Bản án số 29/2024/HS-PT ngày 21-02-2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 29/2024/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 29/2024/HS-PT ngày 21-02-2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội danh: 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu: 29/2024/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/02/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Đặng Thành T phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG NGÃI

--------------

Bản án s: 29/2024/HS-PT

Ngày: 21-02-2024

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 29/2024/HS-PT NGÀY 21/02/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 39/2023/TLPT-HS ngày 28 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo Đặng Thành T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 158/2023/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Đặng Thành T, sinh ngày 06 tháng 6 năm 1990 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn A, xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Quang U và bà Dương Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/02/2023 đến nay, bị cáo đang giam, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 21/02/2023, Đặng Thành T đang ở nhà thì muốn sử dụng ma túy nên T dùng tài khoản Messenger có tên “Thành T” nhắn tin cho Đoàn Văn S (tài khoản “Haohao Gia”), T nhắn tin hỏi S còn ma túy “đá” không để T xuống sử dụng. S nói chỉ còn một ít ma túy bám dính trong bộ dụng cụ do lần trước sử dụng chưa hết, S nói T xuống sử dụng số ma túy này thì T đồng ý. T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave S, biển kiểm soát: 76R2-X đến nhà S, tại đây T rủ S mỗi người góp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để mua 01 (Một) tép ma túy “đá” với giá tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) cùng sử dụng, S đồng ý. T đưa cho S số tiền 200.000 đồng, sau đó S mượn xe mô tô của T đi lên thành phố Quảng Ngãi gặp một người thanh niên (Không rõ nhân thân, lai lịch) tại hẻm đường Quang Trung, thành phố Quảng Ngãi để mua 03 (Ba) tép ma túy “đá” với tổng số tiền 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm ngàn đồng). Trong đó, 01 tép ma túy là S góp 200.000 đồng mua chung với T; còn lại S mua riêng 02 tép ma túy với giá 800.000 đồng.

Sau khi mua được ma túy, S mang về nhà và cất giấu 02 tép ma túy mua riêng trong nồi cơm điện để tại phòng khách trong nhà S, T không biết về việc S mua riêng và cất giấu ma túy trong nồi cơm điện. Còn lại 01 tép ma túy, S lấy bộ dụng cụ có sẵn bỏ ma túy vào nỏ cùng sử dụng với T. Khi S và T cùng nhau sử dụng ma túy thì Nguyễn Văn K điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, biển kiểm soát: 76B1-X đến trước nhà S để rủ S đi uống cà phê nhưng không gặp S nên K đi công việc. Sau đó, S sử dụng Messenger nhắn tin cho K (Có tên T khoản “Quốc K”) hỏi K đi đâu; K trả lời là đi công việc rồi xuống nhà S sau. Một lúc sau, K quay lại nhà S thì thấy S và T đang sử dụng ma túy tại phòng khách. S nói với K: “Vào làm hơi” (Có nghĩa là S rủ K vào cùng sử dụng ma túy) thì K đồng ý và vào trong nhà của S để cùng sử dụng ma túy với S và T. Tiếp đó, Phạm Thị Thảo T1 (Là vợ của S) đi công việc về nhà thì thấy S, T và K đang sử dụng ma túy ở phòng khách. S nói với T1: “Vào làm hơi” (Có nghĩa là S rủ T cùng sử dụng ma túy) thì T1 đồng ý và cùng vào sử dụng ma túy với S T, K. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, T đi công việc, còn S, T, K tiếp tục ở lại sử dụng ma túy. Khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, Công an thành phố Quảng Ngãi tiến hành kiểm tra, phát hiện Đoàn Văn S, Đặng Thành T và Nguyễn Văn K đang sử dụng ma túy nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đoàn Văn S và Đặng Thành T về hành vi: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Trong quá trình làm việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi phát hiện S đang cất giấu 02 tép ma túy trong nồi cơm điện để sử dụng riêng. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành tạm giữ, niêm phong các chất nghi là ma túy, bộ dụng cụ sử dụng ma túy cùng các đồ vật, tài sản khác có liên quan.

Tại Kết luận giám định số: 231/KL-KTHS ngày 01/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận:

- Chất rắn màu trắng bên trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine; khối lượng mẫu: 0,24 gam.

- Chất rắn màu trắng, nâu bám dính trên nỏ thủy tinh gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine; khối lượng mẫu: 0,03 gam.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 158/2023/HS-ST ngày 21/11/2023, Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đặng Thành T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đặng Thành T 08 (Tám) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là ngày 21/02/2023.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Đoàn Văn S 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt 08 năm tù; tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 06/12/2023, bị cáo Đặng Thành T kháng cáo yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Ngày 29/01/2024, bị cáo Đặng Thành T thay đổi kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đặng Thành T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 năm tù là phù hợp. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo nên áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 158/2023/HS-ST ngày 21/11/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, xử phạt bị cáo 07 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi của bị cáo Đặng Thành T thấy rằng:

Ngày 21/02/2023, vì muốn sử dụng ma túy, nên các bị cáo Đặng Thành T, Đoàn Văn S thống nhất mỗi bị cáo góp 200.000 đồng để bị cáo Đoàn Văn S mua ma túy đem về cùng sử dụng. Tại nhà bị cáo Đoàn Văn S ở thôn A, xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, trong lúc các bị cáo Đoàn Văn S, Đặng Thành T đang sử dụng ma túy thì có Nguyễn Văn K đến và Phạm Thị Thảo T1 là vợ bị cáo S về nhà, nên bị cáo S rủ K và T1 cùng tham gia sử dụng ma túy thì K, T1 đồng ý và đều cùng sử dụng ma túy với các bị cáo. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an thành phố Quảng Ngãi bắt quả tang.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Đặng Thành T, Đoàn Văn S về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đặng Thành T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, mặc dù bị cáo không thừa nhận bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tuy nhiên bị cáo đã khai báo đầy đủ về hành vi phạm tội của mình nên vẫn được áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo thể hiện sự ăn năn hối cải, thừa nhận hành vi phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Bị cáo Đặng Thành T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Thành T. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 158/2023/HS-ST ngày 21/11/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Thành T 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 21/02/2023.

2. Về án phí: Bị cáo Đặng Thành T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nơi nhn:

- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;

- Sở Tư pháp tnh Quảng Ngãi;

- VKSND TP Quảng Ngãi;

- TAND TP Quảng Ngãi;

- Công an TP Quảng Ngãi;

- Chi cục THADS TP Quảng Ngãi;

- Bị cáo;

- Lưu hồ sơ.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

 

(Đã ký)

 

 

 

Lê Thị Mỹ Giang

 

Tải về
29-2024-HS-PT-QUANG NGAI 29-2024-HS-PT-QUANG NGAI

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

29-2024-HS-PT-QUANG NGAI 29-2024-HS-PT-QUANG NGAI

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất