Bản án số 59/2023/HS-PT ngày 24-08-2023 của TAND tỉnh Bến Tre về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 59/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 59/2023/HS-PT ngày 24-08-2023 của TAND tỉnh Bến Tre về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 59/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Lê Tuấn A phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 59/2023/HS-PT
Ngày: 24-8-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Văn Tỉnh
Các Thẩm phán: Ông Bùi Quang Sơn
Bà Nguyễn Thị Rẻn
- Thư ký phiên tòa: Ông Phan Trung Tín Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bến
Tre
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Ông Võ Việt Hùng – Kiểm sát viên
Ngày 24 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét x
phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ số: 56/2023/TLPT-HS ngày 21 tháng 7
năm 2023 đối với bcáo Nguyễn Tuấn A do kháng cáo của bcáo đối với
Bản án hình sự thẩm số: 46/2023/HSST ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Bcáo kháng cáo: Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1993 tại tỉnh Bến Tre;
nơi cư trú: Số A ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ
học vấn: lớp 8/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo:
không; con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1967 Lê Thị H, sinh năm 1962;
tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/10/2022 cho đến
nay; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn M1 Luật sư Văn phòng luật
M1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh B; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 16/12/2021, lực lượng Cảnh sát quản
hành chính về trật tự hội lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm vma túy
2
Công an thành phố B phối hợp với Công an xã B, thành phố bến T tiến hành kiểm
tra hành chính nhà trọ H3 ở số A, ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Qua kiểm
tra, lực lượng Công an phát hiện tại phòng trọ s18 do Nguyễn Tuấn A thuê
có: Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Hoàng M2 (sinh năm 1983; ĐKTT: Số B, ấp A,
xã M, thành phố B, tỉnh Bến Tre), Trần Lê Duy K (sinh ngày 02/9/2003; ĐKTT: ấp
A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre), Đỗ Trường H1 (sinh ngày 17/9/2004; ĐKTT: ấp
T, T, huyện C, tỉnh Bến Tre), Ngô Diễm T (sinh năm 2002; ĐKTT: Ấp F, xã T,
huyện T, tỉnh Bến Tre), Nguyễn Thị Mỹ L (sinh năm 2001; ĐKTT: ấp T, T,
huyện T, tỉnh Bến Tre), Phạm Gia N (sinh ngày 06/8/2005; ĐKTT: Số B, khu phố
D, phường G, thành phố B, tỉnh Bến Tre), Lê Thị Ngọc C (sinh năm 2001; ĐKTT:
ấp T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Bến Tre), Tạ Như Q (sinh ngày 12/11/2005; ĐKTT:
ấp L, H, huyện C, tỉnh Bến Tre) Hoàng H2 (sinh ngày 07/11/2005;
ĐKTT: ấp P, P, huyện C, tỉnh Bến Tre) đang hành vi sử dụng trái phép chất
ma túy.
Qua làm việc Nguyễn Lê Tuấn A khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 16/12/2021,
M2, H1 K đến phòng trọ số 18 của Tuấn A để nhậu. Được một lúc thì thêm
T, L, N, C, Q và H2 đến phòng trọ của Tuấn A chơi. Trong lúc nhậu, M2, H1, K có
nói đến việc sử dụng ma túy, nghe vậy Tuấn A nói để Tuấn A mua ma túy cho sử
dụng. Để thực hiện ý định, khoảng 16 giờ cùng ngày, Tuấn A điện thoại cho người
thanh niên tên Q1 (không htên, địa chỉ) hỏi mua 1.200.000 đồng ma túy gồm
ma túy dạng “khây” 02 viên ma túy dạng thuốc lắc tQ1 đồng ý. Khoảng 20
phút sau, Q1 đem ma túy đến khu vực phía trước phòng trọ số 18 bán cho Tuấn A
01 gói ma túy dạng “khây” 01 gói ny lon bên trong 02 viên ma túy dạng
thuốc lắc màu xanh. Sau khi mua được ma túy, Tuấn A đem vào phòng trọ để cho
cả nhóm gồm: Nguyễn Hoàng M2, Trần Duy K, Đỗ Trường H1, Ngô Diễm T,
Nguyễn Thị Mỹ L, Phạm Gia N, Lê Thị Ngọc C, Tạ Như Q và Võ Hoàng H2 cùng
sử dụng. Riêng 02 viên ma túy dạng thuốc lắc không sử dụng nên Tuấn A cất giấu
trong chậu cây trước cửa phòng trọ để dành sdụng nên lực lượng tiến hành lập
biên bản sự việc và thu giữ tang vật.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nylon màu trắng được hàn kín ba phía, trên
miệng túi rãnh khép vạch màu đỏ bên trong 02 viên nén màu xanh (Sau
khi thu giữ được niêm phong trong phong chữ ghi tên Nguyễn Hải
Đăng K1, Dương Hoàng Â, Nguyễn Lê Tuấn A, Lê Thị Ngọc C1, Nguyễn Thị Mỹ
L, Thanh N1 hình dấu tròn màu đỏ của Công an B, thành phố B); 01 dĩa
màu trắng; 01 đoạn ống hút màu trắng; 02 hột quẹt gas màu vàng; 01 túi nylon
màu trắng được hàn kín ba phía, trên miệng túi có rãnh khép và vạch màu xanh bên
3
trong rỗng; 01 card màu đen có chữ GUCCI.
Theo Kết luận giám định số 161/2021/GĐMT ngày 01/01/2022 của Phòng K2
Công an tỉnh B kết luận: 02 viên nén màu xanh đựng trong túi nylon được niêm
phong trong phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,9555
gam.
* Tại Bản án hình sự thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 15-6-2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn
Tuấn A phạm “Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Tội tàng trữ trái
phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ
luật Hình sự: Xphạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 07 (bảy) năm về “Tội tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo
Nguyễn Tuấn A 01 (một) năm 03 (ba) tháng về “Tội tàng trữ trái phép chất
ma túy”.
- Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành
hình phạt của 02 tội 08 (tám) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tính tngày
13/10/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn tuyên về xử vật chứng, án phí quyền
kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xthẩm, ngày 29/6/2023 bị cáo Nguyễn Tuấn A kháng cáo
yêu cầu giảm nhẹ hình phạt tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo thừa nhận hành vi tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy xác định kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho
hai tội danh, tuy nhiên bị cáo cho rằng 02 viên nén màu xanh không phải của bị
cáo, nhưng bị cáo thừa nhận bị cáo tên vào Biên bản kiểm tra hành chính,
Biên bản sviệc viết tự khai về 02 viên nén màu xanh nội dung giống
Bản án sơ thẩm nêu.
Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Đơn kháng
cáo của bị cáo làm trong hạn luật định. Về tội danh, Tòa án cấp thẩm đã xét xử
tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm “Tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự, “Tội tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự sở. Xét
kháng cáo của bị cáo đối với “Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” bị cáo
không có đủ tình tiết giảm nhẹ để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
4
hình phạt nên được giữ nguyên; đối với “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” bị o
không thừa nhận hành vi nên không căn cứ giảm hình phạt. Mức hình phạt 01
(một) năm 03 (ba) tháng phù hợp nên được giữ nguyên. Đề nghị căn cứ Điều
355 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ
nguyên Bản án thẩm. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1
Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 07 (bảy)
năm về “Tội tổ chức sdụng trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1
Điều 249; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 01 (một)
năm 03 (ba) tháng về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điều 55 Bộ
luật Hình sự tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Tuấn A chấp hành hình
phạt của 02 tội 08 (tám) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày
13/10/2022. Các phần quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận.
Người bào chữa cho bị cáo cho rằng, về “Tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy” thống nhất với Bản án thẩm; đối với “Tội tàng trữ trái phép chất ma
túy” không thống nhất, do bị cáo không thừa nhận hai viên nén màu xanh là của bị
cáo, bị cáo không có mua 02 viên nén màu xanh, nên bị cáo không phạm “Tội tàng
trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo lao động chính trong gia đình, cha mẹ già,
bị cáo không rủ nhiều người sử dụng ma túy. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo.
Lời nói sau cùng, bị cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt để sớm về gia đình lo
cho cha mẹ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong thời
hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại
phiên tòa phúc thẩm, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu
nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tình tiết vụ án: Giai đoạn điều tra ban đầu bị cáo thừa nhận 02 viên nén
màu xanh thuốc lắc của bị cáo. Về sau bị cáo thay đổi lời khai cho rằng sợ bị
đánh đập nên khai nhận 02 viên ma túy dạng thuốc lắc của bị cáo, tại phiên tòa
phúc thẩm bị cáo cho rằng do bị dẫn cung nên bị cáo khai nhận 02 viên nén màu
xanh của bị cáo. Tuy nhiên qua điều tra bổ sung những người làm chứng đều
khai nhận không bị đánh đập, không bị ép khai, các nhân chứng Hoàng H2,
Dương Hoàng Â, Ngô Diễm T, Nguyễn Thị Mỹ L, Thị Ngọc C1, Phạm Gia N,
5
Đỗ Trường H1 cho rằng tại hiện trường Tuấn A tự thừa nhận mua ma túy thừa
nhận 02 viên nén màu xanh của Tuấn A, phù hợp với lời khai ban đầu của bị
cáo, phù hợp với các bản tự khai của bị cáo, phù hợp với biên bản kiểm tra hành
chính và biên bản sự việc.
Riêng các nhân chứng sau khai có các tình tiết phù hợp nhau:
- Nguyễn Hoàng M2, trình bày thể hiện: “… tôi vào phòng trọ của Tuấn A
ngủ được một lúc thì T1 anh nói “Ma túy nè chơi đi” lúc này tôi ngồi dậy thấy
Tuấn A để 01 bịt ma túy “Khây” 01 bịt 02 viên ma túy màu xanh trên bàn,
tôi tiếp tục nằm xuống nệm của Tuấn A nghỉ, một lúc sau thì H1 và K quay lại , …;
Do Tuấn A nói “Ma túy sử dụng (chơi) đi” nên tôi nghe ngồi dậy thấy Tuấn
A để 01 bịt ma túy “Khây” 01 bịt 02 viên ma túy màu xanh trên bàn, tôi xác
định 02 viên ma túy màu xanh này là của Tuấn A mua cùng với bịt ma túy “Khây”;
chính mắt tôi nhìn thấy Tuấn A đem bịt ma túy “Khây” 02 viên ma túy màu
xanh để trên bàn, lúc này trong phòng chỉ tôi Tuấn A(BL 337-340 ngày
10/11/2022); và lời khai (tại BL 556-559 ngày 20-3-2023) khi đem 02 túi ma
túy vào phòng trọ để trên bàn nhỏ thì Tuấn A nói “ma túy nè, mấy ông chơi đi” tức
sử dụng ma túy nên tôi nhìn thấy hai túi ma túy này, tôi xác định hai viên ma
túy màu xanh của Tuấn A chúng tôi chỉ sử dụng túi ma túy màu trắng; ngồi
công an khoảng 05-10 phúc thì người chở tôi, Tuấn A, H1, K trở lại phòng
trọ; Khi tôi, Tuấn A, H1, K trở lại phòng trọ của Tuấn A, công an lập biên bản
kiểm tra hành chính và biên bản sự việc, đọc cho tôi, Tuấn A, H1, K nghe nội dung
biên bản và cùng ký tên vào biên bản tại phòng trọ của Tuấn A; tại hiện trường tôi
nghe Tuấn A tự khai với công an là Tuấn A cất giấu 02 viên ma túy màu xanh
chậu cây để Tuấn A sử dụng; tôi không thấy lực lượng công an đánh đập ai, tôi,
Tuấn A, H1, K cũng không bị đánh”.
- Nhân chứng Trần Duy K, trình bày thể hiện: khi tôi trở lại phòng trọ
Tuấn A để rướt H1 thì thấy Tuấn A để một túi ma túy “Khây” một túi chứa hai
viên thuốc lắc đặc điểm nêu trên (02 viên nén màu xanh) dưới nền nhà để sử
dụng ma túy, không sử dụng thuốc lắc nên Tuấn A đem cất 02 viên thuốc lắc, còn
Tuấn A cất ở đâu thì tôi không biết” (BL 218 ngày 28/12/2021) và lời khai (tại BL
421-424 ngày 27/02/2023) thể hiện: “… tại hiện trường tôi nghe Tuấn A khai
nhận, Tuấn A cất giấu 01 túi ny lon bên trong 02 viên nén màu xanh, đó
ma túy, cất giấu trong chậu cây kiễng, …; lúc tôi thấy gói ma y “Khây” 01
gói ma túy “Kẹo” gồm 02 viên nén màu xanh, thì Tuấn A luôn có mặt tại phòng trọ
đến khi lực lượng đến kiểm tra, Tuấn A có đi tới lui trong và ngoài trước phòng trọ
chứ không đi xa; tại công an B không ai đánh đập tôi những đương
sự khác cũng không ai bị đánh đập; tôi khẳng định ma túy để trên nền gạch, tôi
thấy gồm 01 gói ma túy “Khây” 01 gói ma túy “Kẹo” dạng viên nén màu xanh
lúc đó chuẩn bị sử dụng ma túy; lúc đầu Tuấn A mua ma túy về để ở đâu tôi không
6
thấy việc M2 thấy ma túy Tuấn A để trên bàn thì tôi không biết, nhưng lúc tôi
nhìn thấy ma túy đã để trên nền gạch, gồm 01 gói ma túy “Khây” 01 gói ma
túy “kẹo” có 02 viên nén màu xanh lúc đó chuẩn bị sử dụng ma túy”.
Bị cáo đưa ra tình tiết bị đánh đập tại công xã, tuy nhiên bị cáo có lời khai (tại
BL 477-480 ngày 02/3/2023) cho rằng: “Tôi bị đánh tại công an xã B lúc đó người
đánh tôi không hỏi, không nói về ma túy người đánh tôi cầm vẹt
xe để trên bàn chỗ tôi ngồi hỏi tôi lấy không, Người đó say rượu, tôi nói không
thì người đó đánh i chứ không liên quan đến ma túy sử dụng tại phòng
trọ”. Như vậy, thể hiện việc bị cáo bị đánh là do việc khác.
Như vậy, căn cứ xác định hai viên nén màu xanh được thu giữ, qua giám
định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,9555 gam là của bị cáo Tuấn A.
Đối với tình tiết người bào chữa đưa ra “Bị cáo không rủ nhiều người”, tuy
nhiên tại biên bản đối chất giữa Tuấn A Nguyễn Hoàng M2 (BL 98-104 ngày
05/10/2022), Tuấn A trình bày Hôm đó những bạn nữ bạn nam đến phòng
trọ của tôi cùng sử dụng ma túy thì tôi đồng ý không có phản ứng ”.
Với các tình tiết nêu trên căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, có s xác định. Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày
16/12/2021, tại phòng trọ số A nhà T ở số A, ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre
của Nguyễn Lê Tuấn A thuê ở, Tuấn A đã có hành vi dùng nơi ở của mình và cung
cấp ma túy dạng “Khây” cho Nguyễn Hoàng M2, Trần Duy K, Đỗ Trường H1,
Ngô Diễm T, Nguyễn Thị Mỹ L, Phạm Gia N, Lê Thị Ngọc C, Tạ Như Q
Hoàng H2 cùng sử dụng, trong đó Đỗ Trường H1, Phạm Gia N, TNhư Q và
Hoàng H2 người đủ 13 tuổi nhưng dưới 18 tuổi. Ngoài ra, quan Cảnh sát
điều tra Công an thành phố B còn thu được 0,9555 gam ma túy, loại MDMA (02
viên ma túy màu xanh) tại chậu cây phía trước phòng trọ số 18 nhà trọ H3 số A,
ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre do Tuấn A cất giấu, tàng trữ để sử dụng.
Với ý thức, hành vi, số lượng chất ma túy, sngười tham gia sử dụng ma túy
độ tuổi của những người tham gia sử dụng ma túy, Tòa án cấp thẩm đã xét
xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm “Tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy” theo các điểm b “Đối với 02 người trở lên”, điểm c “Đối với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi” khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự, “Tội tàng trữ
trái phép chất ma túy” theo điểm c “..., MDMA khối lượng từ 0,1 gam đến dưới
05 gam” khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm khi áp dụng hình
phạt tù đã xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho bị cáo như sau: Bị cáo không tiền án, tiền sự, không tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự nên được xem là có nhân thân tốt; về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo
7
đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải đối với “Tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy” (tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật
Hình sự). Xét hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo 07 năm
ối với “Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”) mức thấp nhất của
khung hình phạt, bị cáo không thêm tình tiết giảm nhẹ để đủ áp dụng hình phạt
thấp hơn, nên được giữ nguyên; đối với “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo
không thừa nhận hành vi nên không tình tiết giảm nhẹ đgiảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo, mức hình phạt 01 năm 03 tháng được ginguyên. Do vậy không chấp
nhận kháng cáo của bị cáo.
[4] Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét
xử; quan điểm của người bào chữa cho bị cáo phần không phợp với quan
điểm của Hội đồng xét xử.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không
được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng
hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án
sơ thẩm.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm “Tội tchức sdụng trái phép
chất ma túy” và “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ
luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 07 (bảy) năm về “Tội tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo
Nguyễn Tuấn A 01 (một) năm 03 (ba) tháng về “Tội tàng trữ trái phép chất
ma túy”.
- Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn
Tuấn A chấp hành hình phạt của hai tội 08 (tám) năm 03 (ba) tháng tù. Thời
hạn tù tính từ ngày 13/10/2022.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Ttụng hình s; Điều 23 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Tuấn A phải nộp 200.000 (hai
trăm nghìn) đồng.
8
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhn:
- Vụ GĐKT I - Tòa án nhân dân tối cao (1b);
- VKSND tnh Bến Tre (1b);
- Phòng h sơ Công an tỉnh Bến Tre (1b);
- Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre (1b);
- Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre (3b);
- VKSND thành phố Bến Tre (1b);
- Công an thành phố Bến Tre (1b);
- Chi cục THADS thành phố Bến Tre (1b);
- UBND xã T, h. Châu Thành (1b);
- Nhà tạm giữ Công an Tp. Bến Tre (1b);
- Bị cáo (1b);
- Phòng KTNV & THA, Tòa Hình sự, Văn png
TAND tnh Bến Tre (5b);
- Lưu hồ sơ vụ án (1b).
TM.HỘI ĐNG XT X PHC THM
THM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Tỉnh
Tải về
59_2023_HS-PT_ BEN_TRE.pdf 59_2023_HS-PT_ BEN_TRE.pdf

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

59_2023_HS-PT_ BEN_TRE.doc 59_2023_HS-PT_ BEN_TRE.doc

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất