm hàng
giao cho Công ty C1 gia công với khối lượng 18.691,5 kg mực xà. Ông mua
mực của M với số tiền 383.300.000 đồng và đã thanh toán chuyển khoản cho
chồng của M ông Trần Viết T4 vào ngày 21/9/2018. M giao hàng tại
kho của Công ty C1, sau đó bỏ mực vào khay, đưa vào kho cấp đông; cấp đông
xong thì đem ra bỏ vào hộp; anh T và anh Trần Văn T3 (quản đốc của ng ty
C1) kiểm đếm được 2.199 thùng mực rồi giao cho anh T3 đưa vào kho bảo
quản. Khi giao hàng, hai bên không lập biên bản giao nhận hàng mà phần người
nào thì người đó tự ghi sổ, lập phiếu theo dõi, hai bên tự đối chiếu với nhau.
Ngày 06/10/2018, ông gọi cho anh T báo ngày 08/10/2018, ông sẽ vào
nhận hàng. Anh T gọi cho anh T3 thông báo ngày 08/10/2018 sẽ lấy hàng; anh
T3 yêu cầu anh T ký phiếu nhập kho để xuất hàng. Do anh T việc về quê
Tĩnh nên anh T nhờ ông Yin Minh T2 vào phòng anh T (ở tạm khi làm hàng
Công ty C1) để lấy sổ anh T anh T3 đã chốt số lượng mực với nhau
trước đó để đối chiếu; sau khi đối chiếu sổ hai bên thấy khớp số lượng mực nên
ông T2 ký phiếu chốt sổ để có cơ sở cho Công ty C1 tính tiền gia công.
Ngày 08/10/2018, ông thuê xe container từ Thanh Hóa vào Công ty C1 để
nhận hàng, thanh toán tiền thì Công ty C1 không cho xuất hàng vì cho rằng ông
T2 người ký phiếu chốt sổ để tính tiền gia công chứ không phải ông nên bà D
không cho nhận hàng. Bà D ng không cho ông Yin Minh T2, bà Ngô Thị Bích
T1 nhận hàng cho rằng ông T2, T1 còn nợ D gần 1.000.000.000 đồng
tiền hàng chưa thanh toán. D chỉ đồng ý giao cho ông số lượng hàng trị giá
200.000.000 đồng ông đã đặt cọc trước đó. Ngày 12/10/2018, D đồng ý
xuất cho ông 9 thùng (8,6kg/thùng x 24.000 đồng/kg x 970 thùng), tương ứng
với số tiền 200.000.000 đồng đặt cọc, còn số lượng hàng 2.199 thùng mực gia
công còn lại, bà D không cho ông nhận.
Việc bà D cho rằng số hàng trên là của ông T2, T1 vì ông T2 ký vào sổ
nhập hàng nên không cho ông nhận hàng không schính ông T2,
T1 thừa nhận số hàng này là của ông. Việc ông T2, bà T1 có nợ tiền Công ty C1
hay không hoặc như thế nào thì ông không biết; D ngăn chặn không cho ông
nhận hàng gây thiệt hại về tiền bạc, công sức cũng như uy tín của ông.
Nay, ông yêu cầu Công ty C1 phải trả toàn bộ số hàng mực gia công
18.691,5kg mực (2.199 thùng), trị giá 383.300.000 đồng; bồi thường thiệt hại do
vi phạm thỏa thuận gia công với s tiền 560.745.000 đồng (2.199 thùng x
8,5kg/thùng x 30.000 đồng/kg) + bồi thường tiền thuê xe container từ Thanh
Hóa vào Quảng Ngãi là 20.000.000 đồng + chi phí đi lại của ông 30.000.000
đồng; tổng cộng 610.745.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, ông xác định hiện số
mực 18.691,5kg không còn nên ông yêu cầu Công ty C1 phải trả cho ông số tiền
383.300.000 đồng, tương đương số lượng mực ông đã mua của bà Phạm
Thị Thanh M; ông rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu bồi thường
thiệt hại với số tiền 610.745.000 đồng.
* Theo các tài liệu tại hồ vụ án, bđơn Công ty TNHH C1 do
Nguyễn Thị Thu D là người đại diện theo pháp luật trình bày:
ông Dương Minh C quen biết thông qua Ngô Thị Bích T1
giới thiệu. T1 ông Yin Minh T2 không phải nhân viên của Công ty C1
mà là người môi giới mua hàng gia công thủy sản. Ông T2, bà T1 ăn tại
Công ty C1 khoảng 03 tháng, từ tháng 6 đến tháng 9/2018, sau đó đi đâu không
rõ. Thông qua T1, tháng 9/2018 ông C đặt mua 970 thùng mực size 10 x
15. Ông C chuyển khoản cho bà số tiền 200.000.000 đồng. Sau đó, Công ty
đã giao hàng xong 970 thùng mực cho ông C. Về số hàng 2.199 thùng mực (mỗi
thùng 8,5kg) của ông Yin Minh T2, Ngô Thị Bích T1 gửi tại Công ty
2
C1 để cấp đông theo phiếu nhập kho ngày 18/9/2018 đứng tên ông T2.
ông C không việc thỏa thuận nhận gia công mực như ông C trình bày. Số
hàng này ông T2, T1 mang đến nhờ anh Trần Văn T3, quản đốc của Công ty
C1 gia công, cấp đông. Khi ông C đến yêu cầu xuất hàng đi, bà không đồng ý
chứng từ giấy tnhập kho đứng tên ông T2; cũng không cho ông T2, T1
nhận hàng tại thời điểm này ông T2, T1 còn nợ Công ty C1 số tiền hàng
960.497.000 đồng do mua hàng cho T5 Quảng Ninh chưa trả cho bà. Hiện
nay, bà chưa có ý định khởi kiện ông T2, bà T1.
Công ty C1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông C vì 2.199 thùng
mực không phải của ông C.
* Theo các tài liệu tại hồ vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là ông Yin Minh T2, bà Ngô Thị Bích T1 cùng trình bày:
Khoảng tháng 6/2018, qua giới thiệu ông, làm môi giới, giới thiệu
khách hàng cho Công ty C1 đến khoảng tháng 9,10/2018 ông, bà không làm môi
giới cho Công ty C1 nữa Công ty C1 làm ăn không uy tín. Ông, dẫn mối
khách đến giao hàng thì hàng đạt chất lượng, nhưng trong thời gian lưu kho thì
Công ty C1 trộn lẫn hàng kém chất lượng vào; sau đó, khi xuất hàng đi thì hàng
không đảm bảo chất lượng như khi nhập vào. Ông Dương Minh C là một trong
những chủ hàng là khách do ông, bà môi giới cho Công ty C1.
Ngày 17/9/2018, ông T và ông Q (nhân viên của ông Dương Minh C) đến
Công ty C1 gặp ông, bà thuê ông, làm nhiệm vụ giám sát hàng (mực
xà) về chất lượng, số lượng, khối lượng của ông C gửi vào Công ty C1. Số
lượng hàng ông C gửi vào kho của Công ty C1 nhờ gia công 2.199 thùng
mực xà với khối lượng 18.691,5 kg.
Số lượng mực này của ông Dương Minh C chkhông phải của ông, bà.
Việc D nói ông, nợ Công ty C1 số tiền 960.497.000 đồng là không đúng.
Ông, bà hoàn toàn không quan hệ mua bán, chỉ người môi giới dẫn khách
hàng gửi hàng Công ty C1 để nhận tiền hoa hồng nên không thể nợ tiền Công
ty C1. do ông T2 vào phiếu nhập kho 18/9/2018 lúc đó, ông Trần
Văn T3 yêu cầu ông T vào phiếu nhập kho để Công ty C1 tính tiền công gia
công. Do ông T có việc ở quê, không vào được nên ông T có nhờ ông vào phòng
lấy sổ của ông T ra đối chiếu sổ sách của ông T3. Sau khi đối chiếu xong, khớp
với số lượng hàng hóa nhập kho hai bên theo dõi thì ông T3 bảo ông vào
phiếu nhập kho nên ông ký. Bà D cho rằng phiếu nhập kho do ông ký nên không
cho ông C nhận hàng, nhưng thực tế đây là hàng của ông C.
Về số tiền bà D cho rằng ông, bà nợ Công ty C1 là hàng của bà T5 H do
ông, bà dắt mối cho Công ty C1; người vào giấy nhận hàng cho T5
để Công ty C1 giao hàng cho T5; sau đó, T5 đã chuyển khoản trả hết số
tiền nêu trên cho Công ty C1.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn T3 trình bày:
Ông không biết ông Dương Minh C ai; ông hoàn toàn chưa bao giờ liên
hệ hay gặp mặt ông C; ông biết ông Nguyễn Văn T trước đó vài năm khi ông
T làm Công ty khác và đến ng ty C1 cân hàng. Tháng 9/2018, ông T
vào Công ty C1 làm hàng (kiểm đếm, kiểm soát chất lượng hàng), ông thấy ông
T m việc dưới schỉ đạo của ông Yin Minh T2, Ngô Thị Bích T1. Ông
biết ông T2, bà T1 thông qua việc vào khoảng đầu năm 2018 dương lịch, ông T2
và bà T1 có mua hàng cá, mực của Công ty C1; ông T2, bà T1 chưa bao giờ mua
hàng đem đến Công ty C1 gia công; Công ty C1 nhận gia công hàng hiện
đang tranh chấp là lô hàng đầu tiên.
Khoảng ngày 16/9/2018, T1 nói với ông em ời mấy tấn hàng,
nhờ anh cấp đông cho em; ông có thấy ông Nguyễn Văn T ở đó làm lô hàng này,
ông không ông T làm cho ai nhưng thấy ông T2, bà T1 chỉ đạo ông T. Số
hàng 2.199 thùng với khối lượng 18.691,5 kg mực đúng như số lượng ông C
khởi kiện. Sau khi nhập hàng cấp đông, đến ngày 18/9/2018 ông viết phiếu
nhập kho cho ông T2, bà T1; ông T2, bà T1 ký phiếu nhập kho. Toàn bộ số hàng
này khi nhập kho bảo quản đều ghi ký hiệu thùng của ông T2, bà T1. Do đó, việc
ông C khởi kiện là không có cơ sở.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T ông
Trần Văn Q: Thống nhất như nội dung nguyên đơn trình bày.
* Bản án số 13/2024/DS-ST ngày 15/3/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Q đã xử:
1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Dương Minh C về việc yêu cầu bị đơn Công ty TNHH C1 phải bồi thường
thiệt hại tổng số tiền 610.745.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Minh C. Buộc Công ty
TNHH C1 phải trả cho ông Dương Minh C số tiền 383.300.000 đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí ttụng khác
quyền kháng cáo của đương sự.
* Ngày 04/4/2024, Công ty TNHH C1 đơn kháng cáo đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm: Hủy bản án thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 15/3/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Q để xét xử lại theo quy định của pháp luật. Tại phiên
tòa, người đại diện theo ủy quyền của Công ty C1 đề nghị sửa bản án thẩm,
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Dương Minh C.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng kể
từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử nghị án đều chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, riêng bà Phạm Thị Thanh M đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng đều
vắng mặt không do không chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015; Nguyễn Thị Thu D người đại diện theo pháp luật
của Công ty TNHH C1 vi phạm nội quy phiên tòa theo quy định tại Điều 234 Bộ
2
luật tố tụng dân sự năm 2015, đã được Hội đồng xét xử lập biên bản vi phạm nội
quy phiên tòa lưu hồ sơ vụ án là phù hợp.
Đơn kháng cáo của Công ty TNHH C1 đảm bảo về thời hạn, chủ thể
nội dung kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,
đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH C1,
giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 15/3/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Quảng Ngãi. Công ty TNHH C1 phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Ngày 15/3/2024, Tòa án nhân dân thành phố Q xét xử vụ án nêu trên.
Tại phiên tòa, đại diện Công ty TNHH C1 (viết tắt Công ty C1) vắng mặt.
Ngày 22/3/2024, Công ty C1 nhận được bản án. Ngày 04/4/2024, Công ty C1
đơn kháng cáo là còn trong thời hạn theo quy định tại Điều 272, 273 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015, nên được chấp nhận xem xét.
[1.2] Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngô Thị Bích
T1, ông Yin Minh T2 đơn xin vắng mặt; bà Phạm Thị Thanh M đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan nêu trên.
[2] Về nội dung:
[2.1] Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm và tại phiên tòa
phúc thẩm, Công ty C1 (do Nguyễn Thị Thu D người đại diện theo pháp
luật) thừa nhận vào ngày 18/9/2018, Công ty C1 nhận gia công, cấp đông số
lượng mực 2.199 thùng x 8,5kg tương đương 18.691,5 kg nhưng D cho
rằng số hàng này là của ông Yin Minh T2, bà Ngô Thị Bích T1 đem đến Công ty
C1 nhờ ông Trần Văn T3 Quản đốc Công ty C1 gia công, cấp đông theo
Phiếu nhập kho ngày 18/9/2018 lưu tại Công ty C1 thể hiện ông Yin Minh T2,
Ngô Thị Bích T1 là người ký nhập hàng, chứ không phải ông Dương Minh C.
[2.2] Ông Dương Minh C cho rằng giữa ông với Công ty C1 có thỏa thuận
bằng lời nói thông qua hình thức điện thoại trực tiếp với Nguyễn Thị Thu D
về việc ông muốn mua 01 container mực với khối lượng 30 tấn thành phẩm
từ 10up (tức chiều dài của mực thành phẩm từ 10cm trở lên) với giá 24.500
đồng/kg, được bà D đồng ý. Thực hiện thỏa thuận trên, bà D yêu cầu ông đặt cọc
để Công ty C1 làm hàng nên ông có chuyển khoản cho bà D số tiền 200.000.000
đồng vào ngày 15/9/2018 và thỏa thuận khi nào D làm xong 30 tấn mực t
hai bên giao nhận hàng, thanh toán hết số tiền còn lại. Ngày hôm sau, ông cho
hai nhân viên ông Nguyễn Văn T ông Trần Văn Q vào Công ty C1 để theo
dõi, kiểm tra tiến độ công việc nhưng Công ty C1 làm chậm tiến độ, ảnh
hưởng đến thời gian giao hàng nên ông điện thoại thỏa thuận với D về việc
ông sẽ mua hàng (mực) để Công ty C1 gia công, cấp đông thành phẩm cho kịp
tiến độ với giá gia công 3.000 đồng/kg, được bà D đồng ý nên ông mua mực của
Phạm Thị Thanh M Quảng Bình với số lượng mực sau khi kiểm đếm
18.691,5kg, thành tiền 383.300.000 đồng; M đã giao hàng tại Công ty C1.
Đến ngày nhận hàng, ông thuê xe từ Thanh Hóa vào thì bà D không đồng ý giao
hàng cho ông vì cho rằng không có giao dịch gia công mực xà với ông.
[2.3] Xét lời trình bày của nguyên đơn bđơn, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
[2.3.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Thu D cho rằng bà không
biết ông Dương Minh C ai; từ trước đến nay không giao dịch, mua bán
thủy hải sản với ông Dương Minh C. Tuy nhiên, theo Biên bản ghi lời khai ngày
25/10/2018 tại Đội Cảnh sát kinh tế Công an thành phố Q (bút lục 113, 114), bà
D trình bày:… bà ông Dương Minh C (SN 1964; HKTT: N - T - Thanh Hóa)
không mối quan hệ thân thích gì; chỉ biết ông Dương Minh C qua Ngô
Thị Bích T1 (SN:1981; HKTT: M - Tiền Giang) giới thiệu…
[2.3.2] Tại Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 15/01/2019 (bút lục 89,
90), bà D trình bày: Tháng 9/2018, Công ty C1 nhận gia công, cấp đông số
lượng mực 2.199 thùng x 8,5kg tương đương 18.691,5kg, cụ thể: Mực size
10-15 1.476 thùng x 8,5kg; mực size 15-20 461 thùng x 8,5kg; mực đỏ
143 thùng x 8,5kg; mực size 6-8 119 thùng x 8,5kg; phí gia công 3.500
đồng/kg phù hợp với số lượng, khối lượng, quy cách loại mực ông C khởi
kiện Công ty C1. D không cho ông C nhận hàng cho rằng đây số hàng
của ông Yin Minh T2, bà Ngô Thị Bích T1 nhờ Công ty C1 gia công, nhưng do
ông T2, T1 còn nợ tiền của Công ty C1 nên bà D không cho ông T2, T1
nhận hàng. Tuy nhiên, tại Bản tự khai (bút lục 101, 102, 110, 111) Biên bản
ghi lời khai (bút lục 93, 94, 99 - 104) ông Yin Minh T2, bà Ngô Thị Bích T1 đều
khẳng định số hàng trên không phải của ông, của ông Dương Minh C;
ông, chỉ là người làm thuê, dắt mối cho thương lái để hưởng hoa hồng phù
hợp với thừa nhận của D tại Biên bản ghi lời khai ngày 25/10/2018 (bút lục
113, 114) trước đây gia đình cưu mang T1 tại Công ty từ tháng
6/2018 đến tháng 9/2018; T1 chuyên đi thu mua thủy, hải sản, dắt mối
cho thương lái. Do đó, việc bà D cho rằng do ông T2, bà T1 còn nợ Công ty C1
số tiền 960.497.000 đồng của 02 phiếu xuất kho ngày 14 ngày 18/8/2018 là
không phù hợp, mâu thuẫn với chính lời khai của D. Mặt khác, D cũng
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh như biên bản đối chiếu
công nợ hoặc xác nhận nợ của ông T2, T1 còn nợ Công ty C1 số tiền nêu
trên. Ngoài ra, D cũng xác định đến thời điểm hiện tại, Công ty C1 chưa khởi
kiện ông T2, T1 tại Tòa án thẩm quyền để yêu cầu ông T2, T1 phải trả
2
số tiền trên cho Công ty C1, nhưng vào ngày 22/8/2018, D lại chuyển khoản
cho chị Yin Thị Yến N1 (con gái của ông T2, T1) số tiền 15.000.000 đồng,
trong khi theo D thì ông T2, T1 đang nợ Công ty C1 960.497.000 đồng
số tiền lớn, hoàn toàn mâu thuẫn, không phù hợp với thực tế không
sở tin cậy.
[2.3.3] Bà D cho rằng vào ngày 15/9/2018, ông C chuyển vào tài khoản
04001290500 tại S1 của số tiền 200.000.000 đồng để mua 970 thùng mực
thành phẩm size 10 x 15; D không thừa nhận việc ông C chuyển cho bà
200.000.000 đồng để đặt cọc mua mực thành phẩm. Tuy nhiên, theo Ủy nhiệm
chi (bút lục 42) và S phụ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn (bút lục 42, 43), ông C
chuyển cho D 200.000.000 đồng nội dung Em cong dac coc lam muc.
Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Đặt cọc việc một bên (sau đây
gọi bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi bên nhận đặt cọc) một
khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật giá trị khác trong một thời hạn
để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Trường hợp hợp đồng được giao
kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để
thực hiện nghĩa vụ trả tiền…. Theo điều luật viện dẫn nêu trên được hiểu bên
đặt cọc chỉ đưa trước một khoản tiền ít hơn nghĩa vụ phải thực hiện; trường hợp
hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tiền đặt cọc sẽ được trừ khi thực hiện
nghĩa vụ trả tiền. D thừa nhận ông C chuyển khoản cho 200.000.000
đồng vào ngày 15/9/2018, nhưng cho rằng ông C chuyển tiền để mua hàng
chứ không phải đặt cọc đã hoàn thành việc giao hàng cho ông C vào ngày
12/10/2018 đúng bằng số tiền ông C chuyển khoản, trong khi trước đó theo bà D
giữa Công ty C1 với ông C chưa quan hệ mua bán là mâu thuẫn, không phù
hợp với thực tế. Do đó, tuy nội dung Ủy nhiệm chi ghi không dấu, sai chính
tả nhưng như nhận định trên thì lời trình bày của ông C về số tiền 200.000.000
đồng ông chuyển khoản cho D để đặt cọc mua mực thành phẩm
sở đáng tin cậy hơn.
[2.3.4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà D thừa nhận mọi giao dịch của Công
ty C1 với tất cả khách hàng trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh khi đặt mua hàng
thành phẩm hay nhờ gia công, cấp đông đều bằng lời nói (trực tiếp hoặc thông
qua điện thoại) bà D cũng thừa nhận Công ty C1 nhận làm gia công, cấp
đông số lượng 2.199 thùng mực vào ngày 18/9/2018 phù hợp với số hàng
về số lượng, khối lượng, quy cách loại mực ông C đang tranh chấp. D
cho rằng ông T2, T1 người phiếu nhập kho nên số hàng trên của ông
T2, T1; do đó, không cho ông C nhận hàng trong khi D thừa nhận T1
chỉ chuyên đi cò thu mua thủy, hải sản, dắt mối cho thương lái; bà D cũng không
cung cấp được biên bản đối chiếu công nợ hoặc xác nhận ncủa ông T2, T1
còn nợ Công ty C1 số tiền được thể hiện trong các phiếu nhập kho, trong khi đó
ông T2, T1 xác định 2.199 thùng mực của ông C. Do đó, sở xác
định 2.199 thùng mực của ông C. Trường hợp, D cho rằng ông T2,
T1 nợ Công ty C1 số tiền 960.497.000 đồng thì thể khởi kiện thành vụ án
khác.
[2.3.5] Sau khi tạm ngừng phiên tòa vào ngày 20/9/2024, D cung
cấp một số phiếu nhận hàng thể hiện người nhận hàng T1. Tại Biên bản
làm việc ngày 01/11/2024, D cho rằng Phiếu xuất kho thể hiện ai người
nhận hàng thì đó người mua hàng. Tuy nhiên, theo Sổ phụ tài khoản tiền gửi
không khạn đứng tên chủ tài khoản Nguyễn Thị Thu D không thể hiện
người tên Yin Minh T2, Ngô Thị Bích T1 chuyển trả tiền mua hàng thì D
giải thích rằng do T1 mua hàng của Công ty C1 để bán lại cho người khác để
hưởng chênh lệch nên người mua hàng của T1 sẽ trực tiếp chuyển tiền cho
Công ty C1; người mua hàng của bà T1 chỉ chuyển phần tiền chênh lệch cho
T1 nhưng bà D không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình
bày của mình là căn cứ. Mặt khác, như nhận định trên thì D thừa nhận
T1 chỉ chuyên đi thu mua thủy, hải sản, dắt mối cho thương lái. Do đó, việc
D cho rằng Phiếu nhập kho thể hiện bà T1 người nhận hàng nên T1
người mua hàng là mâu thuẫn, nên không được chấp nhận.
[2.3.6] Về giá trị hàng: Ông C xác định ông mua số mực tươi của
Phạm Thị Thanh M ở Quảng Bình với giá 383.300.000 đồng được thể hiện ở Sổ
ghi chép (bút lục 17), ông đã chuyển khoản số tiền trên (bút lục 09, 11, 14) cho
ông Trần Viết T4 - chồng của M (bút lục 45), nên ông yêu cầu Công ty C1
hoàn trả số tiền trên cho ông. Ngày 16/11/2020, Tòa án cấp thẩm Thông
báo số 90/TB-TA (viết tắt là Thông báo s90), (bút lục 87) yêu cầu Công ty C1
trình bày ý kiến, trong đó có nội dung ông C cho rằng giá trị lô hàng 18.690,5kg
mực xà tương ứng số tiền 383.300.000 đồng. Theo Báo cáo trình bày đề ngày
23/11/2020, ông Trần Văn T3 xác định ông quản lý, đại diện cho Công ty C1
văn bản trình bày ý kiến. Tại phiên tòa phúc thẩm, D thừa nhận thời điểm
Tòa án cấp sơ thẩm gửi Thông báo số 90, thì bà đang điều trị bệnh tại Thành phố
Hồ Chí Minh nên giao quyền cho ông T3 xử mọi việc Công ty; ông T3
có thông báo cho bà biết nội dung Thông báo số 90; bà giao cho ông T3 đại diện
Công ty C1 trả lời cho Tòa án, nhưng ông T3 không trình bày ý kiến đối với giá
trị hàng ông C yêu cầu Công ty C1 hoàn trả 383.300.000 đồng. Tại phiên
tòa phúc thẩm, D cho rằng không biết giá mực tươi tại thời điểm ngày
18/9/2018. Tuy nhiên, D thừa nhận ngày 12/10/2018 Công ty C1 giao cho
ông C 970 thùng size 10 x 15 với giá 24.000 đồng/kg, tương ứng số tiền
200.000.000 đồng. Ông C chỉ yêu cầu Công ty C1 hoàn trả cho ông giá trị
18.690,5kg mực tươi ông mua của M để giao cho Công ty C1 gia công,
cấp đông 383.300.000 đồng, tương ứng 20.500 đồng/kg (làm tròn),
(383.300.000 đồng : 18.690,5kg), cộng với phí gia công 3.500 đồng/kg (bà D
thừa nhận tại Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 15/01/2019 - bút lục 89, 90)
hoàn toàn phù hợp. Do đó, Tòa án cấp thẩm đã chấp nhận yêu cầu của ông
C, buộc Công ty C1 phải trả cho ông C số tiền 383.300.000 đồng căn cứ,
phù hợp với nhận định trên. Công ty C1 kháng cáo nhưng không cung cấp được
tài liệu, chứng cứ chứng minh cho nội dung kháng cáo của Công ty C1
sở, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của Công ty C1.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo,
nên Công ty C1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được
2
trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng theo
Biên lai số 0002738 ngày 17/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Quảng Ngãi. Công ty C1 đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân snăm
2015; Điều 328, 385, 386, 398, 542, 544, 545 Bộ luật dân sự m 2015; Nghị
quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vQuốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử: Không chấp nhận kháng o của ng ty TNHH C1; giữ
nguyên bản án số 13/2024/DS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Q.
1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Dương Minh C về việc yêu cầu bị đơn Công ty TNHH C1 phải bồi thường
thiệt hại tổng số tiền 610.745.000 đồng (sáu trăm mười triệu, bảy trăm bốn
mươi lăm ngàn).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Dương Minh C.
Buộc Công ty TNHH C1 phải trả cho ông Dương Minh C số tiền 383.300.000
đồng (ba trăm tám mươi ba triệu, ba trăm ngàn).
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự thẩm: ng ty TNHH C1 phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm là 19.165.000 đồng (mười chín triệu, một trăm sáu mươi lăm ngàn).
3.2. Hoàn trả lại cho ông Dương Minh C số tiền 20.910.675 đồng (hai
mươi triệu, chín trăm mười ngàn, sáu trăm bảy mươi lăm đồng) tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm (do Hoàng Cảnh T6 nộp thay ông Dương Minh C) theo Biên
lai số AA/2018/0000304 ngày 02/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Quảng Ngãi.
3.3. Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty TNHH C1 phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng
án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn) theo Biên lai số
0002738 ngày 17/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q. Công ty
TNHH C1 đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
4. Về chi phí tố tụng khác: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là
2.000.000 đồng (hai triệu). Ông Dương Minh C t nguyện chịu; ông Dương
Minh C đã tạm nộp và chi phí xong.
K t ngày đơn yêu cu thi hành án ca người đưc thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phi thi hành án còn phi chu khon tin lãi ca
s tin còn phi thi hành án theo mc lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468
ca B lut dân s năm 2015.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- TAND thành phố Q;
- Chi cục THADS thành phố Q;
- Những người tham gia tổ tung;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trịnh Thị Thu Lan
Tải về
Bản án số 59/2024/DS-PT Bản án số 59/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 59/2024/DS-PT Bản án số 59/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất