Bản án số 82/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 82/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 82/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 82/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 26 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 330/2024/TLPT-DS ngày 09 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 82/2025/DS-PT
Ngày: 26/02/2025
“V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Tiến Dũng;
Ông Trần Quốc Cường;
Bà Phan Thị Vân Hương.
- Thư ký phiên tòa:Hoàng Thị Tú Oanh, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Đỗ Xuân Ân, Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 330/2024/TLPT-DS ngày 09
tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất”. Do Bản án dân sự thẩm số 67/2024/DS-ST
ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xsố 401/2025/QĐ-PT ngày 10 tháng 02
năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Hoàng Văn L, sinh năm 1967; địa chỉ: Thôn C, xã C,
huyện C, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm B, sinh năm 1954;
địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Q, sinh năm 1967; địa ch: Thôn H, C, huyện
C, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bđơn: Thị Xuân C, Luật
Công ty L1; địa chỉ: Lầu E, Tòa nhà S, số D U, phường B, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh; có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Bà Lê Thị T, sinh năm 1973; vắng mặt.
3.2. Ông Hoàng Trung Đ, sinh năm 1994; vắng mặt.
3.3. Bà Hoàng Lê Thái H, sinh năm 1999; vắng mặt.
3.4. Bà Hoàng Lê Thái T1, sinh năm 1991; vắng mặt.
Cùng có địa chỉ: Thôn C, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.
3.5. Hoàng Lê Thái D, sinh năm 1993; địa chỉ: SB đường T, phường A,
quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T, ông Đ, H, T1, bà D: Ông Phạm
B, sinh năm 1954; địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
3.6. Trần Thu T4, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn H, C, huyện C, tỉnh
Khánh Hòa; vắng mặt.
3.7. Ông Nguyễn Bá C1, sinh năm 1994; địa chỉ: thôn H, C, huyện C, tỉnh
Khánh Hòa; vắng mặt.
3.8. Nguyễn Thị Hồng H1, sinh năm 1996; địa chỉ: Ấp Đ, Đ, huyện C,
tỉnh Hậu Giang; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của T4, ông C1, H1: Ông Nguyễn Q,
sinh năm 1967; địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
3.9. Ủy ban nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hoà.
Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh
Hoà: Ông Trần Ngọc C2, chức vụ: Phó Trưởng phòng - Phòng Tài nguyên Môi
trường thành phố C; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
3.10. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Khánh Hoà.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh
Khánh Hoà: Ông Việt T2; địa chỉ: Phòng Tài nguyên Môi trường huyện C,
tỉnh Khánh Hòa; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
4. Người làm chứng, không triệu tập tham gia phiên toà:
4.1. Ông Hoàng H2, sinh 1958.
4.2. Ông Hoàng N, sinh 1963.
Cùng có địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.
4.3. Ông Nguyễn Quang T3, sinh 1955.
3
4.4. Ông Lê K, sinh 1952.
Cùng có địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.
4.5. Ông Văn Đ1, sinh 1957; địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh
Hòa.
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Hoàng Văn L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của Toà án cấp thẩm, nội dung kháng
cáo như sau:
- Nguyên đơn ông Hoàng Văn L và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông Hoàng Văn L gia đình khai phá một mảnh đất, được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số L390412, vào sổ cấp
GCN số 00384 QSDĐ/CAB-CR ngày 06/9/1997 do Ủy ban nhân dân (viết tắt
UBND) huyện C cấp cho hộ ông Hoàng Văn L, Thị T, diện tích 3.190m2,
thuộc thửa đất số 171, tờ bản đồ số 5, tại thôn H, C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa
(viết tắt là Thửa 171). Gia đình ông Hoàng Văn L đang sử dụng thì cuối năm 1998
lực lượng của UBND C tới đo đạc, cắm mốc theo Quyết định số 1192/QĐ-
UB ngày 17/12/1998 của UBND huyện C (viết tắt là Quyết định 1192) về việc
giao đất làm nhà cho hộ ông Nguyễn Q. Từ trước tới nay, ông Hoàng Văn
Lưu K1 nhận được văn bản nào về việc thu hồi, giao đất hay tách thửa từ các
quan Nnước nên không biết việc đã cấp đất cho ông Nguyễn Q; ông Hoàng
Văn L có đơn khiếu nại và được hướng dẫn gửi đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân.
vậy, ông Hoàng Văn L khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc ông
Nguyễn Q trả lại quyền sử dụng đất diện tích 200m2 thuộc một phần Thửa
171 theo GCNQSDĐ số L390412, vào sổ cấp GCN số 00384 QSDĐ/CAB-CR
ngày 06/9/1997 do UBND huyện C cấp cho hộ ông Hoàng Văn L, Thị T
ông Nguyễn Bá Q đang sử dụng theo Quyết định 1192 không đồng ý với toàn
bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Bá Q.
- Bị đơn ông Nguyễn Bá Q trình bày và có yêu cầu phản tố:
Năm 1996, gia đình ông 04 nhân khẩu gồm: Ông, vợ Trần Thị Thu
T4 các con Nguyễn C1, Nguyễn Thị Hồng H1 nên ông làm hồ gửi
chính quyền xin được cấp đất làm nhà canh tác để tách riêng ra khỏi gia
đình cha mẹ.
Ngày 17/12/1998, UBND huyện C đã giao cho hộ gia đình ông diện tích
1.300m2 thuộc Thửa 171, nay là thửa đất số 76, tờ bản đồ 21, diện tích đo đạc thực
tế 1.385,2m2 tại thôn H, C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa (viết tắt Thửa 76),
trong đó có 200m2 đất được giao làm nhà ở theo Quyết định 1192, có tứ cận: Đông
giáp thổ ông Hoàng Văn L, dài 20m; Tây giáp đất quản giao cho ông sử
4
dụng, dài 20m; Nam giáp đường đi, rộng 8m, dài 10m; Bắc giáp đất quản
giao cho ông sử dụng, dài 10m. Được thể hiện chi tiết bằng bản Trích lục Bản đồ
xác nhận của UBND xã C ngày 22/10/1998, xác nhận của Phòng Địa chính
Cam Ranh ngày 27/10/1998, xác nhận của Chủ tịch UBND huyện C ngày
11/12/1998 Bản đồ do VLAP đo đạc năm 2015. Gia đình ông đã xây nhà ở,
canh tác sử dụng ổn định liên tục từ khi được giao đất đến nay và đóng thuế đất
đầy đủ cho Nhà nước. Hộ ông Hoàng Văn L sử dụng phần đất giáp ranh, liền kề có
tường rào quanh khu đất biết hộ gia đình ông xây nkiên cố trên phần đất
được giao (cũng là phần đất hộ ông Hoàng Văn L được cấp GCNQSDĐ) nhưng hộ
ông Hoàng Văn L mặc nhiên thừa nhận, không ngăn cản, không tranh chấp với
phần diện ch 1.385,2m2 hộ gia đình ông thực tế sử dụng. Ngày 03/07/2015,
thực hiện đo đạc đất đai theo dự án VLAP, thửa đất gia đình ông sử dụng được ghi
nhận tại Biên bản xác định ranh giới thửa đất; thông tin thửa đất theo Bản đồ VN-
2000 thuộc Thửa 76, diện tích 1.385,2m2; tại mục 2. Chủ sử dụng đất liền kề xác
định ranh giới thửa đất ổn định, không tranh chấp: Hướng Đông giáp ranh ông
Hoàng Văn L; hướng Bắc giáp ranh bà Huỳnh Thị P (mẹ ruột ông L), cả ông
Hoàng Văn L và bà Huỳnh Thị P đều ký tên xác nhận.
Thửa 76 này hộ gia đình ông đã sử dụng ổn định, không ai tranh chấp suốt
24 năm qua, có sự chứng kiến của chính quyền địa phương và các nhân chứng gồm
ông K (cán bộ địa chính), ông Nguyễn Quang T3 (Chủ nhiệm Hợp tác C4),
ông Hoàng H2 (Thôn T từ năm 1987 đến 2005), ông Võ Văn Đ1 (Chủ tịch C từ
năm 1994) và ông Hoàng N (Thôn T từ năm 2006 đến nay). Hộ gia đình ông đã
khai đóng thuế đất theo quy định đối với diện tích 200m2 đất thổ và
1.090m2 đất trồng cây (theo xác nhận của Đội quản lý thuế số G1), gia đình ông đã
xây dựng nhà cấp 4 trên đất nên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hộ gia đình
ông đất được quan Nhà nước thẩm quyền giao, cấp đất phù hợp với quy
định của pháp luật nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn L
và có yêu cầu phản tố như sau:
+ Hủy GCNQSDĐ số L390412, vào sổ cấp GCN số 00384 QSDĐ/CAB-CR
ngày 06/9/1997 do UBND huyện C cấp cho hộ ông Hoàng Văn L, Thị T đối
với Thửa 171, diện tích 3.190m2.
+ Công nhận quyền sử dụng đối với diện tích 1.385,2m2 đất, trong đó
200m2 đất thổ công trình xây dựng nhà cấp 4 1.185,2m2 đất trồng cây
hàng năm tại Thửa 171 (nay là Thửa 76) cho hộ gia đình ông Nguyễn Bá Q.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông bà: Thị T, Hoàng
Trung Đ, Hoàng Thái H, Hoàng Lê Thái T1, Hoàng Thái D do người đại
diện theo ủy quyền là ông Phạm B trình bày:
Thống nhất với trình bày và ý kiến của nguyên đơn ông Hoàng Văn L.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông bà: Trần Thu T4,
Nguyễn C1, Nguyễn Thị Hồng H1 do người đại diện theo ủy quyền là ông
5
Nguyễn Bá Q trình bày:
Thống nhất với trình bày và ý kiến của bị đơn ông Nguyễn Bá Q.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thành phố C trình bày:
UBND thành phố C không hồ lưu trữ hồ cấp GCNQSDĐ của Thửa
171 (nay là Thửa 76). Do thửa đất hiện đang tranh chấp đã được cấp GCNQSDĐ,
vậy căn cứ quy định tại Điều 236 Luật Đất đai năm 2024 đề nghị Tòa án xem
xét, giải quyết yêu cầu của người khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện C trình bày:
Ngày 18/7/1997, ông Hoàng Văn L Thị T có đơn xin đăng ký quyền
sử dụng đất đối với Thửa 171, diện tích 3.190m2, loại đất thổ 200m2 đất Q
2.990m2 tại C, nguồn gốc: Đất được UBND cấp năm 1993, không có giấy tờ và
được UBND huyện C cấp GCNQSDĐ số L390412, vào sổ cấp GCN số 00384
QSDĐ/CAB-CR ngày 06/9/1997. Việc cấp GCNQSDĐ cho ông Hoàng Văn L
Thị T theo quy định. vậy, đề nghị Tòa án căn cứ các tài liệu, hồ thu
thập để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
- Người làm chứng ông Hoàng H2, ông Hoàng N, ông Nguyễn Quang T3
trình bày:
Năm 1998, UBND cấp cho hộ ông Nguyễn Q diện tích đất 200m2 thổ
cư, khi giao đất thì ông Hoàng Văn Lưu K1 có ý kiến gì và giữa hai bên không xảy
ra mâu thuẫn.
- Người làm chứng ông Lê K trình bày:
Ông hàng xóm của ông Hoàng Văn L ông Nguyễn Q, thời điểm cấp
đất cho ông Nguyễn Q t ông cán bộ địa xã. Diện tích đất cấp cho ông
Nguyễn Q sử dụng do quản lý. Khi Hợp tác cấp đất cho ông Hoàng
Văn L 1,5 sào (1.500m2) không giấy tờ, không đo đạc diện tích. Khi ông
Hoàng Văn L khai diện tích đất để làm GCNQSDĐ thì khai luôn phần diện
tích đất do đang quản (phần đất cho ông C3 thuê để trồng cây lâu năm),
khi đo đạc không cắt phần đất của nên GCNQSDĐ của ông Hoàng Văn L
diện tích 3.190m2. Việc cấp đất cho ông Hoàng Văn L hoàn toàn sai. Diện
tích đất ông Nguyễn Q được giao cho 1.300m2 (trong đó 200m2 đất
thổ cư).
- Người làm chứng ông Võ Văn Đ1 trình bày:
Năm 1998, UBND cấp cho hộ ông Nguyễn Q 1.500m2 nhưng khi đo
thực tế 1.300m2, khi giao đất ông Hoàng Văn Lưu K1 ý kiến việc cấp
đất cho ông Nguyễn Bá Q là đúng quy trình.
- Tại Bản án dân sự thẩm số 67/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
6
của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
Căn cứ các Điều 26, 34, 37, 41, 147, 157, 165, 227, 228, 229 Bộ luật Tố tụng
dân sự; các Điều 166, 221 Bộ luật Dân sự; các Điều 20, 52 Luật Đất đai năm 1993;
các Điều 137, 140, 141 Luật Đất đai năm 2024; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn L về
việc buộc hộ ông Nguyễn Q Trần Thị Thu T4 phải trả lại quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất 200m2 đất thổ thuộc một phần thửa 171 tờ bản đồ số
05, tọa lạc tại thôn H, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số L390412, vào sổ cấp GCN số 00384 QSDĐ/CABCR, ngày
06/9/1997 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ ông Hoàng Văn L, Thị
T.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Bá Q:
2.1. Hộ ông Nguyễn Q, Trần Thị Thu T4 được quyền sử dụng đối với
diện tích đất 1.385,2m2, trong đó 200m2 đất thổ thuộc thửa đất số 171, tờ
bản đsố 05 (nay thửa số 76, tờ bản đồ số 21) tại thôn H, C, huyện C, tỉnh
Khánh Hòa (có bản vẽ kèm theo).
2.2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L390412, vào sổ cấp GCN
số 00384 QSDĐ/CABCR ngày 06/9/1997 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ
ông Hoàng Văn L, Thị T đối với thửa đất số 171, tờ bản đồ số 5, diện tích
3.190m2 tại xã C, huyện C (nay là huyện C), tỉnh Khánh Hòa.
2.3. Hộ ông Hoàng Văn L, Thị T và hộ ông Nguyễn Bá Q, Trần Thị
Thu T4 có quyền liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký, kê khai
và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng quyền kháng
cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/11/2024, nguyên đơn ông Hoàng Văn L đơn kháng cáo với nội
dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Nguyên đơn ông Hoàng Văn Lưu G nguyên đơn kháng cáo.
- Ông Phạm B, đại diện theo uỷ quyền của ông Hoàng Văn L và một số người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Toà án cấp thẩm xét xử bác yêu cầu
khởi kiện của ông Hoàng Văn L, chấp nhận các yêu cầu phản tố của ông Nguyễn
Bá Q là không đúng, vì: Việc UBND xã C xác nhận phần đất giao cho ông Nguyễn
Q là đất hoang do quản không đúng đây là đất của gia đình ông
Hoàng Văn L khai hoang từ năm 1975, đã được Nhà nước công nhận cấp
7
GCNQSDĐ với diện ch 3.190m2 tại Thửa 171 theo đúng pháp luật. Hiện nay
đất của ông Hoàng Văn L chỉ còn 1.300m2 và trong đó không có 200m2 đất thổ
cư; gia đình ông Hoàng Văn L cũng không được Nhà nước cấp đất gia suất
đất đầy đủ như trình bày của UBND xã C. Không có việc gia đình ông Hoàng Văn
L chứng kiến việc giao đất, chỉ ranh giới đất cho gia đình ông Nguyễn Q làm
hàng rào bằng bê tông dây kẽm gai và không có việc gia đình ông Hoàng Văn L
vào các giấy tờ, thủ tục để gia đình ông Nguyễn Q được cấp GCNQSDĐ. Các
yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Q đưa ra là đã hết thời hạn nên Toà án cấp
thẩm thụ lý, giải quyết để chấp nhận toàn bộ các nội dung phản tố việc bản án
thẩm áp dụng Luật Đất đai năm 1993 để giải quyết vụ án không đúng pháp
luật. Các vấn đề trên đã được nguyên đơn phản đối trong quá trình giải quyết vụ án
tại cấp sơ thẩm nhưng không được chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử
phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Hoàng Văn L, huỷ bản án
thẩm để xét xử lại theo đúng pháp luật.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, Luật sư Võ Thị Xuân C
trình bày:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ đủ sở khẳng định ông
Nguyễn Q được UBND huyện C giao 1.385,2m2 đất (thực tế 1.384,9m2) sử
dụng hợp pháp, theo Quyết định 1192 thì trong số diện tích đất này thì gia đình
ông Nguyễn Q 200m2 đất thổ cư; khi gia đình ông Nguyễn Q nhận đất
thì gia đình ông Hoàng Văn L biết chỉ ranh giới đlàm hàng rào bằng tông,
dây kẽm thép gai; diện tích đất được cấp trong GCNQSDĐ của gia đình ông
Hoàng Văn L có cả số diện tích đất giao cho gia đình ông Nguyễn Q sdụng
nên bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn L và chấp nhận toàn
bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Bá Q là đúng pháp luật. Cụ thể chi tiết các căn
cứ pháp bảo vệ quyền lợi cho ông Nguyễn Q đã Bản luận cứ gửi cho Hội
đồng xét xử. vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác toàn bộ kháng cáo
của nguyên đơn ông Hoàng Văn L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bị đơn ông Nguyễn Bá Q thống nhất với trình bày của Luật sư bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, không có ý kiến trình bày bổ sung.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng sau khi phân tích nội
dung và các tình tiết của vụ án, có quan điểm:
+ Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực
hiện đầy đủ, đúng quy định pháp luật. Kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Văn
L là trong thời hạn đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên là hợp lệ, đủ
điều kiện để xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự; bác kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Văn L; giữ nguyên bản án
dân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
8
Trên sở nội dung vụ án; căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ đã
được thẩm tra công khai kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Văn L trong thời hạn quy
định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc
thẩm nên kháng cáo hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét, giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm vắng mặt những người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan nhưng trong đó người đã có đơn xin xét xử vắng mặt, người đã uỷ
quyền cho người khác tham gia phiên toà. Căn cứ ý kiến của các đương sự mặt
tại phiên toà, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,
Hội đồng xét xử xét quyết định tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 296
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.3] Ngày 25/4/2022 nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại quyền sử
dụng đất; ngày 06/7/2023 ngày 25/7/2023 bị đơn đơn phản tố yêu cầu công
nhận quyền sử dụng đất huỷ GCNQSDĐ do UBND huyện C, tỉnh Khánh Hoà
cấp cho nguyên đơn đối với diện tích đất nguyên đơn khởi kiện. Do đó, bản án
thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
yêu cầu phản tố của bị đơn, xác định thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Toà án
nhân dân tỉnh Khánh Hđúng theo quy định tại khoản 9 Điều 26, Điều 34,
Điều 37, Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.
[1.4] Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp giữa gia đình ông Hoàng Văn L
gia đình ông Nguyễn Q được UBND C UBND huyện C giao sử dụng
tại thời điểm Luật Đất đai năm 1993 đang hiệu lực thi hành nên bản án thẩm
áp dụng các quy định của Luật Đất đai năm 1993 để xem xét, giải quyết vụ án
đúng pháp luật.
[2] Vnội dung, xét kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Văn L; Hội đồng
xét xử nhận thấy:
[2.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn L về việc buộc ông
Nguyễn Q trả lại quyền sử dụng diện tích 200m² đất thổ thuộc một phần
Thửa 171:
Theo Giấy giao nhận diện tích đo đạc số 76 ngày 21/11/1995 và Đơn xin đăng
quyền sử dụng đất ngày 19/01/1997 do bà Thị T (vợ ông L) ký khai (BL
08 - 10) thì hộ gia đình ông Hoàng Văn L, Thị T được Nhà nước giao sử
dụng 02 thửa đất, gồm: Thửa 171 và Thửa 77 từ năm 1995. Thửa 171 được UBND
huyện C cấp GCNQSDĐ số 1390412, vào sổ cấp GCN số 00384 QSDĐ/CAB-CR
ngày 06/9/1997, diện ch 3.190m2 (trong đó 200m2 đất thổ, 2.990m2 đất
quả), thời hạn sử dụng đến tháng 9/2047. Thửa 77 được cấp GCNQSDĐ, vào sổ
9
cấp GCN số 01213/QSDĐ/CAB-CR ngày 01/4/2002, diện tích là 3.745m2.
Theo Biên bản giải quyết đơn khiếu nại đất đai ngày 22/6/1998 tại UBND
C (BL 152) và Báo cáo số 77 ngày 10/10/1998 của UBND xã C giải quyết đơn t
khiếu nại của ông Hoàng Văn L về việc thu hồi đất, thể hiện: Gia đình ông Hoàng
Văn L đã được Nhà nước cấp đất gia và suất đất bình quân đầy đủ 3.745m2
tại Thửa 77. Phần diện tích đất 3.190m2 tại Thửa 171 tranh chấp được hình
thành từ năm 1973 trong quy hoạch khu dân do chế độ thực hiện, năm 1985
đất do Hợp tác quản nhưng do đất thấp trũng khó sản xuất chế quản
bất hợp nên đất bị bỏ hoang, năm 1991 Hợp tác giải thể nên phần diện tích
đất thấp trũng này được UBND thôn H3 cho ông Hoàng Văn C3 (cha ông L) cày
phá giao khoán phần diện tích đất trên cao với điều kiện không thuộc loại đất
cấp, khi nào UBND xã có nhu cầu thì sẽ thu hồi (phần diện tích đất này sau đó ông
C3 cho ông L sử dụng). Sau đó, Nhà nước điều chỉnh đất để giao khoán cho các hộ
dân sử dụng đất ổn định, lâu dài; hộ ông Hoàng Văn L được giao nhận 03 suất,
định mức giao đất cao nhất 1.500m2/suất nên diện tích đất gia đình ông Hoàng
Văn L được giao sdụng cao nhất 3.600m2, nhưng thực tế gia đình ông Hoàng
Văn L đang sử dụng 6.935m2, thừa 2.435m2. UBND C đã thu hồi 1.300m2
đất tại Thửa 171 để giao đất làm nhà cho hộ dân nhu cầu, số đất còn lại
5.635m2 giao cho gia đình ông Hoàng Văn L sử dụng ổn định, lâu dài. Tại buổi
làm việc giải quyết đơn khiếu nại đất đai ngày 22/6/1998 ông Hoàng Văn Lưu K1
mặt nhưng ông Hoàng Văn C3 (cha ông L) Thị T (vợ ông L) mặt,
đồng ý với việc thu hồi đất và ký vào biên bản.
Ngày 17/12/1998, UBND huyện C ban hành Quyết định 1192 thu hồi 200m²
đất tại Thửa 171 giao cho ông Nguyễn Q sử dụng làm nhà ở. Theo Trích lục
bản đồ do UBND xã C xác nhận ngày 22/10/1998, Phòng Địa chính Cam Ranh xác
nhận ngày 27/10/1998, UBND huyện C xác nhận ngày 17/12/1998, thể hiện: Thửa
171 được chia thành 02 phần; phần phía Đông ghi chữ Hoàng Văn L; phần phía
Tây có xác định vị tđất thổ giáp sát phần đất ghi chữ Hoàng Văn L. Như vậy,
Quyết định 1192 đã công nhận cho gia đình ông Nguyễn Bá Q có 200m² đất thổ cư
trong 1.300m² đất đã được ghi nhận tại Biên bản giải quyết đơn khiếu nại đất đai
lập ngày 22/6/1998.
Thực hiện Quyết định 1192, cuối năm 1998 UBND C tiến hành giao đất
cho hộ gia đình ông Nguyễn Q sử dụng, sự chứng kiến của ông Hoàng Văn
C3, ông Hoàng Văn L Thị T nhưng không ai ý kiến; c bên đã c
định ranh giới đất, tiến hành cắm trtông, làm hàng rào dây kẽm gai. Hộ ông
Nguyễn Bá Q đã nhận sử dụng đất ổn định, xây dựng nhà cấp 4 trên đất từ năm
1998 cho đến nay đã đóng thuế đất cho Nhà nước theo Biên lai thu tiền số
02318 ngày 27/12/1997 là 666.000 đồng.
Khi thực hiện đo đạc đất đai theo dự án VLAP đối với thửa đất hộ ông
Nguyễn Bá Q đang sử dụng, tại Biên bản xác định ranh giới thửa đất ngày
03/07/2015 thể hiện: Chủ sử dụng đất liền kề xác định ranh giới thửa đất ở ổn định,
không tranh chấp: Hướng Đông giáp ranh ông Hoàng Văn L; hướng Bắc giáp ranh
10
Huỳnh Thị P (mẹ ruột ông L); ông Hoàng Văn L Huỳnh Thị P đều ký tên
xác nhận trong biên bản xác định ranh giới thửa đất. Trong sổ mục quản đất
tại UBND xã C thể hiện: Ông Hoàng Văn L đang quản lý, sử dụng Thửa 171, diện
tích 3.190m² (1.890m²) và Thửa 77, diện tích 3.745m². Hông Nguyễn Bá Q quản
lý, sử dụng Thửa 171, diện tích 1.300m². Tại Văn bản số 3820/CCTKV-KTNDP
ngày 29/11/2023 của Chi cục thuế khu vực N1 thể hiện: Từ năm 1999 đến ngày
28/11/2023, hộ ông Hoàng Văn L hộ ông Nguyễn Q đều đã khai lập bộ
thuế nhà đất đều phần diện tích 200m² đất thổ tại thửa đất số 171, tờ bản
đồ số 5 thôn H, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.
Như vậy, từ cuối năm 1998 khi UBND C tiến hành giao đất cho hộ ông
Nguyễn Q theo Quyết định 1192 thì thực tế Thửa 171, diện tích 3.190m² được
sử dụng bởi 02 hộ gồm: Hộ gia đình ông Hoàng Văn L sử dụng phần đất phía
Đông, diện tích 1.890m² hộ gia đình ông Nguyễn Q sử dụng phần đất
phía Tây, diện tích 1.300m². Ranh giới sử dụng đất giữa 02 hộ được phân định
bằng trụ bê tông, hàng rào kẽm gai ổn định từ khi gia đình ông Nguyễn Bá Q nhận
đất đến nay. Việc UBND huyện C ban hành Quyết định 1192 giao đất cho hộ gia
đình ông Nguyễn Q sử dụng đúng pháp luật, không làm ảnh hưởng đến
quyền lợi ích hợp pháp của hộ gia đình ông Hoàng Văn L. Do đó, bản án
thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn L vviệc buộc ông Nguyễn Bá Q
trả lại quyền sử dụng 200m² đất thổ thuộc một phần Thửa 171 theo GCNQSDĐ
số 1390412, vào sổ cấp GCN số 00384 QSDĐ/CABCR, ngày 06/9/1997 của
UBND huyện C cấp cho hộ ông Hoàng Văn L, bà Lê Thị T là có căn cứ pháp luật.
[2.2] Đối với các yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Bá Q:
Ngày 06/7/2023 ngày 25/7/2023 bị đơn ông Nguyễn Q đơn phản tố
yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất và huỷ GCNQSDĐ do UBND huyện C, tỉnh
Khánh Hoà ban hành cấp cho nguyên đơn ông Hoàng Văn L Thị T
trước ngày Toà án cấp sơ thẩm mở Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công
khai chứng cứ (ngày 30/11/2023) nên Toà án cấp thẩm thụ lý, giải quyết yêu
cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Q đúng theo quy định tại Điều 200 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Như đã phân tích tại mục [2.1], hộ gia đình ông Nguyễn Bá Q được UBND xã
C UBND huyện C giao sử dụng 1.300m² đất, thuộc một phần diện tích Thửa
171, trong đó 200m2 đất thổ theo Quyết định 1192 đúng pháp luật nên
GCNQSDĐ số L390412, vào sổ cấp GCN số 00384 QSDĐ/CABCR ngày
06/9/1997 của UBND huyện C công nhận diện tích đất cấp cho hộ ông Hoàng Văn
L, Lê Thị T sử dụng trong đó bao gồm cả phần diện tích đất đã thu hồi giao
cho hộ gia đình ông Nguyễn Q sử dụng không đúng. UBND C đã phát
hiện sai sót trong việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Hoàng Văn L đã
Tờ trình số 47/TT-UBND ngày 22/6/2007 đề nghị UBND huyện C xem xét,
chỉnh lý nhưng chưa được thực hiện. Do đó, bản án sơ thẩm chấp nhận các yêu cầu
phản tố của bị đơn ông Nguyễn Q về việc: Hủy GCNQSDĐ số L390412, vào
sổ cấp GCN số 00384 QSDĐ/CAB-CR ngày 06/9/1997 của UBND huyện C cấp
11
cho hộ ông Hoàng Văn L, Thị T đối với Thửa 171, diện tích 3.190m2 và
công nhận quyền sử dụng đối với diện tích 1.385,2m2 đất (trong đó 200m2 đất
thổ cư công trình xây dựng nhà cấp 41.185,2m2 đất trồng cây hàng năm) tại
Thửa 171 (nay Thửa 76) cho hộ gia đình ông Nguyễn Q căn cứ pháp
luật.
[2.4] Về trách nhiệm thanh toán chi phí tố tụng:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn Lưu K1 được chấp
nhận nên bản án thẩm buộc ông Hoàng Văn L phải chịu trách nhiệm thanh toán
chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tổng cộng 12.000.000 đồng
đúng theo quy định tại Điều 157, Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của nguyên đơn ông Hoàng Văn L; giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
[4] Về án phí: Ông Hoàng Văn L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án; xử:
1. Bác toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Văn L. Giữ nguyên Bản
án dân sự thẩm số 67/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Khánh Hoà.
2. Về án phí: Ông Hoàng Văn L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc
thẩm; được trừ vào số tiền đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lphí Tòa án số
0000613 ngày 05 tháng 11 năm 2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hoà.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND tnh Khánh Hoà;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
12
- VKSND tnh Khánh Hoà;
- Cc THADS tnh Khánh Hoà;
- Các đương sự (theo địa ch);
- Lưu HSVA, VPTA.
Nguyễn Tiến Dũng
Tải về
Bản án số 82/2025/DS-PT Bản án số 82/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 82/2025/DS-PT Bản án số 82/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất