Bản án số 68/2024/DS ngày 14/06/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng rừng và đất rừng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 68/2024/DS

Tên Bản án: Bản án số 68/2024/DS ngày 14/06/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng rừng và đất rừng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng rừng và đất rừng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 68/2024/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về quyền sử dụng đất rừng giữa nguyên đơn ông Từ Văn T với bị đơn ông Lê Văn K
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 68/2024/DS PT
Ngày 14 6 2024;
V/v Tranh chấp về quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Văn Dũng.
Nguyễn Thị Liên,
Võ Thị Minh Phượng.
- Thư phiên tòa: Trần Thị Mẫn - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa:
Trần Thị Thanh Bắc - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 25/2024/TLPT - DS ngày 03 tháng 5 năm 2024
về việc “Tranh chấp về quyền sử dụng đất rừng”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS - ST ngày 14 tháng 3 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 31/2024/QĐ - PT ngày 09
tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Từ Văn T, sinh năm 1965; địa chỉ: thôn H, xã Đ, huyện Đ,
tỉnh Quảng Nam;
- Bị đơn: ông Văn K, sinh năm 1973; địa chỉ: thôn H, Đ, huyện Đ, tỉnh
Quảng Nam.
- Người có quyền lợi, nghĩa vliên quan:
1. Ngô Thị T1; địa chỉ: thôn H, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam;
2. Ông Từ Văn H, sinh năm 1959;
3. Vương Thị C, sinh năm 1933;
Cùng địa chỉ: thôn H, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam.
4. Ông Từ Văn N, sinh năm 1963;
Địa chỉ: thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam.
- Người kháng cáo: nguyên đơn Từ Văn T2;
Ông T2 có mặt; người tham gia tố tụng khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phía nguyên đơn cho rằng: thửa đất rừng số 744, tờ bản đồ số 02, diện tích
25.197m
2
nguồn gốc của ông khai hoang, sdụng từ năm 1994, khai, đăng
từ năm 2007 nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 23
tháng 3 năm 2016, ông Văn K khai thác trộm cây keo, lấn chiếm của ông T2
4.936m
2
đất rừng thuộc thửa đất trên. Ông T2 khởi kiện, yêu cầu ông K trả lại cho
ông T2 4.936m
2
đất đã lấn chiếm 11 tấn keo đã khai thác với giá tiền keo
12.000.000 đồng. Tại phiên tòa thẩm, ông T2 bổ sung yêu cầu buộc ông K bồi
2
thường thiệt hại về kinh tế trong 08 năm ông K chiếm giữ đất (từ năm 2016 đến năm
2024), mỗi năm 3.000.000 đồng, tổng cộng là 24.000.000 đồng.
Phía bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho
rằng: diện tích đất nguyên đơn tranh chấp là của ông K quản và trồng cây keo
tràm ổn định từ năm 1992, tại khu V, thôn T, Đ, huyện Đ; ông K sử dụng đất
không lấn chiếm của ai và cũng không tranh chấp đất với ai. Keo của ông K trồng thì
ông K khai khác, không khai thác trộm của ông T2.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến như sau:
- Ngô Thị T1 vợ của ông K, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, thống nhất với lời trình bày của ông K.
- Các ông, Vương Thị C, Từ Văn N, Từ Văn H đồng ý với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn khẳng định các ông, không liên quan đến quyền sử
dụng đất và tài sản đang tranh chấp.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS - ST ngày 14
tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ các điều
147, 203, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 166, 175 Bộ luật Dân
sự; Điều 166, khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, xử: chấp
nhận một phần yêu cầu của ông Từ Văn T, buộc ông Lê Văn K trả lại diện tích đất đã
lấn chiếm 4.936m
2
của ông T trong thửa đất 744 diện tích 25.197m
2
đo thực tế
31.853m
2
. Không chấp nhận yêu cầu của ông Từ Văn T, buộc ông Văn K bồi
thường thiệt hại 11 tấn keo gtrị khoảng 12.000.000 đồng. Ông Từ Văn T được
nhận toàn bộ cây trên đất tranh chấp 4.936m
2
ông T trả lại cho ông Văn K số
tiền 36.000.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định án phí, chi phí ttụng, nghĩa vụ thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 25 tháng 3 năm 2024, nguyên đơn Từ Văn Thắng
đơn kháng cáo một phần bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc bị
đơn bồi thường 11 tấn keo đã khai thác 12.000.000 đồng bồi thường do chiếm
đất 8 năm là 24.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam giữ
nguyên nội dung kháng nghị phát biểu ý kiến: Tòa án, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về việc thụ lý, xét xử vụ án; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ
nguyên Bản án sơ thẩm số 12/2024/DS - ST ngày 14 tháng 3 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung khởi kiện nội
dung kháng cáo và thông báo không thỏa thuận được với bị đơn về việc giải quyết vụ
án.
[2]. Xét kháng cáo của nguyên đơn
3
[2.1]. Về thủ tục tố tụng tại cấp phúc thẩm:
[2.1.1]. Việc thụ kháng cáo trong thời hạn, đúng điều kiện, thủ tục thẩm
quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên kháng cáo của
nguyên đơn Từ Văn Thắng là hợp pháp.
[2.1.2]. Bị đơn những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu
tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không do. Theo đó, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
theo quy định tại các điều 294, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2.2]. Về xét nội dung kháng cáo
Nguyên đơn yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc bđơn trả lại giá trị 11 tấn
keo đã khai thác ngày 23 tháng 3 năm 2016 12.000.000 đồng bồi thường thiệt
hại do chiếm đất 8 năm là 24.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy:
Thứ nhất, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại giá trị tài sản của 11 tấn keo, giá
12.000.000 đồng. Bị đơn cho rằng tài sản này thuộc quyền shữu của bị đơn. Theo
đó, Hội đồng xét xử xác định yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn thuộc tranh chấp
quyền sở hữu tài sản.
Thứ hai, nguyên đơn đưa ra yêu cầu khởi kiện bổ sung tại phiên tòa thẩm
về nội dung buộc bị đơn bồi thường thiệt hại bị mất do bị đơn chiếm đất của nguyên
đơn 8 năm (tnăm 2016 đến năm 2024). Kiểm tra hồ vụ án thì thấy: tại đơn khởi
kiện trong quá trình tham gia tố tụng giai đoạn chuẩn bị xét xử (BL 01, 14, 23,
25, 33, 95, 99 100, 117c), nguyên đơn không đưa ra yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt
hại phát sinh do bchiếm đất. Tại phiên tòa thẩm ngày 14 tháng 3 năm 2024,
nguyên đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện này thuộc trường hợp vượt quá yêu cầu
khởi kiện đã được Tòa án thụ lý, giải quyết và đưa ra xét xử. Theo đó, Tòa án cấp sơ
thẩm không xem xét, giải quyết yêu cầu này của nguyên đơn là đúng với quy định tại
khoản 1 Điều 224 Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015. Do vậy, Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về nội dung này. Nguyên đơn quyền lựa
chọn việc khởi kiện yêu cầu người gây thiệt hại cho nguyên đơn trong vụ việc khác.
Thứ ba, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại giá trị 11 tấn keo đã khai thác vào
ngày 23 tháng 3 năm 2016, nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh thời
điểm, địa điểm bị đơn khai thác keo của nguyên đơn, đặc điểm, chủng loại, giá trị tài
sản của nguyên đơn bkhai thác. Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21
tháng 10 năm 2022 do Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện chỉ xác định được trên đất tranh
chấp keo tràm khoảng 02 năm tuổi, tài sản của bị đơn (BL 90). Theo yêu cầu
của Tòa án, tại Công văn số 134/CV ngày 04 tháng 5 năm 2023, quan Cảnh sát
điều tra huyện Đ xác định “không có thông tin, tài liệu liên quan nào đến vụ việc
Tòa án nhân dân huyện Đ đề nghị cung cấp” (BL 107), tại Công văn số 01/CV
CAX ngày 24 tháng 4 năm 2023, Công an Đ xác nhận “vào năm 2016, Công an
không tiếp nhận vụ việc trên…”(BL 114). Tại phiên hòa giải Ủy ban nhân dân
Đ ngày 20 tháng 6 năm 2019, ông Văn K cho rằng “năm 2016 tôi vẫn khai
thác keo tràm 11 tấn, bán được 12 triệu như lời của anh T báo cáo nhưng đó
keo đất rừng của tôi. Đến nay tôi đã trồng lại cây được 3 năm tuổi…Công an
huyện đã mời tôi xuống làm việc hai lần…nhưng đến nay vẫn chưa kết quả giải
quyết….” (BL 10 11). Tại Thông báo số 07/TB ngày 17 tháng 12 năm 2017,
quan Cảnh sát điều tra huyện Đ xác định “vào ngày 05 tháng 10 năm 2017, quan
CSĐT Công an huyện Đ nhận được đơn báo mất tài sản của ông Từ Văn T….Qua
quá trình điều tra xác định được như sau: năm 2003, nhiều hộ dân trong và ngoài
4
Đ đến chiếm dụng 30ha đất rừng của các cán bộ lâm trường để trồng thơm, keo
tràm, trong đó có hộ ông Từ Văn T và ông Lê Văn K…Thửa đất rừng 744 của ông Từ
Văn T và thửa 743 của ông Văn K nằm trong khu vực 30ha trên, khu vực đất rừng
này đang xảy ra tranh chấp, tài sản trên đất tài sản tranh chấp nên giữa ông T
ông K quan hệ tranh chấp về quyền sở hữu tài sản…thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân huyện Đ. Mặt khác, tại phiên tòa thẩm, trả lời câu hỏi về
việc “ông khai thác cây keo lần nào trên đất tranh chấp chưa”, ông T xác nhận
“tôi đã khai thác bán cây 01 lần” cho rằng “trồng keo từ năm 2007, sau đó khai
thác vào năm 2010 và không trồng keo lại, chỉ khai thác keo tái sinh” (BL 174).
Theo đó, ông T gửi đơn đến cơ quan thẩm quyền báo mất tài sản từ năm
2017 và tranh chấp cây trên đất với ông K từ thời gian này. Ông K thừa nhận có khai
thác 11 tấn keo trị giá 12.000.000 đồng. quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ
không kết luận, giải quyết việc tranh chấp tài sản giữa hai bên, nhưng xác định ông K
ông T cùng sử dụng đất rừng để trồng keo tại khu vực tranh chấp từ năm 2003
giữa các bên đã tranh chấp đất rừng tại thời điểm 2003 cho đến nay. Ông T khẳng
định chỉ trồng keo từ năm 2007, những người làm chứng như Trà Thị S (BL 154), Từ
Văn N (155), Trương Thị T3 (BL 156)…xác định có tham gia trồng keo nhưng không
xác định được thời điểm trồng keo cho ông Từ Văn T.
Các tình tiết trên cho thấy: ông T tranh chấp đất với ông K từ năm 2003, tài
sản tranh chấp (11 tấn keo) do ông K chiếm hữu, định đoạt từ năm 2016, hiện nay
ông K là người đang sử dụng đất và ông T yêu cầu ông K trả lại đất này, điều này cho
thấy tranh chấp quyền sử dụng đất của các bên diễn ra từ năm 2003 đến nay (hơn 20
năm khoảng từ 4 đến 6 chu kỳ khai thác keo) cũng tthời điểm 2003 đến nay
ông K người sử dụng đất tranh chấp, nhiều lần khai thác tài sản trên đất tranh chấp
(trong khi ông T khẳng định chỉ khai thác 01 lần vào năm 2010 nhưng không
chứng cứ chứng minh) nên không sở để cho rằng số keo ông K khai thác
năm 2016 là do ông T chăm sóc từ keo tái sinh mà ông T đã khai thác năm 2010. Ông
T cho rằng đây tài sản của mình nhưng không tài liệu chứng cứ chứng minh
ràng 11 tấn keo mà ông K khai thác năm 2016 tài sản thuộc quyền sở hữu của ông
T. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của ông T
phù hợp với kết quả thu thập chứng cứ chứng minh trong quá trình giải quyết vụ
án. Theo đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về nội
dung này.
Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 12/2024/DS - ST ngày 14 tháng 3 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ về phần tranh chấp quyền sở hữu tài sản.
[2.3]. V án phí dân s phúc thm: do kháng cáo không được chấp nhận nên
nguyên đơn phải chịu án phí, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp.
[3]. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và Tòa
án cấp phúc thẩm không xem xéthiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 B lut T tng dân s năm 2015; các điều 13,
191 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 184 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
5
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Tuyên
xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Từ Văn T2, giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số 12/2024/DS - ST ngày 13 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Quảng Nam về phần tranh chấp quyền sở hữu 11 tấn keo lá tràm trị giá
12.000.000 (mười hai triệu) đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Từ Văn T2 về việc
buộc ông Văn K trả lại cho ông Từ Văn T 11 tấn keo tràm trị giá 12.000.000
(mười hai triệu) đồng.
3. Các phần khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án
cấp phúc thẩm không xem xét hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Từ Văn T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn)
đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn)
đồng theo biên lai thu số 0016674 ngày 29 tháng 3 năm 2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Đ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể tngày tuyên án (ngày 14 tháng 6
năm 2024).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND huyện Đ;
- THADS huyện Đ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Nguyễn Văn Dũng
Tải về
Bản án số 68/2024/DS Bản án số 68/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 68/2024/DS Bản án số 68/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất