Bản án số 76/2025/HNGĐ-ST ngày 20/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - An Giang, tỉnh An Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 76/2025/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 76/2025/HNGĐ-ST ngày 20/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - An Giang, tỉnh An Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 11 - An Giang, tỉnh An Giang
Số hiệu: 76/2025/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/09/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Trần Trọng Q do mai mối nên tiến đến hôn nhân. Đến ngày 03/9/2013, chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Trần Trọng Q đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà của cha mẹ anh Trần Trọng Q tại địa chỉ khóm T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang. Vợ chồng chung sống đến khoảng tháng 01/2014 thì phát sinh mâu thuẫn do anh Trần Trọng Q thường xuyên ăn chơi, tham gia cờ bạc, không lo làm ăn, quan tâm chăm sóc cho gia đình. Vì nghĩ đến gia đình, chị Huỳnh Thị Ngọc T đã tha thứ cho anh Q. Đến năm 2022, anh Trần Trọng Q tiếp tục ăn chơi gây ra nợ nần để chị Huỳnh Thị Ngọc T và gia đình trả nợ thay, mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng từ tháng 4/2024. Đến ngày 13/8/2024, anh Trần Trọng Q sử dụng trái phép chất ma túy nên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện số 01 - Công an tỉnh A nên vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, gia đình hai bên không có động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Trần Trọng Q; bản thân chị Huỳnh Thị Ngọc T có cho anh Trần Trọng Q cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Trần Trọng Q không thay đổi tính tình nên không hàn gắn được. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị Huỳnh Thị Ngọc T yêu cầu được ly hôn với anh Trần Trọng Q
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 11 - AN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 76/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 20 - 9 - 2025
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi
con khi ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 11 - AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Phước Sang
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trương Phước Công
2. Ông Võ Thanh Nhàn
- Thư phiên tòa: Ông Hồ Nhựt Huy - Thư Tòa án nhân dân Khu
vực 11 - An Giang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 11 - An Giang tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kiều Tiên - Kiểm sát viên
Ngày 20 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 11 - An
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 414/2025/TLST-HNGĐ ngày 06
tháng 5 năm 2025 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 7
năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số 154/2025/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng
8 năm 2025 và Thông báo thay đổi thời gian mphiên tòa số 11/2025/TB-TA
ngày 03 tháng 9 năm 2025 của Tòa án nhân dân Khu vực 11 - An Giang, giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Ngọc T, sinh ngày 30/6/1992
Đăng ký thường trú: Khóm M, xã L, tỉnh An Giang (trước đâykhóm M,
thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang); chỗ ở hiện nay: Số C, tổ A, ấp L, xã L, tỉnh
An Giang (trước đây s382, tổ A, ấp L, L, huyện C, tỉnh An Giang) (có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Trần Trọng Q, sinh năm 1993
Nơi trú: Số F, tổ A, khóm M, xã L, tỉnh An Giang (trước đây số 62,
tổ A, khóm M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang) (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn chị Huỳnh Thị Ngọc T trình bày:
2
Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần Trọng Q do
mai mối nên tiến đến hôn nhân. Đến ngày 03/9/2013, chị Huỳnh Thị Ngọc T
anh Trần Trọng Q đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh
An Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà của cha mẹ anh Trần
Trọng Q tại địa chỉ khóm T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang. Vợ chồng
chung sống đến khoảng tháng 01/2014 thì phát sinh mâu thuẫn do anh Trần
Trọng Q thường xuyên ăn chơi, tham gia cờ bạc, không lo làm ăn, quan tâm
chăm c cho gia đình. nghĩ đến gia đình, chị Huỳnh Thị Ngọc T đã tha thứ
cho anh Q. Đến năm 2022, anh Trần Trọng Q tiếp tục ăn chơi gây ra nợ nần để
chị Huỳnh Thị Ngọc T gia đình trả nợ thay, mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm
trọng từ tháng 4/2024. Đến ngày 13/8/2024, anh Trần Trọng Q sử dụng trái phép
chất ma túy nên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc tại sở cai nghiện số 01 - Công an tỉnh A nên vợ chồng sống ly thân
cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, gia đình hai bên không
động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần
Trọng Q; bản thân chị Huỳnh Thị Ngọc T cho anh Trần Trọng Q hội để
hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Trần Trọng Q không thay đổi tính tình
nên không hàn gắn được. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị Huỳnh Thị
Ngọc T yêu cầu được ly hôn với anh Trần Trọng Q.
Về con chung: Chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần Trọng Q 02 (hai)
con chung tên Trần Trọng M, sinh ngày 24/8/2014 Trần Ngọc N, sinh ngày
24/02/2020; hiện tại, hai con chung đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị Huỳnh
Thị Ngọc T yêu cầu được trực tiếp chăm c, nuôi dưỡng con chung tên Trần
Trọng M, sinh ngày 24/8/2014 Trần Ngọc N, sinh ngày 24/02/2020; không
yêu cầu anh Trần Trọng Q cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Căn cứ chứng minh cho các yêu cầu khởi kiện: Giấy chứng nhận kết hôn,
Giấy khai sinh của con chung.
Tại Biên bản ghi lời khai ngày 19/8/2025, bđơn anh Trần Trọng Q trình
bày: Về quan hệ hôn nhân, anh Trần Trọng Q đồng ý ly hôn với chị Huỳnh Thị
Ngọc T. Về con chung, anh Trần Trọng Q đồng ý để chị Huỳnh Thị Ngọc T
được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Trần Trọng M, sinh ngày
24/8/2014 và Trần Ngọc N, sinh ngày 24/02/2020; anh Trần Trọng Q không cấp
dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa,
Chị Huỳnh Thị Ngọc T đơn đề nghị xét xử vắng mặt vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Anh Trần Trọng Q đơn đề nghị xét xử vắng mặt vẫn giữ nguyên lời
trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
3
Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự giai
đoạn thẩm: Người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng đã làm đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Ngọc
T. Về quan hệ hôn nhân, chị Huỳnh Thị Ngọc T được ly hôn với anh Trần Trọng
Q. Về con chung, chị Huỳnh Thị Ngọc T được tiếp tục chăm c, nuôi dưỡng
con chung tên Trần Trọng M, sinh ngày 24/8/2014 Trần Ngọc N, sinh ngày
24/02/2020; anh Trần Trọng Q không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản
chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Chị Huỳnh Thị Ngọc T khởi kiện yêu cầu được ly hôn đối với anh
Trần Trọng Q và yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là tranh
chấp về hôn nhân gia đình. Đồng thời, anh Trần Trọng Q (bị đơn) nơi
trú tại số F, tổ A, ấp M, L, tỉnh An Giang (trước đây số 62, tổ A, khóm M,
thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang) nên Tòa án nhân dân Khu vực 11 - An
Giang (trước đây là Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) thụ lý giải
quyết đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Tại phiên tòa, chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần Trọng Q đề nghị
xét xử vắng mặt. n cứ Điều 228 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần
Trọng Q.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét yêu cầu được ly hôn với anh Trần Trọng Q của chị Huỳnh Thị
Ngọc T, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Chị Huỳnh Thị Ngọc T cho rằng, chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần
Trọng Q tự nguyện kết hôn đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn
M, huyện C, tỉnh An Giang ngày 03/9/2013. Vợ chồng chung sống đến khoảng
tháng 01/2014 thì phát sinh mâu thuẫn do anh Trần Trọng Q thường xuyên ăn
chơi, tham gia cờ bạc, không lo làm ăn, quan tâm chăm sóc cho gia đình. Mâu
thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng từ tháng 4/2024 do anh Trần Trọng Q tiếp tục
ăn chơi gây ra nợ nần sử dụng trái phép chất ma túy; vợ chồng sống ly thân
từ tháng 8/2024 cho đến nay. Trong thời gian vchồng sống ly thân, gia đình
hai bên không có động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Huỳnh Thị Ngọc
T anh Trần Trọng Q; bản thân chị Huỳnh Thị Ngọc T cho anh Trần Trọng
Q cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Trần Trọng Q không thay đổi
tính tình nên không hàn gắn được. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị
4
Huỳnh Thị Ngọc T yêu cầu được ly hôn với anh Trần Trọng Q.
Anh Trần Trọng Q đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh
Thị Ngọc T.
Xét thấy, chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần Trọng Q kết hôn trên sở
tự nguyện đăng kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia
đình, là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chị Huỳnh
Thị Ngọc T cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng
không còn nên chị Huỳnh Thị Ngọc T yêu cầu được ly hôn với anh Trần Trọng
Q. Anh Trần Trọng Q đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Huỳnh Thị Ngọc T.
Do đó, có căn cứ để xác định hôn nhân giữa chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần
Trọng Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được,
đời sống chung không thể kéo dài, việc chị Huỳnh Thị Ngọc T yêu cầu ly hôn
anh Trần Trọng Q phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình nên
được chấp nhận.
[2.2] Xét yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi vợ
chồng ly hôn của chị Huỳnh Thị Ngọc T, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Chị Huỳnh Thị Ngọc T xác định chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần
Trọng Q 02 (hai) con chung tên Trần Trọng M, sinh ngày 24/8/2014 Trần
Ngọc N, sinh ngày 24/02/2020; hiện tại, hai con chung đang sống với chị T. Khi
ly hôn, chị Huỳnh Thị Ngọc T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con
chung tên Trần Trọng M, sinh ngày 24/8/2014 Trần Ngọc N, sinh ngày
24/02/2020; không yêu cầu anh Trần Trọng Q cấp dưỡng nuôi con.
Anh Trần Trọng Q đồng ý để chị Huỳnh Thị Ngọc T được trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng con chung tên Trần Trọng MTrần Ngọc N.
Xét thấy, việc giao con chung người chưa thành niên cho người chăm
sóc, nuôi dưỡng khi chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Trần Trọng Q ly hôn phải
đảm bảo điều kiện phát triển tốt nhất cho con cả về vật chất lẫn tinh thần. Căn cứ
lời trình bày của chị Huỳnh Thị Ngọc T, con chung hiện nay đang sống với chị
Huỳnh Thị Ngọc T; quá trình sinh sống với chị Huỳnh Thị Ngọc T, con chung
vẫn phát triển tốt; đồng thời, căn cứ Biên bản ghi nhận ý kiến của con chung
ngày 30/6/2025 (BL: 14), cháu Trần Trọng M có nguyện vọng được sống với chị
Huỳnh Thị Ngọc T sống chung với cháu Trần Ngọc N. Mặt khác, hiện nay,
anh Trần Trọng Q đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc nên không đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Để
giúp cháu Trần Trọng M cháu Trần Ngọc N phát triển tốt nhất về thể chất
tinh thần, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị Huỳnh Thị Ngọc T yêu cầu được
tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Trần
Trọng Q ly hôn phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình
nên được chấp nhận.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Huỳnh Thị Ngọc T người trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi chị Huỳnh Thị Ngọc T anh Trần
5
Trọng Q ly hôn nên anh Trần Trọng Q phải nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
chung theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân gia đình nhưng chị
Huỳnh Thị Ngọc T không yêu cầu anh Trần Trọng Q cấp dưỡng nuôi con nên
Hội đồng xét xkhông đặt ra đxem xét. Trường hợp sau này tranh chấp sẽ
được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[2.4] Đối với tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án
giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có
tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí và quyền kháng cáo:
Chị Huỳnh Thị Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy
định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Các đương sđược quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271
và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
Điều 28, 35, 39, 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Ngọc T.
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Ngọc T được ly hôn anh Trần
Trọng Q.
[2] Về con chung:
Chị Huỳnh Thị Ngọc T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con
chung tên Trần Trọng M, sinh ngày 24/8/2014 Trần Ngọc N, sinh ngày
24/02/2020. Hiện nay đang sống với chị Huỳnh Thị Ngọc T.
Anh Trần Trọng Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị Huỳnh Thị Ngọc T ng các thành viên gia đình (nếu có) không được
cản trở anh Trần Trọng Q trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con chung.
Trên sở lợi ích của con chung, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc nhân,
quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm
2014, Tòa án thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp
dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
6
[3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về án phí dân sthẩm: Chị Huỳnh Thị Ngọc T phải chịu 300.000
(ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án
phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0024553 ngày
06/5/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang (nay
là Thi hành án dân sự tỉnh A).
[6] Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền
kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản
án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
[7] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh An Giang;
- VKSND tỉnh An Giang;
- VKSND Khu vực 11 - An Giang;
- Thi hánh án dân sự tỉnh An Giang;
- Đương sự;
- UBND xã Long Điền, tỉnh An Giang
(trước đây UBND thị trấn Mỹ Luông,
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang;
- Văn phòng;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Phước Sang
Tải về
Bản án số 76/2025/HNGĐ-ST Bản án số 76/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 76/2025/HNGĐ-ST Bản án số 76/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất