Bản án số 665/2025/DS-PT ngày 23/09/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 665/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 665/2025/DS-PT ngày 23/09/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 665/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: lối đi
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 665/2025/DS-PT
Ngày: 23-9-2025
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất,
tranh chấp lối đi.”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Lê Thị Bích Tuyền
Ông Lương Minh Trí
Ông Đinh Tiền Phương
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Tiến Đức - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Tấn Phát - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 189/2025/TLPT-DS ngày 24 tháng 4 năm
2025 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp lối đi”.
Do bản án dân sự thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức (Tòa án nhân dân khu vực 3 Tây Ninh) b
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 197/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 5 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Thành Đ, sinh năm 1966;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Địa chỉ sau khi sáp nhập: Ấp B, xã T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Hòa T, sinh năm 1984;
Địa chỉ: Ấp F, xã N, huyện B, tỉnh Long An.
Địa chỉ sau khi sáp nhập: Ấp F, xã B, tỉnh Tây Ninh.
- B đơn:
1. Bà Cổ Thị G, sinh năm 1955;
2. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1955;
2
Cùng địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Địa chỉ sau khi sáp nhập: Ấp B, xã T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh T2, sinh năm 1983;
Địa chỉ: 1 Đ, A, B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ sau khi sáp nhập: 106/30/4 Đ, Phường A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Thi Văn H, sinh năm 1983;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
2. Ông Huỳnh Văn H1, sinh năm 1978;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
3. Ông Phan Văn N, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
4. Bà Thi Thị Thúy H2, sinh năm 1989;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
5. Bà Lê Thị B, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của các Th B, ông Phan Văn N,
Huỳnh Th H3, ông Thi Văn H, bà Thi Th Thúy H2: Ông Hoàng Văn T3, sinh năm
1991;
Địa chỉ: Bon Bu Prăng A, xã Q, huyện T, tỉnh Đắk Nông.
Địa chỉ liên lạc: Số C, Quốc lộ F, phường L, tỉnh Tây Ninh.
Người làm chứng:
1. Bà Thi Thị L, sinh năm 1972;
2. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1952;
3. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1952;
4. Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1956;
Cùng địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Địa chỉ sau sáp nhập: Ấp B, xã T, tỉnh Tây Ninh.
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phan Thành Đ; Bị đơn Cổ Thị G
ông Nguyễn Văn T1; Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thi Văn H, ông
Huỳnh Văn H1, ông Phan Văn N, bà Thi Thị Thúy H2 và bà Lê Thị B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 8 năm 2022 của nguyên đơn ông Phan
Thành Đ lời trình bày của ông Hòa T người đại diện theo ủy quyền như
sau:
3
Ông Đ chủ sử dụng thửa đất số 357, 500 tờ bản đồ số 26 (thửa 722,
740, tờ bản đồ số 4) tọa lạc tại ấp B, T, huyện B, tỉnh Long An. Nguồn gốc đất
do cha mẹ ông Đ cho. Giáp ranh với thửa đất số 357, 500 của ông Đ là thửa 437, tờ
bản đồ số 26 của Cổ Thị G ông Nguyễn Văn Trương . Ông Đ xác định phần
đất thuộc khu B, A1, B2 theo mảnh trích đo địa chính do Công ty TNHH Đ2 thực
hiện thuộc quyền sử dụng của ông Đ. Tại khu B1, A1, gia đình ông Đ tự đổ đất
(3m x 7m) để làm đường đi phần đất thổ của mình tiện đường cho các hộ
xung quanh đi nhờ đất. Sau này G, ông T1 cho rằng đường đi đó lối đi công
cộng, G, ông Trương L1 sang phần đất của ông Đ đđặt cống thoát nước nên
ông Đ không đồng ý khởi kiện yêu cầu trả lại diện tích đất thuộc khu A, B1.
Đến ngày 20 tháng 5 năm 2024, khi nhận được kết quả đo đạc, thẩm định, ông Đ
nhận thấy thửa đất của ông được cấp giấy còn phần đất tại vị trí B2 theo mảnh trích
đo số 34-2024 ngày 22 tháng 01 năm 2024 đã bG ông Trương lấn C xây
dựng các công trình trên đất với diện tích 277,1 m
2
, ông Đ không đồng ý ông T1,
bà G tiếp tục sử dụng phần đất của ông Đ m nhà và lối đi.
Đối với ý kiến của bị đơn và những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
cho rằng không còn lối đi nào khác không sở, các hộ dân đều lối đi
riêng nên ông Đ không đồng ý mở lối đi. Trường hợp Tòa án mở lối đi, ông Đ yêu
cầu Tòa án xem xét vị trí lối đi nào thuận tiện nhất, ngắn nhất để đi ra đường công
cộng, nếu mở trên đất của ông Đ thì phải trả giá trị cho ông Đ.
Vì vậy, ông Đ khởi kiện yêu cầu:
- Buộc vợ chồng ông T1, bà G tháo dỡ phần nhà bán kiên cố (cột sắt, tường
xây gạch 2m, vách phía trên tole thiếc, mái tole thiếc), các công trình phụ kèm theo
và trả lại cho ông Đ phần đất lấn chiếm thuộc Khu A1, B1, B2 thuộc một phần thửa
đất số 357, 500, tờ bản đồ số 26 (thửa cũ là 722, 740, tờ bản đồ số 4) toạ lạc tại p
B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
- Riêng đối với phần đất thuộc khu H, G1, ông Đ xác định đây phần diện
tích do Nhà nước quản lý nên không tranh chấp.
- Đối với vị trí khu C, ông Đ không tranh chấp trong vụ án, xác định ranh
giới theo ranh bản đồ địa chính.
B đơn Cổ Th G, ông Nguyễn Văn T1 yêu cầu phản tố, do ông Hoàng
Văn T3 đại diện theo ủy quyền lời trình bày: Ông T1, G chủ sử dụng của
thửa đất số 437, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp B, T, huyện B, tỉnh Long An.
Nguồn gốc thửa đất do cha mẹ ông Trương Đ1 lại. Đối với yêu cầu khởi kiện của
ông Đ, bị đơn không đồng ý, bởi lẽ:
- Đối với vị trí khu B2, Theo ranh bản đồ địa chính của M1 trích đo số
34/2024 ngày 22 tháng 01 năm 2024 thể hiện ranh bản đồ địa chính của thửa số 500
đất của ông Đ bao gồm của khu B2. Tuy nhiên, ranh trên thực tế phần đất của vợ
chồng ông T1, G ông Đ được ngăn cách với nhau bởi lối đi chung bề
ngang 5m chiều dài hết thửa đất (khu A1, B1). Việc sử dụng đất của ông bà tại khu
B2 công khai được mọi người xung quanh thừa nhận. Chính ông Đ cũng đã
thừa nhận trong Mảnh trích đo bằng việc chỉ ranh giới đất theo đường kẻ màu xanh
vị trí thực tế ngay mương nước không bao gồm khu B2. Hiện khu B2 vợ
chồng ông T1, bà G đã cất nhà ở, việc xây cất và hoàn thành năm 2021. Khi xây cất
4
không ai ngăn cản, tranh chấp, vợ chồng ông T1, bà G sử dụng ổn định thửa đất từ
trước đến nay.
- Đối với vtrí khu A1, B1, đây là phần ranh giới phân cách giữa thửa 437
của ông T1, G với 02 thửa 357, 500 của ông Đ. Từ trước tới nay, đây lối đi
chung có diện tích ngang 5m chiều dài hết đất được sử dụng từ năm 1964, 1965 đến
nay. Ngoài các hộ dân tiếp giáp lối đi này thì những người dân xung quanh và trong
khu vực cũng đều sử dụng lối đi này trong hơn 30 năm không ai ý kiến gì.
Hiện nay rất nhiều người làm chứng đều thừa nhận đây lối đi chung, được
nhiều người sử dụng công khai trong nhiều năm liền. Khi mở rộng đường tỉnh 816
hình thành đường đi khác qua khu dân mới được quy hoạch thì các hdân,
người dân khác ít sử dụng lối đi này đường đi mới trải nhựa, thuận tiện hơn.
Các hộ dân tiếp giáp với lối đi này chỉ một một lối đi chung duy nhất bề ngang
khoảng 5m nối tới đường T đường đi công cộng của Nhà nước, ngoài lối đi này
không có lối ra nào khác. Thấy lối đi chung ít được sử dụng nên ông đạt lấn chiếm,
làm cổng rào. Hiện nay, ông Đ ý định lấn chiếm lối đi chung để nhập vào thửa
đất số 357 thửa đất số 500 cùng tờ bản đồ số số 26 tọa lạc tại p B, T, huyện
B, tỉnh Long An.
Bị đơn ông T1, bà G yêu cầu phản tố:
- Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ và công nhận
cho vợ chồng ông T1, G phần diện tích đất tại vị trí khu B2 diện tích 277,1m
2
thuộc một phần thửa đất số 500, tờ bản đồ số 26 tọa lạc tại ấp B, T, huyện B,
tỉnh Long An theo mảnh trích đo địa chính số 34/2024 được chi nhánh văn phòng
đăng đất đai huyện B, tỉnh Long An duyệt ngày 22 tháng 01 năm 2024 để ông
T1, G điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình tại quan
có thẩm quyền.
- Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ và công nhận
lối đi chung tại vị trí khu A1 diện tích 53,3m
2
; B1 diện tích 181,9m
2
thuộc một
phần thửa đất số 357, tờ bản đồ số 26 tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
- Đối với vị trí khu H, khu G, ông T1, bà G xác định đây là phần diện tích do
Nhà nước quản lý nên không tranh chấp.
- Đối với vị trí khu E, ranh giới không đồng nhất với ranh bản đồ địa chính
ông T1, bà G không tranh chấp trong vụ án, xác định ranh giới theo ranh bản đồ địa
chính.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các ông Th B, Phan
Văn N, Huỳnh Th H3, Thi Văn H, Thi Th Thúy H2 yêu cầu độc lập, do ông
Hoàng Văn T3 đại diện ủy quyền có lời trình bày:
Các hộ dân phía trong những người được Nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 438, 347, 356, 558, 349 tờ bản đồ số 26
tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An. Trước đây giáp ranh với thửa đất của
các hộ ông Đ lối đi chung bề ngang 5m chiều dài hết đất được sử dụng từ
năm 1964, 1965 đến nay vẫn còn hiện hữu. Các ông bà thống nhất với lời trình bày
của bị đơn ông T1, G về quá trình hình thành, nguồn gốc, quá trình sử dụng
phần lối đi chung tại Khu A, B1.
5
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu: Hủy một phần giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ công nhận lối đi chung. Trường hợp
theo quy định của pháp luật không thuộc trường hợp được công nhận lối đi chung
do hình thành lâu đời, yêu cầu tòa án mở lối đi qua bất động sản liền kề do lối đi
này hình thành lâu đời lối đi duy nhất, thuận tiện nhất nối tới đường T đường
đi công cộng.
Trường hợp mở lối đi, c hộ dân không nghĩa vụ trả tiền quyền sử dụng
đất do đây là lối đi đã tồn tại từ lâu.
Tại bản án dân sự thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đã căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 147, các Điều 157, 158,
165, 166, 200, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 254 Bộ luật dân sự; Các Điều 166,
170 Luật Đất đai; các Điều 12, 14, 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Chp nhận một phần yêu cầu khi kiện của nguyên đơn ông Đ đối với bị đơn
ông T1, bà G về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất.
Chp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông T1, G đối với
nguyên đơn ông Đ về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông T1, G đối với nguyên
đơn ông Đ về việc “tranh chấp lối đi”.
Không chấp nhận yêu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan các ông bà Bé, ông N, bà H3, ông H, bà H2 đối với nguyên đơn ông Đ về việc
“tranh chấp lối đi”.
Giao cho ông Đ được quyền tiếp tục quản lý, sử dụng vị trí đất tại Khu A1,
loại đất BHK, diện tích đo đạc thực tế 53.3 m
2
; vị trí đất tại Khu B, loại đất ONT,
diện tích đo đạc thực tế 181.9 m
2
, thuộc một phần thửa đất số 357, 500, tờ bản đồ
số 10, toạ lạc tại xã T, huyện B, tỉnh Long An cùng toàn bộ tài sản gắn liền với
phần đất nêu trên, toàn bộ cây trồng trên đất.
Giao cho ông T1 G được quyền quản sử dụng vị trí đất tại Khu B2,
loại đất ONT, diện tích đo đạc thực tế 277,1m
2
, thuộc một phần thửa đất số 500, tờ
bản đồ số 10, toạ lạc tại T, huyện B, tỉnh Long An cùng toàn bộ tài sản gắn liền
với đất một phần nhà (1), diện tích đo đạc thực tế 22,3 m
2
, một phần nhà (3)
diện tích đo đạc thực tế là 52,4 m
2
, nhà (5) diện tích đo đạc thực tế là 45,6 m
2
.
Buộc G ông T1 nghĩa vụ liên đới trả lại ông Đ giá trị đất
620.981.100 (sáu trăm hai mươi triệu chín trăm tám mươi mốt nghìn một trăm)
đồng.
V trí, tứ cận, loại đất, chiều dài và chiều rộng các phần đất nêu trên được
thể hiện theo Mảnh trích đo bản đồ đa chính số 34-2024 do Công ty TNHH Đ2
thực hiện, được Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai tại huyện B duyệt ngày
22/01/2024 M1 trích đo thể hiện công trình kiến trúc dựa trên nền bản vẽ gốc,
được đính kèm bản án sơ thẩm.
6
Các thửa đất trên do Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông Đ số AN 486826 ngày 07 tháng 8 năm 2008.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 12 tháng 3 năm 2025, nguyên đơn ông Đ không đồng ý bị đơn trả ½
giá trị đất khu B2 yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện,
xác định khu B2 của nguyên đơn hoặc bị đơn phải trả toàn bộ giá trị đất
1.241.962.200 đồng.
Ngày 11 tháng 3 năm 2025, bị đơn bà Gông T1 kháng cáo yêu cầu xét
xử phúc thẩm theo hướng hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông Đ công nhận cho vợ chồng ông T1, G phần diện tích đất tại vị trí khu B2
diện tích 277,1 m
2
thuộc một phần thửa đất số 500, tờ bản đồ số 26 tọa lạc tại ấp B,
xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Ngày 11 tháng 3 năm 2025, những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông H, ông H3, ông N, H2 B kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo
hướng hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ công nhận
lối đi chung tại vị trí khu A1 diện tích 53,3m
2
; B1 diện tích 181,9 m
2
thuộc một
phần thửa đất số 357, tờ bản đồ số 26 tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, rút
yêu cầu kháng cáo bđơn những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
giữ nguyên u cầu kháng o, các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
B đơn bà G và ông Trương D ông T2 là người đại diện ủy quyền trình bày:
Vị trí B2 tnăm 1975 đến năm 1999 giáp ranh bờ mương nước, bị đơn sử
dụng phần đất trên 30 năm đến hiện tại. Bị đơn lấp dần và sau đó san lấp bề cao
50cm, xây nhà năm 2017 nguyên đơn hoàn toàn không tranh chấp. Sau đó bị
đơn đặt cống không ai tranh chấp đến khi nguyên đơn tranh chấp lối chung, xác
định ranh không phần vị trí B2 chỉ ranh giáp đường mương nước. Đối
phần diện tích đất của nguyên đơn được cấp giấy 2.086m
2
nhưng sau khi đo đạc
thực tế phần đất của nguyên đơn có diện tích hơn 5000m
2
. Hiện nay phía nguyên
đơn chưa m thủ tục đổi giấy cấp giấy theo hiện trạng thực tế sử dụng nên
chưa có căn cứ xác định vị trí B2 của nguyên đơn. Nếu trường hợp kháng cáo
của bị đơn được chấp nhận, đề nghị chia đôi tiền tạm ứng chi phí tố tụng
thẩm 48.000.000 đồng /2 = 24.000.000 đồng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do ông T3 đại diện ủy quyền lời
trình bày: Công nhận lối đi chung cho các hộ dân phía trong Thi Văn H; Huỳnh
Văn H1; Phan Văn N; Thi Thị Thúy H2; Thị B, tại vị trí khu A1 diện tích 53,3
m
2
; B1 diện tích 181,9 m
2
thuộc một phần thửa đất số 357, tờ bản đồ số 26 tọa lạc
tại ấp B, T, huyện B, tỉnh Long An. Lối đi này đã tồn tại từ năm 1945 đến nay,
phía các người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã đđá xanh công bồi bổ, 07
hộ dân đi lối đi trên nhưng tranh chấp chỉ 05 hộ. Hộ H thửa 438 H2 thửa
551 muốn đi ra đường số 8 phải đi qua thửa đất 556 của bà L2.
7
Nguyên đơn ông Đ ủy quyền cho ông T lời trình bày: Ông Đ rút yêu cầu
kháng cáo đối với ½ tại vị trí B2. Nguyên nhân tranh chấp từ lối đi, các người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng lối đi của Nhà nước khi bị đơn đặt cống
không tranh chấp. Sau khi đo đạc thì phía nguyên đơn mới biết phần đất B2 do
nguyên đơn đứng tên nên khởi kiện bổ sung. Phần lối đi A1 B1 từ thời
cha mẹ của nguyên đơn để chừa ra lối đi và có công cải tạo thành lối đi, vị trí lối đi
trên nguyên đơn cũng sử dụng làm lối đi ra các thửa đất giáp ranh. Khi Ủy ban cấp
giấy cho nguyên đơn cấp theo đại trà đến nay chưa thực hiện thủ tục cấp lại
theo hiện trạng thực tế. Đối với phần A1 B1 nếu đồng ý mlối đi thì phải trả
theo giá đã định theo chứng thư của Công ty T5 ngày 10 tháng 7 năm 2024 và phần
B2 của bị đơn nếu muốn công nhận phải trả lại theo giá thị trường theo chứng thư
trên. Không đồng ý theo kết quả định gcủa Hội đồng định giá Nnước thành
lập theo yêu cầu của bị đơn tại cấp phúc thẩm giá không phù hợp thực tế. Đối
với phần nhà tại vị trí B2 khi bị đơn xây nhà đã bị xử phạt hành chính và khi bị đơn
tách thửa giáp ranh với nguyên đơn đường mương nước, trước đây phần
mương nước là ụ tàu rất rộng và diện tích bao nhiêu không xác định, hiện nay đã bị
bị đơn lấn chiếm nên diện tích thu hẹp còn giáp ranh đường mương nước và bị đơn
đã đặt cống thoát nước.
Vị trí B1 có từ năm 1940, ông nắm rõ về lối đi này vì từ năm 1983 đến năm
1987 ông chủ tịch T. Lối này được sử dụng trong thời kỳ chiến tranh dùng
đi luân chuyển khí lương thực nuôi dưỡng cách mạng. Trên giấy tờ thể
hiện trong họa đồ thửa đất của nguyên đơn nhưng hiện trạng thực tế lối đi
chung từ năm 1940 nguyên đơn cũng sử dụng lối đi này để phục vụ trong
canh tác nông nghiệp. Yêu cầu giữ nguyên hiện trạng lối đi cho người dân.
Kiểm t viên Viện kiểm t nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến của
Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong qtrình giải quyết vụ án dân
sự giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tiến hành
tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo trong thời hạn luật
quy định và hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa, ông T đại diện nguyên đơn ông Phan Thành Đ rút lại toàn bộ
kháng cáo. Việc rút kháng cáo hoàn toàn tnguyện phù hợp quy định tại
Điều 289 Bluật Tố tụng n sự năm 2015 nên sđình chỉ xét xử phúc
thẩm đối với kháng cáo của nguyên đơn.
Quan điểm về việc giải quyết ván: Căn cứ hồ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thửa đất số 437 (thửa 723) diện tích 1.797,6m
2
. Theo
phía bị đơn xác định thì các Khu D, D1, D2 do bđơn quản sử dụng từ trước
đến nay. Diện tích thực tế sử dụng tại các khu đất này bằng với diện tích ông T1
được cấp giấy chứng nhận 1.797,6m
2
. Ông T1 cho rằng mình còn quản
thêm vị trí khu B2, diện tích 277,1m
2
. Tuy nhiên, nếu tính phần vtB2 thì
diện tích lại cao hơn nhiều so với diện tích ông T1 được cấp giấy chứng nhận.
Căn cứ Công văn số 3494/CNVPĐKDĐ-HCTH ngày 23/7/2024, khi cấp đổi
thửa 437, các bên lập biên bản giáp ranh các hộ liền kề. Tại Bản tả
ranh giới, mốc giới thửa đất khi yêu cầu cấp đổi giấy chứng nhận do ông T1
8
thực hiện thể hiện giáp ranh thửa đất số 437 là thửa đất số 357 và 500. Tại phiên
tòa thẩm, G, ông Đ đều xác định chữ trong Bản tả này của ông
T1, G. Khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bđơn không ý
kiến hay khiếu nại gì. Nên có căn cứ xác định việc cấp giấy chứng nhận cho ông
T1, ông Đ là đúng quy định.
Như vậy, căn cứ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quá trình
sử dụng đất nêu trên, xác định phần đất đang tranh chấp thuộc khu B2 nguồn
gốc của gia đình ông Đ. Theo xác minh của chính quyền địa phương, G
người lấp mương để làm nhà vào năm 2021. Ông Đ biết G lấp mương nhưng
không ngăn cản. Do G ông Trương C1 công sức cải tạo bồi lấp đất, đồng
thời đất cũng đã được xây dựng nhà với diện tích 123,5m
2
nên việc tháo dỡ
không cần thiết. Do đất được cấp cho ông Đ nhưng bà G, ông T1 người bồi
đắp nên Tòa án cấp thẩm xem xét công sức tôn tạo của G, ông T1, chỉ
buộc G và ông Trương T4 lại ½ gtrị đất thuộc Khu B phợp. Do đó,
kháng cáo của bị đơn ông T1, bà G là không có cơ sở chấp nhận.
Căn cứ vào nội dung Công văn số 469/UBND-ĐC ngày 23/8/2024 của Ủy
ban nhân dân T xác định Khu A, B1 trước đây cái bờ, các hộ dân phí
trong làm lối đi ra đường 816. Từ năm 2002 khu dân cư vượt ấp 2 được hình
thành, người dân không đi ra bằng đường này nữa. Phần đất này không phải đất
công. Hồ vụ án thể hiện thửa đất thuộc quyền sử dụng của các ông
Nguyễn Văn T1, Thị B, Phan Văn N, Huỳnh Thị H3, Thi Văn H, Thi Thị
Thúy H2 đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ thời điểm năm
2017 trở về sau, các thửa đất giáp với thửa 357 của ông Đ. Riêng hồ sơ cấp giấy
cho ông T1 ông Đ đều thể hiện từ khi cấp giấy ban đầu cho đến các lần cấp
đổi, hai thửa thửa đất của ông T1 ông Đ giáp nhau, giữa không đường
đi. Quá trình xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp thẩm xác định phần
đất thuộc Khu A, B1 do nguyên đơn đổ đá xanh dựng các trụ điện. Hiện
trạng này phù hợp với lời trình bày của nguyên đơn cho rằng nguyên đơn sử
dụng con đường này để đi vào phần đất phía sau của gia đình và cho các hộ dân
đi nhờ. Do đó, ông T3 đại diện cho T1, B, ông N, H3, ông H, H2
cho rằng vị trí khu A1, B1 là lối đi công cộng là không có cơ sở chấp nhận.
Qua đo vẽ phân khu lại khu A1, B1 thì phần lối đi ông T3 yêu cầu mở hiện
nay tại vị trí khu A2 diện tích 28,2m
2
thuộc thửa 357 khu B4 diện tích 82 m
2
thuộc thửa 500 của ông Đ. Đồng thời, như đã phân tích trên thì các vị trí đất trên
không phải là lối đi công cộng mà thuộc quyền sử dụng đất của nguyên đơn ông Đ.
Nên những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông H, ông H3, ông N,
H2, B yêu cầu được mở lối đi tại vị trí khu A2, B4 thì nghĩa vụ hoàn trả
lại giá trị đất cho ông Đ.
Do đó, kháng cáo của những người quyền lợi nghĩa vliên quan
ông H, ông H3, ông N, H2, B do ông T3 đại diện yêu cầu mở lối đi
sở chấp nhận một phần.
Do đó, đnghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, sửa một phần bản án sơ thẩm số 30/2025/DS-ST
9
ngày 28 tháng 02 m 2025 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức (Tòa án nhân
dân khu vực 3 – Tây Ninh).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông T1, bà G người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông H, ông H3, ông N, bà H2, bà B đúng theo quy định tại các điều 272,
273 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Nguyên đơn ông Đ tự nguyện rút yêu cầu kháng cáo nên đình chỉ đối với yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn tại ½ vị trí B2 theo Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn và các liên quan thấy rằng:
[2.1] Đối với phần ½ vị trí B2 bị đơn kháng cáo có B2, có diện tích 277,1m
2
thuộc
mpt đất số 437 (thửa 723 diện tích 1.797,6 m
2
). Quá trình sử dụng đất
các bên đều xác định trước đây có 01 con mương thoát nước và 01 ụ ghe, tuy nhiên
diện tích ghe bao nhiêu phía nguyên đơn không xác định. Theo xác minh của
chính quyền địa phương, bà G người lấp mương để làm nhà vào năm 2021. Ông
Đ biết bà G lấp mương nhưng không ngăn cản. Các bên xác định ranh đất giáp ranh
đường mương nước thực tế hiện nay giáp ranh là mương nước đã được đặt
cống thoát ớc nguyên đơn đã từ lâu không còn sử dụng ghe. Phía nguyên
đơn hoàn toàn không biết phần B2 phần đất của nguyên đơn thực tế không sử
dụng và đến khi các bên tranh chấp về lối đi thì nguyên đơn chỉ ranh vẫn giáp phần
mương nước không có vị trí B2, đến khi có trích đo thì nguyên đơn mới tranh chấp
vị trí B2. Điều này nguyên đơn đều thừa nhận khi nguyên đơn được cấp giấy
chứng nhận QSDĐ nguồn gốc từ cha mẹ để lại không đo đạc hiện trạng thực tế
cấp theo đại trà. Phần đất B2 bị đơn sử dụng ổn định trên 20 năm không ai tranh
chấp bồi đắp tài sản cố định trên đất nên yêu cầu của bị đơn đối với ½ vtrí
B2 có căn cứ chấp nhận.
[2.2] Đối với yêu cầu của bị đơn về việc hủy một phần giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, theo hướng dẫn tại Công văn số 64/TANDTC-PCngày
03/4/2019 của a án nhân dân tối cao, xét thấy việc hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất không cần thiết. Các đương sự quyền đăng khai để điều
chỉnh lại theo đúng quy định của pháp luật đất đai sau khi bản án hiệu lực pháp
luật.
[3] Đối phần đất đang tranh chấp yêu cầu mở lối đi tại khu A, B1 theo họa đồ
thể hiện bà H2 thửa 558, L2 thửa 556, ông H thửa 438, N thửa 551 tiếp giáp
mpt 357 356 của ông Đ. H2 ông H muốn đi ra đường số 8 phải đi qua
thửa đất số 556 của L2. Tại Điều 254 Bộ luật dân sự quy định quyền về lối
đi: “Chủ sở hữu có bất động sản b vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở
hữu khác không hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, quyền yêu
cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần
đất của họ. Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào được coi thuận
tiện hợp nhất, tính đến đặc điểm cụ thể của đa điểm, lợi ích của bất
động sản b vây bọc thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu
bất động sản chu hưởng quyền, trừ trường hợp thỏa thuận khác”. Như vậy,
10
xét về điều kiện được coi là thuận tiện và hợp lý nhất thì lối đi tại khu A1 và B1
được xem điều kiện thuận tiện nhất, cần xem xét buộc nguyên đơn giữ một
phần hiện trạng lối đi cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cần xem xét
đến diện tích phù hợp ít ảnh hưởng đến QSDĐ của nguyên đơn, lối đi được xem
phù hợp được chấp nhận có diện tích chiều ngang 1,5m x dài 63,2m =
407,5m
2
. Thuộc vị trí A2 và B2 theo mảnh trích đo ngày 10 tháng 9 năm 2025.
[3.2] Về nguồn gốc theo lời trình bày của ông V1 các người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan thì lối đi này tồn tại từ năm 1940 đến nay 85 năm nên các
liên quan không đền bù lối đi cho nguyên đơn là phù hợp.
[3.3] Theo khoản 1 Điều 171 Luật đất đai quy định quyền sử dụng hạn chế
đối với thửa đất liền kề trong đó quy định quyền về lối đi được áp dụng theo
Điều 95 Luật đất đai; tại điểm m khoản 4 Điều 95 quy định về đăng biến
động khi thay đổi về những hạn chế quyền của người sử dụng đất. Như vậy,
các liên quan có quyền u cầu đăng ký biến động hạn chế quyền sử dụng đất
của ông Đ đối với phần diện tích mở lối đi theo quy định.
[9] Phát biểu của Kiểm sát viên có căn cứ chấp nhận một phần.
[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị đơn
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông H, ông H3, ông N, H2, B
không phải chịu.
[11] Về chi pttụng tại cấp phúc thẩm: Bị đơn người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông H, ông H3, ông N, H2, B tự nguyên chịu (đã nộp
xong).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T1, Cổ Thị G; Người
quyền lợi nghĩa vliên quan Thị B, Phan Văn N, Huỳnh Thị H3,
Thi Văn H, Thi Thị Thúy H2.
Đình chỉ đối với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn tại ½ vị trí B2 theo
Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Sửa một phần Bản án thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 28 tháng 02 năm
2025 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức (Tòa án nhân dân khu vực 3 Tây
Ninh);
Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản
1 Điều 39; khoản 2 Điều 147, các Điều 157, 158, 165, 166, 200, 228 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Căn cứ Điều 254 Bộ luật dân sự;
Căn cứ các Điều 166, 170 Luật Đất đai;
11
Căn cứ các Điều 12, 14, 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Bác toàn bộ yêu cầu khi kiện của nguyên đơn ông Phan Thành Đ đối
với bị đơn ông Nguyễn Văn T1, bà Cổ Thị G về việc “tranh chấp quyền sử dụng
đất” tại v trí B2.
2. Chp nhn yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn T1, Cổ Thị
G đối với nguyên đơn ông Phan Thành Đ về việc “tranh chấp quyền sử dụng
đất”.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn T1,
Cổ Thị G đối với nguyên đơn ông Phan Thành Đ về việc “tranh chấp lối đi”.
4. Chấp nhận một phần yêu độc lập của những người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan các bà Thị B, Phan Văn N, Huỳnh Thị H3, Thi Văn H, Thi Thị
Thúy H2 đối với nguyên đơn ông Phan Thành Đ về việc “tranh chấp lối đi”.
4.1. Giao cho ông Nguyễn n T1 Cổ Thị G được quyền tiếp tục
quản lý, sử trí đất tại Khu A1, loại đất BHK, diện tích đo đạc thực tế 53,3m
2
; vị
trí đất tại Khu B, loại đất ONT, diện tích đo đạc thực tế 181,9m
2
, thuộc một
phần thửa đất số 357, 500, tờ bản đồ số 10, toạ lạc tại xã T, huyện B, tỉnh Long
An cùng toàn bộ tài sản gắn liền với phần đất nêu trên, toàn bộ y trồng trên
đất.
4.2. Giao cho ông Nguyễn Văn T1Cổ Thị G được quyền quản lý sử
dụng vị trí đất tại Khu B2, loại đất ONT, diện tích đo đạc thực tế 277,1m
2
, thuộc
một phần thửa đất số 500, tờ bản đồ số 10, toạ lạc tại T, huyện B, tỉnh Long
An cùng toàn btài sản gắn liền với đất một phần n(1), diện tích đo đạc
thực tế 22,3m
2
, một phần nhà (3) diện tích đo đạc thực tế 52,4m
2
, nhà (5)
diện tích đo đạc thực tế là 45,6m
2
.
V trí, tứ cận, loại đất, chiều dài chiều rộng các phần đất nêu trên
được thể hiện theo Mảnh trích đo bản đồ đa chính số 34-2024 do Công ty
TNHH Đ2 thực hiện, được Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai tại huyện B
duyệt ngày 22 tháng 01 năm 2024 M1 trích đo thể hiện công trình kiến trúc
dựa trên nền bản vẽ gốc, được đính kèm bản án sơ thẩm.
4.3. Buộc ông Phan Thành Đ tiếp tục mlối đi tại vị trí A1 B1 thuộc
mpt 357 và 356 của ông Phan Thành Đ có diện tích A2 28,2m
2
, vị trí B2 có diện
tích 125,5m
2
. tứ cạnh theo M1 trích đo cắt thửa ngày 10 tháng 9 năm 2025
của Cty TNHH đo đạc nhà đất H4.
4.4. Hạn chế quyền bất động sản thuộc mpt 357 và 357 tại vị trí A2 và B2.
Thị B, ông Phan Văn N, Huỳnh Thị H3, ông Thi Văn H, Thi Thị
Thúy H2 quyền yêu cầu đăng biến động hạn chế quyền sử dụng đất của
ông Đ đối với phần diện tích mở lối đi theo quy định.
12
Các thửa đất trên do Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Phan Thành Đ số AN 486826 ngày 07 tháng 8 năm
2008.
4.5. Các đương sự trách nhiệm liên hệ quan Nhà nước thẩm
quyền đhoàn tất thủ tục khai, đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất; điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp đối với phần đất
thuộc quyền sử dụng của mình theo quy định của Luật đất đai.
5. Về chi phi tố tụng cấp thẩm: Buộc ông Phan Thành Đ phải chịu
24.000.000 (hai mươi bốn triệu) đồng. Do ông Nguyễn Văn T1, bà Cổ Thị G đã
nộp tạm ứng nên buộc ông Phan Thành Đ trả lại cho ông Nguyễn Văn T1, bà Cổ
Thị G số tiền 24.000.000 (hai mươi bốn triệu) đồng.
6. Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn T1, Cổ Thị G được miễn án
phí. Thị B, ông Phan Văn N, Huỳnh Thị H3, ông Thi Văn H, Thi
Thị Thúy H2 không phải chịu án phí. Ông Phan Thành Đ phải chịu án phí
300.000 (ba trăm nghìn) đồng. Khấu trừ tiền tạm ứng án phí ông Phan Thành Đ
đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu số 0012281 ngày 28
tháng 10 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức. (Ông Phan
Thành Đ đã nộp xong).
7. Về chi phi tố tụng cấp phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T1, Cổ Thị G
Thị B, ông Phan Văn N, bà Huỳnh Thị H3, ông Thi Văn H, Thi Thị
Thúy H2 tự nguyện chịu 6.850.000 (sáu triệu tám trăm năm mươi nghìn) đồng
(đã nộp xong).
8. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T1, Cổ Thị G
Lê Thị B, Phan Văn N, Huỳnh Thị H3, Thi Văn H, Thi Thị Thúy H2 không phải
chịu. Hoàn trả 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí
cho bà Thị B, Phan Văn N, Huỳnh Thị H3, Thi Văn H, Thi Thị Thúy H2 đã
nộp theo biên lai thu số 0007538, 0007537, 0007539, 0007536, 0007535 cùng
ngày 13 tháng 3 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh
Long An.
Trường hợp bản án, được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- TAND khu vực 3 Tây Ninh;
- THADS tỉnh Tây Ninh;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
13
Lê Thị Bích Tuyền
14
Tải về
Bản án số 665/2025/DS-PT Bản án số 665/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 665/2025/DS-PT Bản án số 665/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất