Bản án số 61/2023/DS-ST ngày 29/09/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 61/2023/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 61/2023/DS-ST ngày 29/09/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bảo Lâm (TAND tỉnh Lâm Đồng)
Số hiệu: 61/2023/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/09/2023
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẢO LÂM
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 61/2023/DS-ST
Ngày : 29.9.2023
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Chủ tọa phiên tòa:Nguyễn Thị Bích Thủy
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Trần Thị Quế
2. Bà Lê Thị Sáu
Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Vương- Thư Tòa án, Tòa án nhân
dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm tham gia phiên tòa:
Lâm Thị Hồng- Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh
Lâm Đồng xét xử thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ số
128/2022/TLST-DS ngày 05 tháng 10 năm 2022về Tranh chấp hợp chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2023/QĐXXST-DS
ngày 05 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lục Văn B, sinh năm 1975. HKTT: Ea S, thị B,
tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ liên lạc: Thôn 12, xã Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Người
đại diện theo ủy quyền: Ông Thanh D, sinh năm 1967. Địa chỉ: 11A Lam n,
phường Lộc S, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị đơn: Ông Phùng Văn V1, sinh năm 1972, Đinh Thị L1, sinh năm
1978. Địa chỉ: Thôn 12, xã Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Thị D, sinh năm 1975. HKTT:
Ea S, thị B, tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: Thôn 12, Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm
Đồng. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Thanh D, sinh năm 1967. Địa chỉ: 11A
Lam Sơn, phường Lộc S, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
ng Dương, ông V1, bà L1 đều có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/8/2022 c lời khai tại Tòa án, nguyên đơn
trình bày:
2
Vợ chồng ông B, D không quan hệ anh em, họ hàng với vợ chồng ông
V1, bà L1, em ruột của ông B (bà Lục Thị B1) có quen biết vợ chồng ông V1, bà L1
do ở cùng thôn. Vợ chồng ông B, bà D có nhu cầu mua đất làm nhà, được bà Lê Thị
Kim T hàng xóm của ông V1, L1 giới thiệu cho ông B mua đất của vợ chồng
ông V1, L1. Khi mua đất thì vợ chồng ông B coi đất, hiện trạng đất như kết
quả đo đạc là đúng, đất có các mặt giáp như sau: 01 mặt giáp đường đi, 01 mặt giáp
đất Đinh Thị H2, 01 mặt giáp đất ông Tống Quốc H2, còn 01 mặt phía sau giáp
đất Đinh Thị H2 ông Tống Quốc H2. Tuy nhiên lúc đó không đo đạc thực tế
diện tích cụ thể vì các bên giáp ranh đã có ranh giới rõ ràng, chdùng thước dây đo
mặt tiền để giao đất cho nhau. Khi xem đất thì vợ chồng biết đất chưa sổ đỏ nhưng
vợ chồng ông V1, L1 cam kết đất không tranh chấp, không nói đất không
làm được sổ đỏ. Vợ chồng đồng ý mua với giá 80.000.000 đồng/mét ngang mặt tiền
x 08 mét = 640.000.000 đồng, bớt 10.000.000 đồng, còn lại 630.000.000 đồng. Ngày
11/3/2022 hai bên hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng đất, theo đó vợ chồng ông B
đặt cọc cho vợ chồng ông V1 số tiền 100.000.000 đồng, số tiền còn lại hẹn đến ngày
11/4/2022, hai bên ra văn phòng công chứng hợp đồng chuyển nhượng đất thì
giao hết. Đến ngày 29/3/2022 hai bên viết giấy sang nhượng đất nền, nội dung vợ
chồng ông V1 sang nhượng lại cho vợ chồng ông B diện tích đất kích thước 08 mét
x 24 mét (có dùng thước dây tự đo) tại thôn 9, Lộc N, giá 630.000.00 đồng, đã đặt
cọc 100.000.000 đồng ngày 11/3/2022, số tiền còn lại 530.000.000 đồng ông B giao
hết cho vợ chồng ông V1 vào ngày 29/3/2022 giao đất luôn cho cho ông B quản
lý, sử dụng. Khi viết giấy sang nhượng thì ông B đã xem trích lục bản đồ, địa chính
ghi tên ông B trên trích lục thửa đất, thửa đất 498- TBĐ 75, Lộc N, huyện B.
Từ khi nhận chuyển nhượng đến nay thì ông B còn giữ nguyên hiện trạng, chưa tác
động trên đất. Tuy nhiên sau đó ông B không làm được sổ đỏ do đất tranh chấp,
Công an huyện Bảo Lâm thông báo toàn bộ thửa đất này đang có tranh chấp với
bà Lê Thị S1(thôn 9, xã Lộc N). Sự việc này ông B có báo lại với vợ chồng ông V1,
L1 yêu cầu trả lại tiền không mua đất nữa thì ông V1 nói bao giờ n
được đất thì trả lại, còn bà L1 không đồng ý.
Nay ông B khởi kiện yêu cầu hủy việc chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông
B, D với vợ chồng ông V1, L1 bao gồm hủy hợp đồng đặt cọc lập ngày
11/3/2022, hủy giấy sang nhượng đất nền lập ngày 29/3/2022. Lý do xin hủy đất
đang có tranh chấp, qua đo đạc thì có chồng lấn với thửa khác (thửa 495), đất chưa
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi chuyển nhượng. Lỗi dẫn đến hủy hp
đồng do cả hai bên. Nay ông B đồng ý ng D trả lại diện tích đất đã nhận
chuyển nhượng của ông V1, bà L1 qua đo đạc là 188,7 m
2
gồm một phần thửa 495-
diện tích 28,5 m
2
, một phần thửa 498- diện tích 157,6 m
2
, một phần thuộc đường đi
đã được phê duyệt 2,6 m
2
- Tờ bản đồ 75, thôn 9, xã Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm
Đồng. Ông B yêu cầu vợ chồng ông V1, bà L1 trả lại cho vợ chồng ông B, bà D số
tiền đã nhận là 630.000.000 đồng. Vchi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc hiện
trạng sử dụng đất, thẩm định giá tài sản yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật, về án phí yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
3
Tại bản tường trình ngày 30/12/2022 các lời khai tại Tòa án, bđơn trình
bày:
Vợ chồng thừa nhận không quan hệ họ hàng với vợ chồng ông B, D. V
việc lập hợp đồng đặt cọc, viết giấy chuyển nhượng đất nền như ông B trình bày
đúng. Trước khi bán đất cho ông B thì ông B đã đi coi đất, vợ chồng đã nói đất
chưa sổ đỏ, chỉ trích lục nhưng vẫn đồng ý mua, giá chuyển nhượng
80.000.000 đồng/mét ngang mặt tiền, bớt 10.000.000 đồng, giá còn lại thành tiền là
630.000.000 đồng, đặt cọc trước 100.000.000 đồng ngày 11/3/2022, đến ngày
29/3/2022 thì ông B trả hết số tiền 530.000.000 đồng, thực tế thì lúc đó ông B ra địa
chính xã Lộc Ngãi điều chỉnh tên ông B đứng tên trên trích lục bản đồ là xong, còn
các thủ tục khác do ông B tự làm. Sau khi nhận đủ tiền ngày 29/3/2022 thì vợ chồng
giao đất cho vợ chồng ông B xong cho đến nay. Đất sử dụng không tranh chấp,
các chủ đất giáp ranh đã có ranh giới n định. Do sổ đỏ ông B tự làm nên mới giá
80.000.000 đồng/mét ngang mặt tiền. Sau khoảng mấy tháng thì ông B sang nói
là Công an không cho làm nhà do đất có tranh chấp và yêu cầu trả lại tiền, trả lại đất
nên vợ chồng không đồng ý. Nay ông B khởi kiện thì vợ chồng không đồng ý theo
yêu cầu của ông B hai bên chuyển nhượng đã xong, đã giao đất, đã nhận đủ tiền
xong không còn liên quan gì. Khi chuyển nhượng ông B cũng biết rõ đất chưa có sổ
đỏ và đã đồng ý mua, lỗi hoàn toàn là do ông B nên vợ chồng không đồng ý hủy hợp
đồng chuyển nhượng đất, không đồng ý trả lại tiền và nhận lại đất. Trước đây thì vợ
chồng thương lượng với ông B nếu không lấy miếng đất đã chuyển nhượng thì v
chồng đồng ý đổi đất chỗ khác cho ông B nhưng ông B không đồng ý chứ không
đồng ý trả lại tiền. Nay vợ chồng yêu cầu tiếp tục việc chuyển nhượng đất vì đã giao
đất xong, đã nhận tiền xong không còn liên quan . Còn sau này nếu vợ chồng
ông B yêu cầu vợ chồng phối hợp các thủ tục liên quan đlàm giấy chứng nhận
QSD đất thì vợ chồng đồng ý. Về chi phí tố tụng, án phí vợ chồng yêu cầu giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Lô Thị D thống nhất như ý kiến của ông B, yêu cầu giải quyết vụ án theo
pháp luật.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp vkiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 31/8/2023 nhưng không thành.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn, người liên quan giữ nguyên
ý kiến của mình. Hiện nay ông B đang giữ đồng ý trả lại cho ông V1, L1 01
“hợp đồng mua bán sang nhượng đất” ngày 23/12/2017 giữa vợ chồng Trần Văn
T3, Trần Thị T4 với ông Phùng Văn V1 (bản chính).
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi
thụ cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc
4
giải quyết vụ án như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, hủy hợp đồng đặt cọc lập ngày 11/3/2022, hủy giấy sang nhượng đất
nền đã lập ngày 29/3/2022 giữa vợ chồng ông B, bà D với vợ chồng ông V1, bà L1.
Buộc vợ chồng ông B, bà D trả lại toàn bộ diện tích đất đã nhận chuyển nhượng (theo
đo đạc địa chính thửa đất ký ngày 16/6/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng) 01 “hợp đồng mua bán sang nhượng đất”
ngày 23/12/2017 giữa vợ chồng Trần Văn T3, Trần Thị T4 với ông Phùng Văn V1
(bản chính). Buộc vợ chồng ông V1, bà L1 trả lại cho vợ chồng ông B, bà D số tiền
630.000.000 đồng. Về chi phí tố tụng, án phí yêu cầu giải quyết theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
Vợ chồng ông Lục Văn B, Thị D không mối quan hanh em, họ hàng
với vợ chồng ông Phùng Văn V1, bà Đinh ThL1. Vợ chồng ông B, D cần mua
đất để làm nhà, bà Lê Thị Kim Thoa là người giới thiệu cho ông B mua đất của ông
V1, L1. Hai bên trực tiếp gặp nhau, xem đất và thương lượng giá cả. Theo đó ông
V1, bà L1 chuyển nhượng cho ông B, D một diện tích đất kích thước chiều
rộng trước, mặt sau bằng nhau là 08 mét x chiều dài 24 mét thuộc thửa 87, tờ bản đồ
45, thôn 9, Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Đất số thửa, đã được đo đạc nhưng
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giá thỏa thuận 80.000.000
đồng/mét ngang mặt tiền x 08 mét thành 640.000.000 đồng, bớt 10.000.000 đồng,
còn lại 630.000.000 đồng. Theo đo đạc địa chính thửa đất ký ngày 16/6/2023 của Chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng cung cấp cho Tòa
án thì diện tích chuyển nhượng theo hiện trạng sử dụng đất hiện nay diện tích
188,7 m
2
thuộc tờ bản đ75 xã Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm Đồng gồm một phần thửa
498, diện ch 157,6 m
2
, một phn thửa 495 (đứng tên Đinh Thị Huế), diện tích
28,5 m
2
, phần diện tích thuộc đường giao thông đã được phê duyệt- diện tích 2,6 m
2
.
Thực tế sử dụng đất ranh giới ổn định và không có tranh chấp, các chủ đất giáp ranh
đã xác nhận. Ngày 11/3/2022 hai bên lập 01 hợp đồng đặt cọc, theo đó vợ
chồng ông B, D đặt cọc trước số tiền 100.000.000 đồng cho vợ chồng ông V1,
L1. Số tiền còn lại 530.000.000 đồng đến ngày 11/4/2022 vợ chồng ông B đưa hết,
hai bên tiến nh hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng công chứng. Hai bên
cùng ký, ghi họ tên cam kết thực hiện. Ngày 29/3/2022 hai bên lập 01 “giấy
sang nhượng đất nền” khẳng định vợ chồng ông V1 chuyển nhượng cho vợ chồng
Bách 01 miếng đất (đất nền nhà) diện tích 08 mét x 24 mét, có 02 phía giáp đất của
ông Tống Quốc H2, 01 phía giáp đất Đinh Thị H2 01 phía giáp đường đi, giá
630.000.000 đồng. Ngày 29/3/2022 vợ chồng ông B đã giao hết số tiền còn lại đồng
thời vợ chồng ông V1 giao đất cho ông B quản lý, sử dụng. Các bên ký, ghi họ tên
và cam kết thực hiện. Khi lập hợp đồng, giao đất thì hai bên tự thực hiện, không qua
5
chính quyền địa phương. Đồng thời vợ chồng ông V1 giao lại cho vợ chồng ông
B 01 bản chính“hợp đồng mua bán sang nhượng đất” ngày 23/12/2017 giữa vợ
chồng Trần Văn T3, Trần Thị T4với ông Phùng Văn V1 trước đây. Như vậy việc
thỏa thuận, cam kết chuyển nhượng đất giữa các bên là thật đều được các
bên thừa nhận là đúng. Bên chuyển nhượng đã bàn giao đất, nhận đủ tiền, bên nhận
chuyển nhượng đã nhận đất giao đủ tiền. Tuy nhiên sau đó hai bên xảy ra tranh
chấp và không thể thỏa thuận được đến nay hai bên không kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Xét khi chuyển nhượng đất
thì bên chuyển nhượng chưa đủ điều kiện chuyển nhượng đất đất chưa giấy
chứng nhận QSD đất theo quy định tại Điều 188 Luật đất đai 2013, bên nhận chuyển
nhượng biết nhưng không có ý kiến gì. Theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
đặt cọc giấy sang nhượng đất nền không ghi ràng nghĩa vụ của c bên như:
đăng ký, khai, cấp giấy chứng nhận QSD đất, kết hợp đồng chuyển nhượng
QSD đất, làm thủ tục sang tên…mặc thỏa thuận sau khi đặt cọc 01 tháng thì
giao tiếp số tiền còn lại ra phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng QSD
đất nhưng thực tế hoàn thành thủ tục đđược cấp giấy chứng nhận QSD đất thì không
thực hiện được. Đồng thời theo đo đạc địa chính thửa đất như trên do hai bên chỉ đạc
thì diện tích ông B nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông V1 bchồng lấn sang thửa
495 (đứng tên bà Đinh Thị Huế) mặc dù thực tế sử dụng đất không có tranh chấp v
ranh giới. Từ những cơ sở như trên cho thấy từ khi ký kết chuyển nhượng đất thì đất
chưa đủ điều kiện để chuyển nhượng theo quy định của pháp luật nên vô hiệu và đến
nay các bên không thể hoàn thành thủ tục chuyển nhượng hợp pháp. Xét thấy ông B
yêu cầu không tiếp tục thực hiện tiếp việc chuyển nhượng QSD đất, yêu cầu hủy hợp
đồng đặt cọc, hủy giấy sang nhượng đất nền đối với diện tích đất trên giữa vợ chồng
ông B, D với vợ chồng ông V1, L1 là có cơ sở và cần chấp nhận. Hội đồng xét
xử cần cần xem xét hủy hợp đồng đặt cọc ngày 11/3/2022, hủy giấy sang nhượng đất
nền ngày 29/3/2022 giữa các bên là căn cứ đúng pháp luật. Do hủy hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất nên cần giải quyết hậu quả: Các bên trả lại cho nhau những
đã nhận, bên nào lỗi gây ra thiệt hại thì phải trách nhiệm bồi thường. Xét
việc chuyển nhượng đất không thể tiếp tục là do cả hai bên: Bên chuyển nhượng đất
chưa có giấy chứng nhận QSD đất nhưng vẫn chuyển nhượng, việc chuyển nhượng
không qua chính quyền địa phương. Bên nhận chuyển nhượng biết đất chưa sổ đỏ
vẫn mua, nhận đất, trả tiền. Cả hai bên không có thiện chí để cùng nhau khắc phục
các vướng mắc như cam kết khi mua bán. vậy cần buộc vợ chồng ông B, bà D trả
lại toàn bộ diện tích đất 188,7 m
2
thuộc một phần thửa 498- diện tích 157,6 m
2
, một
phn thửa 495 (đứng tên Đinh Thị H2)- diện tích 28,5 m
2
, phần diện tích thuộc
đường giao thông đã được phê duyệt- diện tích 2,6 m
2
- tờ bản đồ 75, thôn 12, xã Lộc
N, huyện B, tỉnh Lâm Đồng cho ông V1, L1 (có họa đồ thửa đất kèm theo), 01
“hợp đồng mua bán sang nhượng đất” ngày 23/12/2017 giữa vợ chồng Trần Văn
T3, Trần Thị T4 với ông Phùng Văn V1 (bản chính). Tại chứng thư thẩm định giá tài
sản ngày 27/9/2023 của Công ty cổ phần thẩm định giá Việt Tín thì toàn bộ diện tích
đất đang tranh chấp 188,7 m
2
giá 632.224.000 đồng (chênh lệch giá 2.224.000
6
đồng), ông B yêu cầu vợ chồng ông V1 trả lại số tiền đã nhận 630.000.000 đồng,
không tính trượt giá, không yêu cầu bồi thường. Vì vậy cần buộc vợ chồng ông V1,
bà L1 trả lại cho vợ chồng ông B, bà D số tiền 630.000.000 đồng.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ hiện trạng sử dụng đất, thẩm định
giá tài sản với số tiền 16.839.000 đồng, ông B đã nộp tạm ứng xong. Xét lỗi không
tiếp tục chuyển nhượng đất do cả hai n nên cần buộc mỗi bên phải chịu ½ chi
phí này. vậy cần buộc vợ chồng ông B, D phải chịu 8.419.500 đồng (đã nộp
xong), buộc vợ chồng ông V1, L1 phải trả lại số tiền 8.419.500 đồng cho vợ chồng
ông B, bà D.
Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên không
phải chịu phải chịu án phí n sự sơ thẩm. Buộc bị đơn vchồng ông V1, L1 chịu
29.800.000 đồng án phí dân sthẩm (gồm 600.000 đồng án phí dân sự thẩm
hủy hợp đồng 29.200.000 đồng án phí dân sthẩm trên stiền phải trả cho
nguyên đơn).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 235, Điều 264, Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào các điều 275, các điều 328, 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự
2015; Điều 188 Luật đất đai 2013.
Căn cứ o Điều 147 Bộ luật t tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết
326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lục Văn B đối với vợ chồng ông
Phùng Văn V1, Đinh Thị L1 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất”.
- Hủy hợp đồng đặt cọc lập ngày ngày 11/3/2022 hủy“giấy sang nhượng
đất nền” viết tay lập ngày 29/3/2022 giữa vợ chồng ông Lục Văn B, bà Thị D với
vợ chồng ông Phùng Văn V1, bà Đinh Thị L1.
- Buộc vchồng ông Lục Văn B, Lô Thị D trả lại cho vợ chồng ông Phùng
Văn V1, Đinh Thị L1 diện ch đất 188,7 m
2
bao gồm một phần thửa 498- diện
tích 157,6 m
2
, một phn thửa 495- diện tích diện tích 28,5 m
2
, phần diện tích thuộc
đường giao thông đã được phê duyệt- diện tích 2,6 m
2
thuộc tờ bản đ75, xã Lộc N,
huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
(có đo đạc địa chính thửa đất kèm theo)
- Buộc vchồng ông Lục Văn B, Lô Thị D trả lại cho vợ chồng ông Phùng
Văn V1, Đinh Thị L1 01 (một)“hợp đồng mua bán sang nhượng đất” viết tay
ngày 23/12/2017 giữa vchồng Trần Văn T3, Trần Thị T4 với ông Phùng n V1
(bản chính).
7
- Buộc vợ chồng ông Phùng Văn V1, Đinh Thị L1 trách nhiệm trả lại
cho vợ chồng ông Lục Văn B, Thị D số tiền 630.000.000 (sáu trăm ba mươi
triệu) đồng.
Kể tngày đơn u cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc vợ chồng ông Phùng Văn V1, Thị D phải
trả lại cho vợ chồng ông Lục Văn B, Lô Thị D số tiền 8.419.500 đồng.
3. V án phí: Buộc vợ chồng ông Phùng Văn V1, Đinh Thị L1 phải chịu
29.800.000 đồng án phí dân sthẩm. Hoàn trả lại cho ông Lục Văn B số tiền
14.600.000 đồng tạm ứng án án phí đã nộp tại biên lai thu tạmng án phí, lệ phí Tòa
án s0009562 ngày 05/10/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh
Lâm Đồng.
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2015 thì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi nh án theo quy định
tại các Điều 6; Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được
sửa đổi, bổ sung năm 2015.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND huyện Bảo Lâm;
- Chi cục THADS huyện Bảo Lâm;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thị Bích Thủy
Tải về
Bản án số 61/2023/DS-ST Bản án số 61/2023/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất