Bản án số 61/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 61/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 61/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 61/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Dững yêu cầu bà Đìa trả lại đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lâm Triệu Hữu
Các Thẩm phán: Đặng Thị Ánh Bình
Ông Nguyễn Văn Trường
- Thư phiên tòa: Huỳnh Thanh Thảo Thẩm tra viên chính Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Long
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa:
Lữ Thị Tuyết Lan - Kiểm sát viên
Trong các ngày 19 25 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long xét xử phúc thẩm ng khai
vụ án thụ số 05/2025/TLPT-DS ngày 09
tháng 01 năm 2025 về việc Tranh chấp hợp đồng cầm cố, chuyển nhượng, tặng cho
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 117/2024/DS-ST ngày 12 tháng 11 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 23/2025/QĐ PT ngày 03
tháng 02 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2025/QĐ-PT ngày
26/02/2025 giữa các đương sự:
1 . Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1969. Địa chỉ: ấp L, xã H, huyện
P, tỉnh Hậu Giang: vắng mặt
Người đại diện hợp pháp: Ông Võ Ngọc K, sinh năm 1977. Địa chỉ: số E, đường
N, phường B, quận B, thành phố Cần Thơ, người đại diện theo ủy quyền (văn bản
ủy quyền ngày 05/12/2024): có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
——————————
Bản án số: 61/2025/DS-PT
Ngày: 25 - 3 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng cầm cố,
chuyển nhượng, tặng cho quyền
sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
——————————————————
2
2. Bị đơn:
2.1. Bà Thị Đ, sinh năm 1956. Địa chỉ: ấp T (T cũ), xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh
Long: vắng mặt
Người đại diện hợp pháp: Ông Văn H, sinh năm 1975. Địa chỉ: số C, đường
A, KV2, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, người đại diện theo ủy quyền
(văn bản ủy quyền ngày 06/12/2024): có mặt
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Hoàng Đ1 Trợ giúp
viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh V: có mặt
2.2. Ông Văn H1, sinh năm 1971. Địa chỉ: ấp T (M cũ) T, huyện T, tỉnh
Vĩnh Long: có mặt
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Minh T Luật sư của Văn
phòng L1 - thuộc Đoàn luật sư tỉnh V: có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1953. Địa chỉ: ấp T, T, huyện T, tỉnh
Vĩnh Long: có đơn xin vắng mặt
3.2. Nguyễn Thị L, sinh năm 1972. Địa chỉ: ấp T, T, huyện T, tỉnh Vĩnh
Long: vắng mặt
Người đại diện hợp pháp: Ông Văn H, sinh năm 1975. Địa chỉ: số C, đường
A, KV2, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, người đại diện theo ủy quyền
(văn bản ủy quyền ngày 06/12/2024): có mặt
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Minh T Luật của
Văn phòng L1 - thuộc Đoàn luật sư tỉnh V: có mặt
3.3. Nguyễn Thị M, sinh năm 1968. Địa chỉ: ấp L, H, huyện P, tỉnh Hậu
Giang: có đơn xin vắng mặt
3.4. Ông Trịnh Lâm Q, sinh năm 1950. Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh
Long: có đơn xin vắng mặt
4. Người kháng cáo:Lê Thị Đông Lê Văn H1 là bị đơn.
5. Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh
Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 14/11/2022 các lời khai tiếp theo trong quá trình
tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn D trình bày: Vào năm 1994, giữa
nguyên đơn với bị đơn là bà Lê Thị Đ có thỏa thuận giao kết hợp đồng cầm cố quyền
sử dụng đất với nhau, ông D cầm cố cho Đ phần đất thửa 48, tờ bản đồ số 3, diện
3
tích 1.822,9 m
2
(thửa 241, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.840 m
2
), loại đất trồng lúa,
tọa lạc ấp T (ấp M cũ), xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long với giá 26,5 chỉ vàng 24K (Hai
mươi sáu chỉ năm phân vàng 24K). Thời hạn cầm cố 03 năm, có làm giấy tay (nay bị
thất lạc), đến hạn 03 năm không có chuộc thì phía bà Đ được tiếp tục sử dụng đất đến
khi ông D có điều kiện chuộc đất lại.
Sau khi cầm cố, bà Đ giả mạo chữ ký của ông D làm thủ tục chuyển nhượng , bà
Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2000 thửa đất 241. Đến năm
2018 bà Đ làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn H1, ông H1 được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 31/8/2018 thửa 148, tờ bản đồ số 3,
diện tích 1.822,9 m
2
. Nay ông D gặp bà Đ xin chuộc đất lại thì mới biết phía bà Đ giả
mạo chữ ký làm thủ tục chuyển nhượng giữa ông D với bà Đ, bà Đ không cho ông D
chuộc đất.
Sự việc tranh chấp đã được Ủy ban nhân dân xã T hòa giải nhưng không thành.
Ông D yêu cầu Tòa án giải quyết:
Buộc phía bị đơn Thị Đ, Văn H1 nghĩa vụ trả lại ông D thửa đất 148,
tờ bản đồ số 3, diện tích 1.822,9 m
2
, loại đất lúa, tọa lạc ấp T, T, huyện T, tỉnh
Vĩnh Long. Ông D trả lại bà Đ 26,5 chỉ vàng 24k.
Trong bản tự khai ngày 03/01/2023 các lời khai tiếp theo trong quá trình tố
tụng tại Tòa án, bị đơn Thị Đ trình bày: Vào năm 1997 ông Nguyễn Văn D
chuyển nhượng cho Đ 1,5 công đất ruộng (tằm 2,8m), tọa lạc ấp T (Mương Điều
cũ), T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long với giá 26,5 chỉ vàng 24k, ông D đã giao đất cho
Đ sử dụng, Đ khai đăng được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ngày 12/10/2000, thửa 241, diện tích 1.840 m
2
. Đến năm
2008 lập thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất thửa 241 cho Văn H1 sdụng.
Ông H1 khai đăng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 148,
tờ bản đồ số 3, diện tích 1.822,9 m2, loại đất lúa do Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh V cấp ngày 31/8/2018.
Nay ông D khởi kiện yêu cầu trả lại thửa đất 148 thì bà không đồng ý, do đất
này ông D chuyển nhượng cho bà, tặng cho lại ông H1, hiện ông H1 cải tạo trồng
cây lâu năm trên đất.
Trong bản tự khai ngày 03/01/2023 các lời khai tiếp theo trong qtrình tố
tụng tại Tòa án, bị đơn Văn H1 trình bày: Vào năm 2008 Thị Đ (chị ruột
ông H1) tặng cho ông H1 quyền sử dụng đất thửa 148, tbản đồ số 3, diện tích
1.822,9 m
2
, loại đất lúa do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh V cấp ngày 31/8/2018.
Sau khi được tặng cho ông đã cải tạo đất, lên líp trồng cây từ 2008 cho đến nay. Nay
4
ông D khởi kiện yêu cầu Đ ông H1 trả lại thửa đất 148 thì ông H1 không đồng
ý theo yêu cầu ông D.
Trong bản tự khai ngày 25/12/2022, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Văn P trình bày: Ông Thị Đ là vchồng từ ngày 18/4/2003,
ông xác định thửa đất 241 tài sản riêng của Đ chuyển nhượng của ông D vào
năm 1997, đến năm 2008 bà Đ tặng cho Lê Văn H1. Nay ông không có tranh chấp
không yêu cầu độc lập thửa đất này.
Trong bản tự khai ngày 03/01/2023 các lời khai tiếp theo trong quá trình tố
tụng tại Tòa án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị L trình bày: Vào
năm 2008 chị chồng Thị Đ (chị ruột ông H1) tặng cho ông H1 quyền s
dụng đất thửa 148, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.822,9 m
2
, loại đất lúa do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh V cấp ngày 31/8/2018. Sau khi được tặng cho bà và ông H1 đã cải
tạo đất, lên líp trồng cây từ 2008 cho đến nay. Nay ông D khởi kiện yêu cầu Đ trả
lại thửa đất 148 thì bà và ông H1 không đồng ý theo yêu cầu ông D.
Trong biên bản hòa giải ngày 04/01/2023 các lời trình bày tiếp theo, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị M trình bày: M không yêu cầu
độc lập đứng về phía ông D.
Trong bản tự khai ngày 30/7/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông
Trịnh Lâm Q trình bày: Ông Trịnh Lâm Q cụ bà Hứa Thị Đ2 (chết năm 2019)
chung sống như vợ chồng từ năm 1972. Vào năm 1990 ông Đ2 cho Nguyễn
Văn D 1,5 công đất ruộng tằm 2,8m, m 1994 Dững cầm cố quyền sử dụng đất
cho Đ gbao nhiêu thì cụ không biết. Nay cụ không yêu cầu độc lập, đứng về
phía ông D.
Tại bản án dân sự thẩm số 117/2024/DS-ST ngày 12/11/2024, Tòa án nhân
dân huyện T đã quyết định:
Căn cứ Điều 73 Luật Đất đai năm 1993; các Điều 49, 105, 106, 167 của Luật
Đất đai năm 2003; các Điều 136, 137, 146, 264, 690, 691, 692 Bộ luật dân sự 1995;
Điều 147 của Bộ luật tố tụng n sự, Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn D.
Vô hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn D, bà Lê Thị
Đ vào năm 1994; hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Văn D với Thị Đ vào năm 1996, 1997 hiệu hợp đồng tặng cho
5
quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị Đ với ông Lê Văn H1 vào ngày 15/8/2013 đối với
thửa đất 148, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.755 m
2
, loại đất lúa, tọa lạc ấp T, xã T, huyện
T, tỉnh Vĩnh Long.
Buộc Thị Đ, Nguyễn Văn P, Văn H1, Nguyễn Thị L nghĩa vụ giao
trả thửa đất 148, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.755 m
2
và toàn bộ cây trồng trên đất cho
ông Nguyễn Văn D sở hữu, sử dụng (có trích đo bản đồ của Văn phòng đăng đất
đai tỉnh V kèm theo).
Ông Nguyễn Văn D có quyền, nghĩa vụ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê
khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất theo luật định.
Buộc ông Nguyễn Văn D nghĩa vụ trả cho Lê Thị Đ, ông Nguyễn Văn P 26,5
chỉ vàng 24k (Hai mươi sáu chỉ năm phân vàng 24k).
Buộc ông Nguyễn Văn D nghĩa vụ trả cho ông Văn H1, Nguyễn Thị L trị
giá cây trồng 55 cây dừa bằng 67.130.000 đồng (Sáu mươi bảy triệu một trăm ba
mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày ông H1, bà L có đơn yêu cầu thi hành án, ông D chưa trả số tiền nêu
trên thì phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự
2015.
2/ Về chi phí khảo sát, đo đạc, giám định: 4.637.000 đồng, buộc ông D chịu
2.318.500 đồng, Đ chịu 2.318.500 đồng. Số tiền này ông D nộp tạm ứng cấn trừ
đủ, buộc bà Đ hoàn trả cho ông D 2.318.500 đồng (Hai triệu ba trăm mười tám nghìn
năm trăm đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí dân sự; quyền, nghĩa vụ
thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 15 tháng 11 năm 2024, bị đơn Thị Đ Văn H1 kháng cáo bản án
sơ thẩm với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn D
Ngày 27 tháng 11 năm 2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T ban
hành quyết định kháng nghị số 469/QĐ-VKS-DS kháng nghị bản án dân sthẩm
số 117/2024/DS-ST ngày 12 tháng 11 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T theo
hướng sửa một phần bản án sơ thẩm do có vi phạm về tố tụng trong việc xác định ông
Trịnh Lâm Q người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; áp dụng thiếu điều luật về chi
phí tố tụng; việc đánh gchứng cứ chưa phù hợp với tình tiết khách quan của vụ
án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng; tuyên án chưa chính
xác, có vi phạm về chi phí tố tụng. Do vậy, đề nghị sửa bản án sơ thẩm. Về nội dung,
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D.
6
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của Thị Đ trình bày:
Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Bị đơn, ông Văn H1 trình bày: Vẫn giữ yêu cầu kháng cáo. Trường hợp yêu
cầu khởi kiện của ông D được chấp nhận thì yêu cầu ông D phải trả lại giá trị cây
trồng theo định giá bằng 67.130.00 đồng bồi thường 50% giá trị đất bằng
1.035.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng nghị.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: ông D vẫn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị. Giữ nguyên bản án
dân sự sơ thẩm.
Trong phần tranh tụng, các đương sự thống nhất:
- Quan hệ pháp luật tranh chấp; kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định
giá của cấp sơ thẩm.
- Phần đất tranh chấp thuộc thửa 148, diện tích đo đạc thực tế 1.755m
2
nguồn
gốc đất theo liệu 299/TTg do ông Trịnh Lâm Q khai trong sổ mục tặng
cho ông Nguyễn Văn D vào năm 1990, ông D chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
- Ông D đã nhận của Đ 26,5 chỉ vàng 24K đã giao đất cho Đ canh tác
từ năm 1994 và bà Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2000.
Đến năm 2008, bà Đ giao lại cho ông H1 quản lý sử dụng đất theo hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất ông H1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quản
sử dụng đất đến nay. Hiện trạng, ông H1 đã lên líp trồng dừa từ 03 năm đến 25
năm.
- Diện tích một công đất bằng khoảng 1200m
2
.
- Ông D chuyển về huyện P, tỉnh Hậu Giang từ năm 1994 nhưng cũng thường về
địa phương nơi có đất tranh chấp.
- Giá đất theo gthị trường 1.200.000 đồng/m
2
. Tại thời điểm 1994, từ 1994
đến 1997 giá 0,9 – 1,9 cây vàng/công
Về vấn đề không thống nhất:
Về tố tụng, đại diện hợp pháp của nguyên đơn đề nghị đưa thêm các con của ông
Trịnh Lâm Q bà Hứa Thị Đ2 tham gia tố tụng làm người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Về nội dung, yêu cầu các bị đơn người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
trả lại đất và nguyên đơn trả lại cho Đ 26,5 chỉ vàng 24K với do chỉ cầm cố đất
từ năm 1994, nay yêu cầu được chuộc lại đất. Yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất giữa bà Đ với ông H1. Tuy nhiên, các bđơn người
7
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý cho rằng không cần đưa người tham
gia tố tụng theo yêu cầu của phía nguyên đơn ông Q đã ý kiến trình bày đã cho
đất ông D đã chuyển nhượng đất cho bà Đ với giá 26,5 chỉ vàng 24K theo tờ sang
đất ngày 27 tháng 9 năm 1997 hai người làm chứng, trưởng ấp chứng thực Ủy
ban nhân dân xác nhận. Ông H1 đề nghị trong trường hợp giao đất cho ông D thì
ông D nghĩa vụ trả giá trị cây trồng theo định giá bằng 67.130.000 đồng 50%
giá trị đất theo giá thị trường 1.200.000đ/ m
2
1.053.000.000đ nhưng phía nguyên
đơn không đồng ý.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu quan điểm:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng là đảm bảo theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tốtụng
dân sự điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà
Thị Đông Văn H1, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân huyện T. Sửa bản án thẩm. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn Văn D. Về chi phí tố tụng khác, ông D phải chịu toàn bộ.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn phát biểu quan điểm về án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa, kết quả tranh tụng, ý kiến phát biểu của vị Kiểm sát viên, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về tính hợp lcủa kháng cáo việc đương sự vắng mặt tại phiên tòa
phúc thẩm.
Đơn kháng cáo của các bị đơn kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện T là hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Đương sự vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện
theo ủy quyền tham gia tố tụng nên Tòa án xét xử vắng mặt đương sự.
[1.2] Về việc người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu đưa các con của
ông Trịnh Lâm Q Hứa Thị Đ2 tham gia tố tụng làm người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
8
Xét thấy, theo liệu địa chính, ông Trịnh Lâm Q chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã văn bản xác định đã cho đất cho ông D, ông Q
không có yêu cầu gì trong vụ án nên không cần thiết phải đưa các con của ông Q với
Đ2 vào tham gia tố tụng theo yêu cầu của đại diện hợp pháp của nguyên đơn.
[2] Về nội dung
[2.1] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T về thủ
tục tố tụng, việc giải thích quyền trợ giúp pháp cho ông Q M, việc áp dụng
thiếu điều luật về chi phí tố tụng về nội dung, đnghị không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử xét thấy, ông Trịnh m Q bản tự khai ngày 30/7/2024 về
mối quan hvới ông D nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, việc tặng cho đất cho
ông D để làm sở cho Tòa án giải quyết đơn của ông D. Ông Q không yêu cầu
độc lập trong vụ án đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyễn Thị M vợ của ông D
cũng không có yêu cầu độc lập trong vụ án và yêu cầu được xét xử vắng mặt. Do vậy,
các thiếu sót của Tòa án cấp thẩm như Viện kiểm sát kháng nghị không phải vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Về nội dung, quá trình giải quyết vụ án, ông D trình bày đã nhận của bà Đ 26,5
chỉ vàng 24K và đã giao đất cho bà Đ sử dụng từ năm 1994 khi ông D chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các lần khai đăng cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sau đó, ông D đều không thực hiện nghĩa vụ khai đăng ký theo
quy định của pháp luật đất đai cũng không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
phần đất tranh chấp. Kể cả khi Đ khai đăng được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất rồi chuyển quyền sdụng đất cho ông H1 ông H1 được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cải tạo đất trồng cây lâu năm, ông D thừa nhận
về lại địa phương, biết được sự việc nêu trên nhưng không phản đối. Về giá trị đất
theo trình bày của ông D, ông H1 người làm chứng ông Nguyễn Văn B thì giá
đất chuyển nhượng so với số vàng do Đ đã giao cho ông D phù hợp giá chuyển
nhượng đất tại địa phương cùng thời điểm ông D giao đất, nhận vàng. Về hình thức
giao dịch chuyển quyền sử dụng đất, ông D và Đ đã lập văn bản giấy tay hai
người làm chứng T1 ấp chứng nhận đại diện Ủy ban nhân dân xác nhận.
Trong giai đoạn thẩm, ông D đã rút yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký. Tòa án
cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát khi kháng nghị đã lấy lời khai người làm chứng đều thể
hiện sự kiện pháp ông D, Đ lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất phù hợp văn bản ngày 27/9/1997 cũng như quá trình sử dụng đất thực tế của bà Đ,
sau này ông H1. Đồng thời, tuy ông D không thừa nhận việc chuyển nhượng
9
cho rằng chỉ cầm cố đất nhưng ngoài lời trình bày không được bà Đ thừa nhận, ông D
không chứng cứ chứng minh việc cầm cố quyền sử dụng đất. Do vậy, mặc dù hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D, Đ chưa được công chứng,
chứng thực của quan thẩm quyền nhưng đã hình thành trên thực tế, Đ cũng
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông D không phản đối. Việc ông H1
nhận chuyển quyền sử dụng đất từ bà Đ hợp pháp, ngay tình. Do vậy, kháng nghị
yêu cầu công nhận các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên phù
hợp án lệ số 55/2022/AL và hướng dẫn tại điểm b.2, tiểu mục 2.3 mục 2 phần II Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ để được chấp nhận.
Với những sở như nhận định trên, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân huyện T về nội dung giải quyết vụ án, không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Tuy nhiên, kháng nghị có liên quan nội dung tuyên
án buộc các bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giao trả đất và buộc ông
H1 phải chịu chi phí tố tụng khác là không phù hợp với nội dung giải quyết vụ án.
[2.3] Xét kháng cáo của các bị đơn bà Đ, ông H1 về việc không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông D là có cơ sở như nhận định [2.2] nên được chấp nhận.
[3] Về chi phí tố tụng khác bao gồm chi phí khảo sát đo đạc, giám định tổng
cộng 4.637.000 đồng, do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên ông D phải
chịu toàn bộ theo quy định tại Điều 157, Điều 165 của Bộ luật ttụng dân sự. Khấu
trừ tiền tạm ứng, ông D đã nộp xong.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn D phải chịu án phí dân sự
thẩm nhưng được miễn toàn bộ do con liệt thuộc trường hợp gia đình công
với nước theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vQuốc hội vmức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Lê Thị Đ, ông Lê Văn H1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[4.2] Án phí dân s phúc thẩm. Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên
người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Bà Đ là người cao tuổi đã
được miễn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm. Ông H1 được hoàn trả lại tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
10
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T. Chấp nhận kháng cáo của các bị đơn,
Thị Đ, ông Văn H1. Sửa bản án dân sự thẩm số 117/2024/DS-ST ngày
12/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện T.
Áp dụng Điều 73 Luật đất đai năm 1993; các điều 49, 105, 106 Luật đất đai năm
2003; Điều 130, Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 1995; các điều 147,148, 157, 165
của Bộ luật tố tụng dân sự. Án lệ số 55/2022/AL; điểm b.2, tiểu mục 2.3 mục 2 phần
II Nghị quyết số 02/2004 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn D về việc
yêu cầu hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn D,
Thị Đ vào năm 1994; hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Văn D với Thị Đ vào năm 1996, 1997; hiệu hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa bà Thị Đ với ông Văn H1 vào ngày 15/8/2013 yêu
cầu buộc các bị đơn Lê Thị Đ, Nguyễn Văn H2 trả lại quyền sử dụng đất đối với thửa
đất s148, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.755 m
2
, loại đất lúa, tọa lạc ấp T, T, huyện
T, tỉnh Vĩnh Long (có trích đo bản đồ của Văn phòng đăng đất đai tỉnh V kèm
theo).
2. Về chi phí tố tụng khác bao gồm chi phí khảo sát, đo đạc, giám định tổng
cộng 4.637.000 đồng, ông Nguyễn Văn D phải chịu toàn bộ, trừ vào tiền tạm ứng,
ông D đã nộp xong.
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự thẩm: Miễn án pdân sthẩm cho ông Nguyễn Văn
D do con liệt thuộc trường hợp gia đình công với nước. Hoàn trả lại cho
Nguyễn Văn D 2.734.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm theo biên lai thu
số 0014994 ngày 15/11/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.
Lê Thị Đ, ông Lê Văn H1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
11
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm. Bà Thị Đ, ông Văn H1 không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm. Đ người cao tuổi đã được miễn nộp tiền tạm ứng án phí
dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho ông Văn H1 số tiền 300.000 đồng tạm ứng án
phí dân sự phúc thẩm theo Biên lai số 0011731 ngày 18/11/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện T.
4. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không b
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi nh án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP. HCM;
- Chánh án;
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- TAND huyện T;
- Chi cục THADS huyện T;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lâm Triệu Hữu
Tải về
Bản án số 61/2025/DS-PT Bản án số 61/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 61/2025/DS-PT Bản án số 61/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất