Bản án số 63/2025/DS-PT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 63/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 63/2025/DS-PT ngày 20/05/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 63/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Lê Mạnh H - Nguyễn Thị X, Nguyễn T - Tranh chấp yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu và chia di sản thừa kế theo di chúc, theo pháp luật
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 63/2025/DS-PT.
Ngày: 20-5-2025.
V/v tranh chấp yêu cầu tuyên bố di
chúc hiệu chia di sản thừa kế
theo di chúc, theo pháp luật.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Phạm Quốc Bảo.
Lê Thị Anh Đào;
Võ Thị Minh Phượng.
- Thư phiên tòa: Trần Thị Minh Hiếu - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam: Trần Thị
Thanh Bắc - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 20 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2025/TLPT-DS ngày 03 tháng 3
năm 2025 về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố di chúc hiệu chia di sản
thừa kế theo di chúc, theo pháp luật”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 337/2024/DS-ST ngày 30/12/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 44/2025/QĐXXPT-
DS ngày 28 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Lê Mạnh H, sinh năm 1961.
Địa chỉ: thôn A, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
Người đại diện theo y quyền của nguyên đơn: ông Cường V, sinh
năm 1992; địa chỉ: Làng B, xã L, huyện I, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Số B đường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
2.2. Ông Nguyễn T, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Số B đường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Nguyễn T: ông
Phạm Tiến H1 Luật sư của Công ty L, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q; địa chỉ: Tổ
C, thôn A, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Tộc Lê xã T11, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Đức D, sinh năm 1953; địa chỉ:
khối phố M, phường T, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.2. Tộc Lê xã T12, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: ông P, sinh năm 1933; địa chỉ: thôn
T, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.3. Tộc N xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Quang T1, sinh năm 1946; địa
chỉ: thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.4. Bà Nguyễn Thị Thanh T2.
Địa chỉ: Số B đường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn T, sinh năm 1984; địa chỉ: Số
B đường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.5. Bà Nguyễn Thị P1, sinh năm 1933.
Địa chỉ: Khối phố G, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Vắng
mặt.
3.6. Ông Nguyễn C, sinh năm 1953.
Địa chỉ: Khối phố C, thị trấn N, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.7. Bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1949.
Địa chỉ: thôn P, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.8. Bà Nguyễn Thị T4, sinh năm 1984.
Địa chỉ: khối phố T, phường H, thành phố T, Quảng Nam. Vắng mặt.
3.9. Bà Nguyễn Thị Hồng Đ, sinh năm 1961.
Địa chỉ: Thôn C, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
3.10. Ông Nguyễn Chí T5.
Địa chỉ: khối phố M, phường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.11. Ông Nguyễn Quang T6, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Khối phố E, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3.12. Ông Nguyễn Việt H2, sinh năm 1969.
Địa chỉ: thôn V, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.13. Bà Nguyễn Thị Thanh V1, sinh năm 1971.
3
Địa chỉ: Khối phố B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.14. Bà Nguyễn Thị Thanh T7, sinh năm 1975.
Địa chỉ: Số C đường Đ, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.15. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1979.
Địa chỉ: thôn V, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.16. Bà Lê Thị Ánh N, sinh năm 1972.
Địa chỉ: thôn V, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
3.17. Bà Lê Thị Ánh M, sinh năm 1968.
Địa chỉ: 4 đường T, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
3.18. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ3.
Địa chỉ: Số A đường P, Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo y quyền: ông Văn H3, chức vụ: Phó Giám đốc
Ngân hàng TMCP Đ3 - Chi nhánh Q2; địa chỉ: Số D đường P, thành phố T, tỉnh
Quảng Nam. Vắng mặt.
3.19. Ông Nguyễn Kim Q1, sinh năm 1969.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Kim Q1: Nguyễn Thị
X, sinh năm 1974; cùng địa chỉ: Số B đường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
Có mặt.
4. Người kháng cáo: nguyên đơn ông Mạnh H, bị đơn Nguyễn Thị
X và ông Nguyễn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong hồ vụ án tại phiên tòa,
nguyên đơn ông Mạnh H người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
trình bày:
Cha, mẹ ông Lê Mạnh H là ông Lê H4 (chết năm 2010) và bà Nguyễn Thị
T8 (chết năm 2013) sinh được 02 người con là bà Thị T9 (chết năm 2014)
ông Mạnh H. Trước đây, cha, mẹ và hai chị em ông sống tại số nhà B H (số
cũ là 118 H), thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Chị ông bị tàn tật từ nhỏ nên không
lập gia đình riêng. Sau khi ông lập gia đình thì tách hộ ra riêng tại nhà số B H
(số cũ là 120 H) liền kề nhà cha mẹ.
Trước khi qua đời, cha mẹ ông có lập di chúc để lại toàn bộ di sản là ngôi
nhà số B H cho chị ông T9 được sở hữu quản toàn bộ, còn ông do
khó khăn nên phải bán căn nhà số B H để vốn làm ăn. Do điều kiện đó nên
ông chị ông đã đồng ý để cho vợ chồng ông Nguyễn T cùng chị ông cho
vui và có thỏa thuận với ông T và bà X là tạo điều kiện cho ở nhờ, cho buôn bán
không thu tiền nghĩa vụ trả ơn gia đình ông bằng việc lo cho chị ông lúc
ốm đau. X, ông T phụ ông chăm lo cho chị ông để giảm bớt gánh nặng cho
ông. Đến ngày 27/4/2014, bà T9 chết, khi lo ma chay cho chị, vô tình ông H biết
4
có văn bản niêm yết văn bản nhận tài sản thừa kế theo di chúc, phân chia toàn bộ
tài sản của chị ông cho ông Nguyễn T Nguyễn Thị X theo di chúc ngày
26/4/2014.
Qua tìm hiểu ông H được biết di chúc ngày 26/4/2014 được cho là của chị
ông được lập tại Bệnh viên Đa khoa Đà Nẵng không đúng quy định pháp luật về
thừa kế, bởi lẽ tại thời điểm đó chông đã bị rối loạn chức năng não, tâm thần
không biệt định do tổn thương não (đã kết luận Y khoa) nên chị ông đã mất
hoàn toàn năng lực hành vi dân sự, không còn minh mẫn để thể lập di chúc.
Do vậy, việc lập di chúc này của những người liên quan là hoàn toàn trái luật.
Quá trình sinh sống, Thị T9 để lại nhiều di chúc trong đó di chúc
ngày 16/5/2013 do Phòng C1 tỉnh Quảng Nam công chứng di chúc để lại di
sản vàng SJC chị ông gửi tại Ngân hàng TMCP Đ3 theo di chúc lập ngày
01/6/2013 do Văn phòng C2.
Nay, ông Mạnh H khởi kiện yêu cầu tuyên bố Di chúc ngày 26/4/2014
hiệu; yêu cầu chia di sản thừa kế theo Di chúc ngày 16/5/2013 quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 171, tờ bản đồ số 10, tại phường A, thành phố T, tỉnh
Quảng Nam, diện tích 146.50 m², mục đích sử dụng: đất và vườn theo Giấy
chứng nhận quyền s dụng đất số V 779430 do UBND thị xã T (cũ), tỉnh Quảng
Nam cấp ngày 18/7/2003, đăng thay đổi để thừa kế sang tên Thị T9
ngày 10/5/2013 và chia 60 chỉ vàng SJC đang gửi giữ tại Ngân hàng TMCP Đ3 -
Chi nhánh Q2 theo Di chúc ngày 01/6/2013 theo quy định pháp luật; đối với cổ
phần vốn góp tiền chế độ tử tuất của chị ông, ông không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Đối với tài sản trên đất căn nhà của X, thì ông chấp nhận thối trả lại
giá trị theo giá thị tờng đối với căn nhà trên. Căn nhà này nằm trong thửa đất
của ngôi nhà đất số A H trước đây. Ông H không đồng ý với ý kiến của bà X về
việc mẹ ông Nguyễn Thị T8, chị ông Thị T9 bản thân ông
Mạnh H đã đồng ý cho bà X xây dựng một phần nhà kiên cố nhưX trình bày.
Tại các lời khai trong hồ vụ án tại phiên tòa, bị đơn Nguyễn
Thị X trình bày:
chị em cậu với Thị T9, gia đình vợ chồng cô dượng là ông
H4, T8 sống ly thân, dượng về N sinh sống, còn T8 sống tại số B H, cô
hai người con T9, ông H. Năm 2003, dượng đã tách 89,5m
2
cho ông H
sử dụng, phần đất còn lại để thừa kế lại cho T9 đã được đăng quyền sử
dụng đất vào ngày 10/5/2013. Năm 2005, T8 gọi lên để cùng với để
lo cho cô lúc tuổi già và giúp đỡ bà T9 trong công việc, về tình cảm giữa vợ ông
H T8, bà T9 không hòa hợp nên đến cùng chăm lo cho cháu.
T9 bị vẹo cột sống và bị chèn phổi nên thường xuyên nhập viện, phải thường
xuyên chăm sóc bà T9.
Khi T9 nhập viện tại Bệnh viện Đ4, đã chủ động liên hệ với ông H
để lo thủ tục chuyển viện (T ra Đà Nẵng) nhưng ông H không đến, khi nhập
viện tại Đà Nẵng, ông T hai người thay nhau chămc bà T9, bệnh của
5
T9 bị chèn phổi nên tinh thần rất tỉnh táo, minh mẫn. Khi thở máy, T9
đã sử dụng điện thoại để liên hgiao tiếp với mọi người. Chiều ngày 26/4/2014
bạn T9 đến thăm, ng ngày này em ông Nguyễn T về T nên bà T9
gọi điện bảo chỉ chỗ cho ông T về lấy giấy tờ ra làm thủ tục lập di chúc. Đến
chiều hôm đó thấy mấy người đến nói Luật đến lập di chúc cho
T9, không vào trong chỉ đứng ngoài, thấy bà T9 trao đổi với người viết
di chúc, sau khi lập xong bà Tâm Đ1 chỉ và người lập di chúc ra về, bà tiếp tục
lại chăm sóc bà T9, hôm sau bà T9 chết.
Ngày 28/4/2014, khi làm thủ tục xuất viện, bất ngờ khi ông Đ2
người lập di chúc thông báo thông tin về di chúc T9 để lại nhà đất tại
Huỳnh Thúc K cho ông T. Thực hiện di chúc của T9, đã hương hỏa
hỏa táng T9 theo ý nguyện, hiện tại ông T vẫn tiếp tục sinh sống và
làm ăn tại căn nhà này.
Nay, ông H khởi kiện cho rằng T9 lập di chúc khi không minh mẫn
không đúng, lúc đó T9 hoàn toàn minh mẫn, do đó không hề việc giả
mạo việc lập di chúc của bà T9 vào ngày 26/4/2014 nên di chúc này có hiệu lực.
Đối với Di chúc để lại vàng, không ý kiến gì, T9 cho bao nhiêu
nhận bấy nhiêu. Di chúc T9 để lại vào ngày 26/4/2014 hợp pháp, theo
đó để lại cho ½ quyền sử dụng đất, phù hợp với nội dung di chúc ngày
14/5/2013 nên bà đề nghị Tòa án xem xét và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông H.
Đối với tài sản trên đất căn nhà đang ở, căn nhà này bà xây dựng
năm 2005, đến đây sinh sống khi T8 mẹ ông H còn sống; sau đó gia
đình cô T8 cho bà một phần diện tích đất này để bà xây nhà và sinh sống đến
giờ. Khi cho chỉ cho miệng nhưng thời điểm đó vợ chồng ông H còn sinh sống
tại đây và biết việc này nên bà không chấp nhận yêu cầu của ông H. Ngoài ra, bà
không có yêu cầu nào khác.
Tại các lời khai có trong hồ vụ án và tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn
T trình bày:
Ông cháu của X, T9. Ông mới lên sống với T9 X vào
năm 2013. Khi T9 đau ốm, ông cùng X chăm sóc giúp đỡ T9 tại gia
đình cũng như tại bệnh viện. Về việc cô T9 lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình do T9 tự thực hiện. Khi T9 điều trị tại Bệnh viện Đ4 chỉ X
ông thay phiên nhau chăm sóc. T9 bị chèn ép phổi nên mỗi khi đờm
lên phải nhờ sự hỗ trợ của máy thở. Bệnh T9 là bị chèn ép phổi nên tinh thần
rất tỉnh táo, minh mẫn. Khi đang thở máy, T9 sử dụng máy điện thoại giống
như tấm bản viết để giao tiếp với mọi người, nếu xa thì sử dụng tin nhắn từ
máy của cô T9 gửi nội dung đến máy cần liên hệ.
Sáng ngày 26/4/2014, ông về T thì cô X gọi điện nói với ông là cô T9 bảo
lấy giấy tờ đất mang ra đT9 lập di chúc. Ông về nhà lấy giấy tờ mang ra
cho T9. Đến chiều ngày 26/4/2014 lúc đó khoảng 18 giờ 30 phút ông thấy
mấy người nói là Luật sư ở Đà Nẵng đến lập di chúc cho cô T9. Khi lập di chúc,
6
ông không vào nên không biết được nội dung bản di chúc. Ông đứng ngoài
nhìn vào thấyT9 trao đổi với người viết di chúc, sau khi lập xong cô điểm chỉ
tay vào di chúc. Lúc lập di chúc, ông thấy y trực cũng mặt tại đó. Sau
khi lập xong di chúc, những người lập di chúc ra về. Tối hôm đó ông về lại Tam
K1 còn X vẫn tiếp tục lại chăm sóc T9 đến chiều hôm sau T9 chết.
Sáng Thứ 2 ngày 28/4/2014, ông X ra Bệnh viện Đ4 để thanh toán viện
phí, sau đó ông nghe X nói T9 lập di chúc để tài sản lại cho ông X.
Theo di chúc, T9 đề nghị được hỏa táng nên đã thực hiện theo nguyện vọng
của T9. Hiện nay, ông X vẫn tiếp tục sống trong ngôi nhà của T9
lo thờ cúng hương khói cho T9 theo đúng nguyện vọng của T9 trong bản
di chúc.
Nay, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố bản di chúc ngày
26/4/2014 hiệu thì ông không thống nhất. Khi lập di chúc, T9 hoàn toàn
minh mẫn, mời Luật đến lập làm chứng. Còn đối với di chúc về
vàng, được cho bao nhiêu thì vợ chồng ông nhận bấy nhiêu, không có tranh chấp
gì. Ngoài ra, ông không có yêu cầu nào khác.
Tại lời khai có trong hồ sơ vụ án, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trình bày:
- Tộc Lê xã T do ông Lê Đức D đại diện trình bày: di chúc ngày
01/6/2013 theo ý chí nguyện vọng của T9 để lại cho T10 tại T 05 chỉ
vàng thì ông đại diện cho T10 xin nhận để lo thờ cúng trong dòng tộc.
- Nguyễn Thị T4 trình bày: trước đây, Thị T9 tới Ngân hàng
Đ3 gửi tiết kiệm vàng. T9 gặp tại Ngân hàng nhờ đứng tên hộ
do khuyết tật đi lại khó khăn. Ngày 17/5/2013, T9 nhờ đứng tên Sổ tiết
kiệm vàng với số vàng 80 chỉ SJC. Đến ngày 31/5/2013, rút ra cho T9 80
chỉ vàng SJC, T9 lấy 20 chỉ vàng SJC về mua máy thở (Oxi) chữa bệnh.
Ngày 31/5/2013, gửi lại số vàng 60 chỉ SJC. Sau đó, T9 nguyện vọng
viết di chúc nên nhờ bà rút ra hết số vàng 60 chỉ SJC giao lại toàn bộ số vàng 60
chỉ SJC cho chị T9 vào ngày 01/6/2013. Sau đó, không còn liên quan tới số
vàng đó nữa.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 337/2024/DS-
ST ngày 30 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam đã căn cứ khoản 2, khoản 11 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 157, 165, 227, 228, 266, 271 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 117, 119, 122, 131 của Bộ luật Dân sự năm
2015; các Điều 40, 41, 44, 47, 52 Luật Công chứng; các Điều 611, 612, 613,
616, 618, 623, 624, 625, 627, 628, 630, 632, 634, 635, 640, 643, 645, 646, 649,
650, 651, 658, 659, 649, 650, 651 và Điều 660 Bộ luật Dân sựĐiều 179 Luật Đất
đaiĐiều 33, Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội. Tuyên xử:
7
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mạnh H đối với Nguyễn Thị
X, ông Nguyễn T về tranh chấp yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu, yêu cầu phân
chia di sản thừa kế theo Di chúc.
Tuyên bố Di chúc ngày 26 tháng 4 năm 2014hiệu. Chia di sản thừa kế
của Thị T9 theo Di chúc ngày 16 tháng 5 năm 2013 được Công chứng tại
Phòng C1 tỉnh Quảng Nam, số công chứng 924, quyển số 10TP/CC-
SCC/HĐGD, theo đó:
Chia cho ông Mạnh H được quyền sử dụng đất tại thửa đất số 171, t
bản đồ số 10, diện tích 146,5m
2
(trong đó 110,5m
2
đất 36m
2
đất vườn)
tại phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số V 779430 do Ủy ban nhân dân thị T (nay thành phố T) cấp
ngày 18 tháng 7 năm 2003, đã được điều chỉnh để thừa kế cho bà Lê Thị T9 vào
ngày 10-5-2013. Theo Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 20-2023 ngày
20-3-2023 của Chi nhánh Văn phòng Đ5 nay thửa đất số 6, tờ bản đồ số 12,
diện tích 152,5m
2
và ông Lê Mạnh H được quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
gồm:
+ Tài sản do ông Nguyễn T quản , sử dụng: nhà chính, nhà bếp, nhà
kho, nhà vệ sinh, mái che, mái hiên phía trước, mái bạt chung 2 nhà.
+ Tài sản do Nguyễn Thị X quản lý, sử dụng: nhà chính, gác lửng gỗ,
cầu thang sắt, mái hiên trước nhà.
Nguyễn Thị X, ông Nguyễn T, Nguyễn Thị Thanh T2 nghĩa vụ
bàn giao quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với thửa đất nêu trên cho ông
Mạnh H theo quy định pháp luật.
Buộc ông Mạnh H phải thối trả gtrị tài sản gắn liền với đất cho
Nguyễn Thị X số tiền 80.620.800 đồng.
Buộc ông Mạnh H phải thối trả cho ông Nguyễn T Nguyễn Thị
Thanh T2 giá trị tài sản gắn liền với đất phần sửa chữa số tiền 17.182.800
đồng.
Buộc ông Mạnh H phải thối trả giá trị công sức tôn tạo, bảo quản di
sản cho bà Nguyễn Thị X, ông Nguyễn T mỗi người là 660.341.000 đồng.
Chia di sản thừa kế của Thị T9 theo Di chúc ngày 01 tháng 6 năm
2013 được Văn phòng C2 số 1084, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD, theo đó:
- Chia cho nhà thờ T13 thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam 05
(năm) chỉ vàng SJC.
- Chia cho nhà thờ họ Nguyễn tại Thôn H, T, huyện N, tỉnh Quảng
Nam 05 (năm) chỉ vàng SJC.
- Chia cho ông Lê Mạnh H 25 (hai mươi lăm) chỉ vàng SJC.
- Chia cho bà Nguyễn Thị X 10 (mười) chỉ vàng SJC.
- Giao cho ông Lê Mạnh H 03 (ba) chỉ vàng SJC để ông H liên hệ cho quỹ
trẻ em khuyết tật thành phố T tỉnh Quảng Nam.
8
- Chia cho ông Nguyễn T Nguyễn Thị Thanh T2 02 (hai) chỉ vàng
SJC.
- Chia số vàng còn lại 10 (mười) chỉ vàng SJC cho ông Lê Mạnh H.
Ông Mạnh H phải thanh toán phí giữ hộ vàng cho Ngân hàng TMCP
Đ3 - Chi nhánh Q2 số tiền tính đến ngày 30-12-2024 8.988.306 đồng tiền
phí phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng giữ hộ vàng 452/GHQNa-2013 ngày
01-6-2013.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ thi hành án
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/01/2025, bị đơn bà Nguyễn Thị X và ông
Nguyễn T đơn kháng cáo toàn bộ bản án thẩm; ngày 13/01/2025, nguyên
đơn ông Lê Mạnh H có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Nam phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công trực tiếp giải quyết vụ án đã thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết
vụ án, về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia xét
xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình t,
thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều
308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của các đương sự,
hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại
vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện,
người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Mạnh H, bị đơn bà Nguyễn Thị
X và ông Nguyễn T thì thấy: sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn bà Nguyễn Thị X
cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới là 01 bản “Di chúc” của Thị T9
được Văn phòng C2 ngày 31/5/2013 liên quan đến các tài sản đang tranh
chấp yêu cầu chia thừa kế. Xét thấy, đây là tình tiết mới phát sinh sau khi xét xử
thẩm, chưa được Tòa án cấp thẩm xem xét, đánh giá trong quá trình giải
quyết vụ án nên Tòa án cấp phúc thẩm không thể xem xét, đánh giá chứng cứ.
Do đó, để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự, Hội đồng xét
xử phúc thẩmcăn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn,
9
hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại
vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Trong qtrình giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp
thẩm cần bổ sung các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng các di chúc
của bà Lê Thị T9 vào tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
[3] Do Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án thẩm chuyển hồ sơ
vụ án cho Tòa án cấp thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục thẩm nên
không đề cập giải quyết đối với kháng cáo của nguyên đơn ông Mạnh H, bị
đơn bà Nguyễn Thị X và ông Nguyễn T về phần nội dung vụ án.
[4] Về án phí dân s phúc thẩm: nguyên đơn ông Mạnh H, bđơn
Nguyễn Thị X và ông Nguyễn T không phải chịu; hoàn trả lại cho X, ông T
số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp, riêng ông H đã được Tòa án cấp
thẩm cho miễn nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên không phải hoàn trả lại.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308 Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Mạnh H, bị đơn
Nguyễn Thị X ông Nguyễn T, hủy Bản án dân sự thẩm số:
337/2024/DS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam chuyển hồ vụ án cho Tòa án nhân dân thành
phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Án phí dân sự phúc thẩm: nguyên đơn ông Mạnh H, bị đơn bà Nguyễn
Thị Xông Nguyễn T không phải chịu; hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị X, ông
Nguyễn T số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mỗi người đã nộp 300.000 (Ba
trăm nghìn) đồng theo các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001777
số 0001778 ngày 07/02/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam (số tiền tạm ứng án phí của Nguyễn Thị X do ông
Nguyễn T nộp thay).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (20/5/2025).
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND thành phố Tam Kỳ;
- Chi cục THADS thành phố Tam Kỳ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Quốc Bảo
Tải về
Bản án số 63/2025/DS-PT Bản án số 63/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 63/2025/DS-PT Bản án số 63/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất