Bản án số 43/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 43/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 43/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 43/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 43/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Gia Lai |
Số hiệu: | 43/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Võ Thị H kiện ông Nguyễn Minh V và bà Bùi Thị S về tranh chấp quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 43/2025/DS-PT
Ngày 15/5/2025
“V/v tranh chấp quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Ông Lưu Anh Tuấn.
Các Thẩm phán: 1. Ông Đặng Chí Công.
2. Bà Cao Thị Thanh Huyền
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Vân – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai: Bà Hoàng Hải Ly-
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong ngày 15/5/2025, tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm
công khai vụ án thụ lý số 118/2024/TLPT-DS ngày 30 tháng 10 năm 2024 về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án
nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2024/QĐ-PT ngày 23/12/2024, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị H; địa chỉ: Thôn A, xã X, thị xã A, tỉnh Gia Lai
(Có mặt)
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Minh V và bà Bùi Thị S; địa chỉ: Thôn A, xã X, thị
xã A, tỉnh Gia Lai (Vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Thu H1; địa chỉ: Thôn A, xã X, thị
xã A, tỉnh Gia Lai (Có mặt).
3.2. Ông Phạm Hùng L, ông Phạm Quốc C, ông Phạm Văn T1; ông Phạm
Hùng T2; bà Phạm Thị Mỹ K; bà Phạm Thị Tuyết T3; bà Phạm Thị T4; cùng địa
chỉ: Thôn A, xã X, thị xã A, tỉnh Gia Lai (Đều uỷ quyền cho ông Phạm Quốc C
tham gia tố tụng tại Giấy uỷ quyền được UBND xã X, thị xã A, chứng thực ngày
10/8/2023)(Ông C có mặt).
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Võ Thị H; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Phạm Quốc C.

2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn bà Võ Thị H trình bày:
Vào ngày 07/8/1994 tôi cùng chồng là Phạm Văn S1 có mua của ông
Trương Ngọc P bà Nguyễn Thị L1 01 căn nhà toạ lạc trên diện tích đất vườn có bề
ngang mặt đường đi 669 là 41m, chiều sâu 80m diện tích 3.280m
2
có tứ cận:
Đông giáp đường cái lớn (TL 669);
Tây giáp ruộng;
Nam giáp đất của bà Bùi Thị S;
Bắc giáp đất của ông Nguyễn Văn Trương .
Khi mua nhà đất nói trên chúng tôi có làm giấy bán đất kèm theo sơ đồ được
UBND xã T xác nhận ngày 17/7/1995 và gia đình tôi có nộp thuế 300.000đ. Thửa
đất nói trên nay là 02 thửa đất số 484 và số 485 tờ bản đồ 72. Năm 2000 lợi dụng
gia đình tôi đi chữa bệnh một thời gian dài nên ông Phạm H2 (Phạm Văn H2; em
trai ông Phạm Văn S1) đã làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên ông H2. Sau đó, gia đình tôi khiếu nại và được thu hồi, huỷ bỏ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông H2. Hiện nay, thửa đất số 484, tờ
bản đồ 72 nói trên có những người lấn chiếm với tổng diện tích 795m
2
như sau:
Ông Nguyễn Văn T cùng con là Nguyễn Minh V đã rào hàng rào bằng dây kẽm
thép gai trồng trụ bê tông để trồng cỏ, trồng chuối…lấn chiếm đất của tôi với diện
tích 549,5m
2
và Bùi Thị S đã lấn chiếm đất của tôi với diện tích 246,5m
2
. Tôi đã
yêu cầu UBND xã X, thị xã A hoà giải để các hộ lấn chiếm trả lại diện tích đất cho
tôi nhưng không thành. Tôi yêu cầu giải quyết buộc những người lấn chiếm đất
phải trả lại cho tôi. Tuy nhiên, sau khi tôi khởi kiện thì tôi và bà S đã thương
lượng, thoả thuận với nhau xong. Do vậy, tôi đã tự nguyện làm đơn rút phần yêu
cầu khởi kiện đối với bị đơn bà Bùi Thị S vào ngày 21/3/2024.
Đến nay tôi chỉ yêu cầu gia đình ông Nguyễn Minh V vợ là bà Nguyễn Thị
Thu H1 cùng cha của ông V là ông Nguyễn Văn T, phải trả cho tôi diện tích đất đã
lấn chiếm thuộc thửa đất số 484, tờ bản đồ 72 diện tích 549,5m
2
.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Quốc C, ông Phạm
Hùng T2, bà Phạm Thị T4 trình bày: đều thống nhất với ý kiến của mẹ là bà H đã
trình bày, không trình bày gì thêm.
3. Bị đơn bà Bùi Thị S trình bày:
Ngày 15/02/1995 tôi có mua căn nhà cùng thửa đất của ông Huỳnh Ngọc T5
và bà Trương Thị Lệ T6 với diện tích thửa đất và nhà là 977m
2
với chiều dài 85m
2
bề rộng là 11,5m
2
, tôi đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
Q 707811 thuộc thửa đất 491, tờ bản đồ 72 vào ngày 16/12/1999. Khi nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi thiếu so với diện tích đất tôi đã
mua nhưng thời điểm đó tôi không có thời gian nên không đi điều chỉnh được. Nay
bà H khởi kiện thì tôi đề nghị đo đạc lại diện tích đất của các bên để có hướng giải
quyết. Tuy nhiên, sau đó tôi và bà H đã thoả thuận với nhau xong và bà H đã rút
đơn khởi kiện. Tôi đề nghị Toà án giải quyết theo quy định chứ tôi không ý kiến
gì.

3
4. Bị đơn ông Nguyễn Minh V trình bày:
Trước đây, tôi đi làm xa không có thời gian nên không thể về nên vợ tôi
tham gia và trình bày lời khai trong hồ sơ. Đối với thửa đất gia đình tôi sử dụng
trồng chuối, trồng cỏ mà bà H khởi kiện yêu cầu phải trả, có nguồn gốc do cha tôi
sử dụng từ trước, sau đó không sử dụng nữa và nói tôi đến sử dụng. Thửa đất này
bỏ hoang không ai sử dụng vì rất lẫn nhiều đá, cây cối mọc um tùm nên năm 1998
vợ chồng tôi ra dọn dẹp sạch một khoảnh đất rồi rào lại trồng chuối, trồng cỏ để
chăn nuôi bò và sử dụng từ năm 1998 cho đến nay. Thửa đất này (Hiện nay thuộc
thửa số 484, tờ bản đồ 72) gia đình tôi cũng như gia đình bà Võ Thị H đều chưa
được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên tôi không đồng ý trả
diện tích đất này cho bà H. Nếu nhà nước thu hồi thửa đất nói trên thì gia đình tôi
đồng ý giao lại cho nhà nước và đề nghị hỗ trợ lại giá trị hoa màu gia đình tôi đã
trồng trên đất. Tôi giữ nguyên ý kiến không trình bày gì thêm.
5. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H1 trình bày: đồng ý, thống
nhất với ý kiến của chồng bà và không trình bày gì thêm.
6. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T trình bày:
Tôi là cha đẻ của anh Nguyễn Minh V, thửa đất (Hiện nay thuộc thửa số
484, tờ bản đồ 72) bà H khởi kiện yêu cầu gia đình tôi và con tôi trả lại có nguồn
gốc vào năm 1977 gia đình tôi vào lập nghiệp, khi đó còn đồi núi và đất bỏ hoang
nên tôi đã khai phá để tròng trọt. Khi đó thửa đất nói trên nhiều cây cối và lẫn rất
nhiều đá nên tôi đã dọn dẹp và trồng chuối. Đến khoảng năm 1998 tôi không sử
dụng nữa và có nói con trai tôi là Nguyễn Minh V đến dọn dẹp khai phá thêm để
trồng cỏ nuôi bò và con trai tôi sử dụng thửa đất đó cho đến nay chứ tôi không sử
dụng nữa. Vì vậy, việc bà H khởi kiện yêu cầu tôi trả thửa đất này thì tôi không có
liên quan gì cả nên không chấp nhận. Còn thửa đất nhà ở của gia đình tôi có giáp
ranh với đất của con trai tôi và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào
năm 1999. Tôi không lấn chiếm đất của bà Võ Thị H như đơn khởi kiện nên không
chấp nhận.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án
nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Xử:
- Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị H đối
với bị đơn ông Nguyễn Minh V, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án
ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Thu H1, về việc tranh chấp diện tích đất
549,5m
2
.
- Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị H đối
với bị đơn bà Bùi Thị S.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ
thẩm, chi phí tố tụng; thông báo quyền yêu cầu, tự nguyện hoặc bị cưỡng chế thi
hành án và thời hiệu thi hành án; tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Về kháng cáo:

4
Ngày 08/10/2024, nguyên đơn bà Võ Thị H, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan ông Phạm Quốc C kháng cáo với nội dung: Kháng cáo toàn bộ bản án
dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân dân thị xã An
Khê, tỉnh Gia Lai. Buộc gia đình ông Nguyễn Minh V và những người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Thu H1 trả lại phần
đất 549,5m
2
đã lấn chiếm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và giữ kháng cáo
- Bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ kháng cáo
- Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy
định của pháp luật. Các đương sự cũng được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ của mình.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị đơn và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các đương sự phải chịu
án phí phúc thẩm theo qui định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan trong hạn luật định và đúng trình tự thủ tục mà Bộ luật tố tụng dân sự
quy định nên Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự
phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Ngày 07/8/1994 bà H cùng chồng là Phạm Văn S1 có nhận chuyển
nhượng từ ông Trương Ngọc P và bà Nguyễn Thị L1 01 căn nhà toạ lạc trên diện
tích đất vườn có bề ngang mặt đường đi 669 là 41m, chiều sâu 80m, tổng diện tích
3.280m
2
. Theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, diện tích đất nhận chuyển
nhượng này là thửa đất số 484 và số 485 tờ bản đồ 72. Thửa đất số 485 trước đây
được Ủy ban nhân dân huyện A (nay là thị xã A), tỉnh Gia Lai cấp cho ông Phạm
H2 (Phạm Văn H2- em ruột ông Phạm Văn S1) vào ngày 16/12/1999, nhưng sau
đó đến ngày 04/7/2007 thửa đất đã bị Ủy ban nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai thu
hồi do ông Hải đăng K1 thừa. Trong vụ án, bà H không tranh chấp thửa đất số 485
mà tranh tranh chấp thửa đất 484 (giáp ranh với thửa 485). Tuy bà H cùng chồng là
Phạm Văn S1 nhận chuyển nhượng từ ông Trương Ngọc P, bà Nguyễn Thị L1 diện
tích 41m x 80m, nhưng sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình bà H không đăng
ký, kê khai với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đất đai, không sử dụng đất lên
tục, ổn định; đồng thời, trước đó ông P và bà L1 cũng không đăng ký hoặc kê khai
trong sổ mục kê, sổ địa chính tại nơi có bất động sản.
[2.2] Theo cung cấp từ UBND xã X thì thửa đất số 484 tờ bản đồ 72, từ
trước đến nay nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai, vì

5
chưa có người đăng ký để sử dụng nên trong sổ mục kê thể hiện thửa đất số 484 tờ
bản đồ 72 là đất hoang. Nội dung này cũng được Văn phòng đăng ký đất đai - Chi
nhánh thị xã A khẳng định.
[2.3] Như vậy, việc bà H yêu cầu Toà án buộc bị đơn ông Nguyễn Minh V;
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Nguyễn Thị Thu H1, ông
Nguyễn Văn T, phải trả lại diện tích đất lấn chiếm thuộc thửa đất số 484 tờ bản đồ
72 với tổng diện tích là 549,5m
2
là không có cơ sở, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị H là phù hợp, đúng pháp luật.
[2.4] Bà Võ Thị H, ông Phạm Quốc C kháng cáo nhưng không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ gì khác có thể làm thay đổi bản chất vụ việc, vì vậy, như đã
nhận định như trên cùng ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát, thấy rằng không có
căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị H, ông Phạm Quốc C nên giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo qui định của pháp luật
[5] Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148 và khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 29
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị H và người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Quốc C; Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số
42/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai.
Cụ thể:
1.1. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị H
đối với bị đơn ông Nguyễn Minh V, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ
án ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Thu H1, về việc tranh chấp diện tích đất
549,5m
2
.
1.2. Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị
H đối với bị đơn bà Bùi Thị S.
1.3. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Võ Thị H, phải chịu toàn bộ chi phí định
xem xét thẩm định và định giá tài sản giá là 4.880.000đ (Bốn triệu, tám trăm tám
mươi nghìn đồng). Bà H đã nộp đủ tiền chi phí Tố tụng.
1.4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn bà Võ Thị H phải chịu là
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền
300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số

6
0006807 ngày 09 tháng 8 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã An Khê,
tỉnh Gia Lai. Bà Võ Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn bà Võ Thị H và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan ông Phạm Quốc C phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự
phúc thẩm; được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) bà H,
ông C đã nộp theo biên lai số 0013257 ngày11/10/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
của Luật Thi hành án dân sự.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Gia Lai;
- TAND thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai;
- Chi cục THADS thị xã An Khê, tỉnh
Gia Lai;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, Tòa Dân sự, Văn
thư.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lưu Anh Tuấn

7
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 489/2025/DS-PT ngày 19/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 482/2025/DS-PT ngày 16/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 480/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 465/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm