Bản án số 10/2023/HS-ST ngày 12-07-2023 của TAND TX. Quảng Trị (TAND tỉnh Quảng Trị) về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 10/2023/HS-ST Quảng Trị
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 10/2023/HS-ST Quảng Trị
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 10/2023/HS-ST ngày 12-07-2023 của TAND TX. Quảng Trị (TAND tỉnh Quảng Trị) về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý |
|---|---|
| Tội danh: | 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TX. Quảng Trị (TAND tỉnh Quảng Trị) |
| Số hiệu: | 10/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/07/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Lê Quang H phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ QUẢNG TRỊ
TỈNH QUẢNG TRỊ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 10/2023/HS-ST
Ngày: 12-7-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Phương Tiến.
Các Hội thẩm nhân dân: - Ông Trần Thanh Lịch.
- Bà Trần Thị Minh Phúc.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Liên - Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân thị xã Quảng Trị.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quảng Trị tham gia phiên
Tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hà - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị,
tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số
08/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 09/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2023 đối với các bị
cáo:
1. Lê Quang H (Tên gọi khác: Đ), sinh ngày 22 tháng 12 năm 1992, tại
Quảng Trị; nơi đăng ký NKTT và nơi ở: Thôn C, xã T, huyện Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh;
giới tnh: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Quang H1
sinh năm 1966 và bà Đặng Thị Minh Ng, sinh năm 1968, trú tại: Thôn C, xã
T, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; vợ: Hoàng Thị Thu Ph, sinh năm
1998, trú tại: Thành phố Hồ Chí Minh; con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm
2016, con nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại bản án số 36/2011/HSPT ngày 31/8/2011 của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 24 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tch”
theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo đã chấp hành xong
bản án vào ngày 22/10/2012.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/12/2022 đến ngày 31/12/2022 được áp
dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa)
2
2. Nguyễn Ngọc N (Tên gọi khác: X), sinh ngày 08 tháng 5 năm 2003,
tại Quảng Trị; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Khu phố D, phường C, thị xã
Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ học vấn: 9/12;
dân tộc: Kinh; giới tnh: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con
ông: Nguyễn Thanh Phương, sinh năm 1980, trú tại: Khu phố D, phường C,
thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị và bà Võ Thị H, sinh năm 1982, trú tại:
Thành phố Hồ Chí Minh; vợ con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2022 đến nay tại Nhà
tạm giữ - Công an thị xã Quảng Trị. (Có mặt tại phiên tòa)
2. Những người tham gia tố tụng khác:
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Võ Minh D, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị. (Vắng mặt)
2. Chị Lê Thị Thanh Ng, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. (Vắng mặt)
- Người làm chứng: Anh Tống Văn T, sinh năm 1988; địa chỉ: Khu phố
C, phường A, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 7 giờ ngày 26/12/2022, Lê Quang H đang uống nước tại quán
Cây Xoài ở thị xã Quảng Trị thì có một thanh niên (không rõ nhân thân, lai
lịch) đến gặp H hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy tổng hợp và hẹn giao ma túy
lúc 17 giờ tại phòng số 3, nhà nghỉ số 8, đường Trần Bình Trọng thuộc
phường 3, thị xã Quảng Trị. Khoảng 8 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô
Honda Blade biển kiểm soát 74H1- 173.78 về chở Võ Minh D) lên nhà H
chơi. Sau đó H đi có công việc đến gần trưa về nhà và ngồi chơi với D được
một lúc thì có Tống Văn T đến. Sau khi ăn trưa xong, H lấy 20 viên ma túy
tổng hợp và các dụng cụ ra để sử dụng. H, T và D mỗi người tự lấy ma túy đặt
lên giấy kẽm, bật lửa để hít. Khi sử dụng hết 3 viên ma túy thì T nhận được
điện thoại của Nguyễn Ngọc N và Tứ nói với Nam chạy đang ở nhà Hào.
Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA
AIBLADE, biển kiểm soát 74E1- 103.53 đến và điện thoại cho T, lúc này T đi
ra ngoài đường đón N và cùng vào nhà H. N đem theo 01 túi ma túy khoảng
25-30 viên bỏ ra gường để mọi người sử dụng. Lúc này trên gường có 2 gói
ma túy, T, H, N, D tiếp tục lấy gói ma túy của N đem vào để sử dụng. Đến
3
khoảng 16 giờ thì T về, còn lại H, N và D tiếp tục sử dụng ma túy. Khoảng 17
giờ cùng ngày, Hào lấy 20 viên ma túy được bỏ trong một đoạn ống nhựa
màu trắng rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74H1- 173.78 lên nhà nghỉ
số 8 ở thị xã Quảng Trị để giao ma túy như đã hẹn. Khi vừa đến khu vực sân
nhà nghỉ số 8 thì gặp lực lượng công an kiểm tra, lúc này H thả 20 viên ma
túy đang cầm ở tay xuống sân nhà nghỉ rồi vứt xe mô tô để bỏ chạy, thì bị lực
lượng công an khống chế và tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Quảng Trị tiến hành khám xét
khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Quang H. Lúc này tại nhà H có D và N vẫn đang
tiếp tục sử dụng ma túy, khi nghe tiếng gọi mở cửa bên ngoài, vì sợ công an
kiểm tra nên D nói với N “vất hàng đi” (vất ma túy). Nghe vậy thì N lấy 02
gói ma túy (01 gói ma túy còn lại của H và 01 gói ma túy của N đang sử
dụng) đem qua phòng kế bên rồi ném ra ngoài qua khe cửa sổ. Sau đó Công
an vào kiểm tra D, N đã khai nhận hành vi ném ma túy nói trên qua của sổ.
Lực lượng Công an đã thu giữ một túi nilon bên trong có chứa 09 viên nén
màu hồng và một túi nilon bên trong có chứa 17 viên nén màu hồng và các
dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
Quá trình điều tra Tống Văn T không thừa nhận hành vi bán ma túy cho
Nguyễn Ngọc N, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng không có kết
quả.
Quá trình TEST nhanh chất ma túy bằng nước tiểu, kết quả H, N, D và
T đều dương tnh với chất ma túy.
Tại Kết luận giám định số 72/KL-KTHS ngày 30/12/2022 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:
20 viên nén màu hồng được niêm phong trong túi nilon ký hiệu NS4
2183417 gửi đến giám định có khối lượng 1,7239g là ma túy loại Methamphetamine.
17 viên nén màu hồng được niêm phong trong túi nilon ký hiệu NS4 2183504
gửi đến giám định có khối lượng 1,4857g là ma túy loại Methamphetamine.
09 viên nén màu hồng được niêm phong trong túi nilon ký hiệu NS4 2183418
gửi đến giám định có khối lượng 0,7821g là ma túy loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ các vật chứng của
vụ án gồm:
- Một đoạn ống nhựa màu trắng, kch thước (13,5x 01)cm, bên trong có
chứa 20 viên nén màu hồng.
- Một túi nilon có viền màu đỏ kch thước (7x5,3)cm, bên trong có chứa
09 viên viên nén màu hồng.
4
- Một túi nilon có viền màu đỏ kch thước (8,8x5,3)cm, bên trong có
chứa 17 viên viên nén màu hồng.
- Một cây kéo dài 13cm, cán nhựa màu vàng đen dài 07cm, lưỡi được
làm bằng kim loại dài 06 cm.
- Một bật lửa màu xanh dài 08 cm.
- Một bật lửa màu vàng dài 08 cm.
- Một hộp nhựa màu hồng kch thước (26,5x 22x6)cm, bên trong có
nhiều mảnh giấy hình chữ nhật có cháy một phần.
- Một chai nhựa trong suốt trên nắp có viền màu đỏ, có chiều dài 22 cm,
trên thân chai có đục một lỗ tròn cách đáy 05cm và được gắn một ống có hình
trụ tròn được quấn bằng một tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có mệnh
giá 1.000 đồng.
- Một chai nhựa trong suốt trên nắp có viền màu đen, có chiều dài 19 cm,
trên thân chai có đục một lỗ tròn cách đáy 4,5cm và được gắn một ống bằng
gỗ hình trụ tròn có chiều dài 13cm, đường kính 0,6cm.
- Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 PROMAX, màu xám, số
seri: F2LDK777H0D4Y, IMEI: 3567321100399688, máy đã qua sử dụng.
Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS-TXQT ngày 19/5/2023 của Viện kiểm
sát nhân dân thị xã Quảng Trị đã truy tố bị cáo Lê Quang H về tội “Tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 và tội “Mua
bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự; truy
tố bị cáo Nguyễn Ngọc N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo
điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quảng Trị giữ
nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên
bố bị cáo Lê Quang H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội
“Mua bán trái phép chất ma tuý”; bị cáo Nguyễn Ngọc N về tội “Tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy”.
- Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều
51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Lê Quang H áp dụng
thêm khoản 1 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Đối
với bị cáo Nguyễn Ngọc N áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình
sự. Đề nghị xử phạt:
Bị cáo Lê Quang H 08 năm 06 tháng tù đến 09 năm 06 tháng tù về tội
“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm
tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi
5
hành án, nhưng được trừ vào số ngày tạm giữ từ ngày 26/12/2022 đến ngày
31/12/2022 và đề nghị tổng hợp hình phạt chung của 02 tội;
Bị cáo Nguyễn Ngọc N 08 năm đến 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày
bị tạm giữ, tạm giam ngày 27/12/2022.
- Về xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản
2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy gồm: 01
(một) túi niêm phong, có mã số NS3A 106492, bên ngoài có dấu hình của Phòng kỷ
thuật hình sự Công an tỉnh Quảng trị và có chữ ký của những người tham gia niêm
phong; 01 (một) túi niêm phong, có mã số NS3 2117337, bên ngoài có dấu hình của
Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng trị và có chữ ký của những người tham
gia niêm phong; 01 (một) cây kéo dài 13cm, cán nhựa màu vàng đen dài 07cm,
lưỡi được làm bằng kim loại dài 06 cm; 01 (một) bật lửa màu xanh dài 08 cm;
01 (một) bật lửa màu vàng dài 08 cm; 01 (một) hộp nhựa màu hồng kích
thước (26,5x22x6)cm, bên trong có nhiều mảnh giấy hình chữ nhật có cháy
một phần; 01 (một) chai nhựa trong suốt trên nắp có viền màu đen, có chiều
dài 19cm, trên thân chai có đục một lỗ tròn cách đáy 4,5cm và được gắn một
ống bằng gỗ hình trụ tròn có chiều dài 13cm, đường kín 0,6cm; 01 (một) chai
nhựa trong suốt trên nắp có viền màu đỏ, có chiều dài 22 cm, trên thân chai có
đục một lỗ tròn cách đáy 05cm.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2
Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà
nước gồm: Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 PROMAX, màu xám,
số seri: F2LDK777H0D4Y, IMEI: 3567321100399688, máy đã qua sử dụng;
một tờ giấy ghi bạc mệnh giá 1000 VNĐ có số seri KX 1466720 được niêm
phong trong gói niên phong có ký hiệu LQ
- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp và quản lý, sử dụng án phí và lệ ph Tòa án đề nghị tuyên bị cáo Lê
Quang Hào, Nguyễn Ngọc Nam mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí
hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Lê Quang H, Nguyễn Ngọc N không tranh luận gì, thừa nhận
hành vi phạm tội của mình và nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm
sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo Lê Quang Hào, Nguyễn Ngọc Nam xin Hội
đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
6
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã
Quảng Trị, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quảng Trị, Kiểm sát
viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và
tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết
định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội và điều luật áp dụng: Lời khai của các bị cáo
trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên
bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 26/12/2022 và lời khai nhận tội về
hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý bị cáo Lê Quang H, Nguyễn
Ngọc N và hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo Lê Quang H; kết
luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy,
Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào ngày 26/12/2022, Lê Quang H có
hành vi đem 20 viên ma túy đến nhà nghỉ số 8, đường Trần Bình Trọng thuộc
khu phố 3, thị xã Quảng Trị để bán cho một đối tượng tại phòng số 3 của nhà
nghỉ thì bị tổ tuần tra công an thị xã Quảng Trị bắt quả tang. Cơ quan cảnh sát
điều tra Công an thị xã Quảng Trị tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn
Quang H phát hiện Lê Quang H cung cấp địa điểm, các dụng cụ và cùng với
Nguyễn Ngọc N cung cấp ma túy để tổ chức cho Võ Minh D và Tống Văn T
cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Tại kết luận giám định số 72/KL-KTHS
ngày 30/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 20
viên nén màu hồng được niêm phong trong túi nilon ký hiệu NS4 2183417 gửi đến
giám định có khối lượng 1,7239g là ma túy loại Methamphetamine; 17 viên nén màu
hồng được niêm phong trong túi nilon ký hiệu NS4 2183504 gửi đến giám định có
khối lượng 1,4857g là ma túy loại Methamphetamine; 09 viên nén màu hồng được
niêm phong trong túi nilon ký hiệu NS4 2183418 gửi đến giám định có khối lượng
0,7821g là ma túy loại Methamphetamine. (Methamphetamine là chất ma túy
nằm trong Danh mục IIC, STT: 247 của Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày
25/8/2022 của Chính phủ). Hành vi của bị cáo Lê Quang H đã phạm vào tội
“Mua bán trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1
Điều 251 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Lê Quang H và Nguyễn Ngọc N đã
phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt
được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát
nhân dân thị xã Quảng Trị truy tố bị cáo Lê Quang H về tội “Tổ chức sử dụng

7
trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 255 và khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015; bị cáo
Nguyễn Ngọc N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” được quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn pháp luật.
[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi:
Bị cáo Lê Quang H và Nguyễn Ngọc N là người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp
luật. Nhưng vì muốn được hưởng thụ, nên bị cáo Lê Quang H và Nguyễn
Ngọc N đã tổ chức cho người khác và bản thân sử dụng trái phép chất ma tuý.
Hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý“ của Lê Quang H và Nguyễn
Ngọc N là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc
quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã
hội và các tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội
nên cần phải xét xử các bị cáo một cách nghiêm khắc mới đảm bảo tnh răn
đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Ngoài ra, bị cáo Lê Quang H vì muốn có
tiền chi tiêu cho bản thân nên bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép chất ma
tuý, hành vi “Mua bán trái phép chất ma tuý” là nguy hiểm cho hội, là nguyên
nhân dẫn đến các tội phạm khác.
[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của
các bị cáo:
Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị Lê
Quang H và Nguyễn Ngọc N đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của
mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” quy định tại
điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Ngọc Nacó ông
bà nội là người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã được
tặng thưởng huân chương kháng chiến, nên được hưởng thêm tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét vai trò của các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Lê Quang H
là người đã tổ chức sử dụng ma tuý tại nhà ở của mình, chuẩn bị, cung cấp ma
tuý và các dụng cụ cho Võ Minh D và Tống Văn T sử dụng, bị cáo Nguyễn
Ngọc N là đem ma tuý đến nhà Lê Quang H để tổ chức cho Võ Minh D và
Tống Văn T cùng sử dụng ma tuý, với tình tiết phạm tội nêu trên bị cáo Lê
Quang H phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo Nguyễn Ngọc N. Bị cáo Lê
Quang H là người trực tiếp đem ma tuý đi bán cho người khác, nên bị cáo Lê
Quang H còn phải chịu thêm hình phạt về tội Mua bán trái phép chất tuý.
Xét về nhân thân, bản án số 36/2011/HSPT ngày 31/8/2011 của Toà án

8
nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt bị cáo Lê Quang H 24 tháng tù, về tội “Cố ý
gây thương tch” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, bị cáo đã
chấp hành xong bản án vào ngày 22/10/2012 nên được coi là nhân thân xấu.
Đối với Bị cáo Nguyễn Ngọc N có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu. Nên khi
lượng hình cần xem xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ và mức độ về hành vi
của các bị cáo gây ra.
Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự
buộc các bị cáo Lê Quang H và Nguyễn Ngọc N phải chấp hành hình phạt tại
cơ sở giam giữ trong một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới,
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
[5] Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh người
thanh niên tên “K” theo H khai đã bán ma túy cho Hào tại sân vận động thuộc
phường 1, thành phố Đông Hà nhưng không có kết quả. Cơ quan điều tra tiếp
tục xác minh, khi nào xác định được danh tính và chứng minh được hành vi
mua bán trái phép chất ma túy của người này sẽ xử lý bằng một vụ án khác.
[6] Đối với Tống Văn T và Võ Minh D là đối tượng được các bị cáo tạo
điều kiện cho sử dụng ma túy nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên, hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tống Văn T và Võ Minh D
đã bị Công an thị xã Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chnh theo quy định pháp
luật.
[7] Đối với bà Lê Thị Thanh Ng là chủ xe mô tô nhãn biển kiểm soát
74H1-173.78 cho Lê Quang H mượn xe nhưng không biết Lê Quang H sử
dụng xe mô tô để đi bán ma túy nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.
[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ và
trả lại cho Võ Minh D một điện thoại di động nhãn hiệu OPPO cảm ứng, màu
đen, số IMEI 1: 862765051031750, số IMEI 2: 862765051031743, máy đã
qua sử dung. Thu giữ và trả lại cho bị cáo Lê Quang H một túi vải màu xanh
có chữ RANDO màu trắng; tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 5.500.000
đồng; một điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đen, bên trong có gắn 02 thẻ
sim điện thoại, máy đã qua sử dung; một điện thoại di động nhãn hiệu
SAMSUNG cảm ứng, màu đen, pha ngoài có ốp nhựa màu lam, số IMEI 1:
355915101599165, số IMEI 2: 355916110599163, máy đã qua sử dung; một
đôi dép màu đen, có chữ “GUCCI Made in Italy”, đã qua sử dụng. Thu giữ
của Lê Quang Hào một xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, biển kiểm soát
74H1-173.78, chủ sở hữu là chị Lê Thị Thanh Ng, xe đã qua sử dụng, không
kiểm tra chất lượng bên trong. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.
9
Xét thấy việc trả lại các vật chứng nói trên không ảnh hưởng đến quá
trình giải quyết quyết vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Quảng
Trị xử lý trả lại cho chủ sở hữu có căn cứ đúng quy định pháp luật. Bị cáo,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì về tài sản đã được
trả lại. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] 01 (một) túi niêm phong, có mã số NS3A 106492, bên ngoài có dấu hình
của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng trị và có chữ ký của những người
tham gia niêm phong; 01 (một) túi niêm phong, có mã số NS3 2117337, bên ngoài có
dấu hình của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng trị và có chữ ký của những
người tham gia niêm phong; 01 (một) cây kéo dài 13cm, cán nhựa màu vàng đen
dài 07cm, lưỡi được làm bằng kim loại dài 06 cm; 01 (một) bật lửa màu xanh
dài 08 cm; 01 (một) bật lửa màu vàng dài 08 cm; 01 (một) hộp nhựa màu hồng
kch thước (26,5x22x6)cm, bên trong có nhiều mảnh giấy hình chữ nhật có
cháy một phần; 01 (một) chai nhựa trong suốt trên nắp có viền màu đen, có
chiều dài 19cm, trên thân chai có đục một lỗ tròn cách đáy 4,5cm và được gắn
một ống bằng gỗ hình trụ tròn có chiều dài 13cm, đường kín 0,6cm; 01 (một)
chai nhựa trong suốt trên nắp có viền màu đỏ, có chiều dài 22 cm, trên thân
chai có đục một lỗ tròn cách đáy 05cm là vật không có giá trị sử dụng và cấm
tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. (Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106
của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự).
[10] 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 PROMAX, màu
xám, số seri: F2LDK777H0D4Y, IMEI: 3567321100399688, máy đã qua sử
dụng; một tờ giấy ghi bạc mệnh giá 1000 VNĐ có số seri KX 1466720 được
niêm phong trong gói niêm phong có ký hiệu LQ (Kèm theo kết luận giám
định số: 221/KL-KTHS ngày 17/02/2023 của Phòng kỷ thuật hình sự công an
tỉnh Quảng Trị) được dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu
nộp ngân sách nhà nước. (Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố
tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự)
[11] Hiện bị cáo Nguyễn Ngọc N đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam, cần tiếp tục ra quyết định tạm giam đối với các bị cáo để đảm bảo
chấp hành án. (Căn cứ Điều 329 của Bộ luật Hình sự).
Hiện bị cáo Lê Quang H đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn lệnh cấm
đi khỏi nơi cư trú, cần tiếp tục thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị
cáo Lê Quang H cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[13] Về án phí: Các bị cáo Lê Quang H, Nguyễn Ngọc N mỗi bị cáo
phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,

10
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều
38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều
106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đối với bị cáo Lê Quang H
áp dụng thêm khoản 1 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình
sự. Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc N áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Quang H (Đ) phạm tội“Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý“ và tội ‘‘Mua bán trái phép chất ma tuý“. Bị cáo Nguyễn
Ngọc N (X) phạm tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý“.
Xử phạt: Bị cáo Lê Quang H: 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma tuý“, 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội
“Mua bán trái phép chất ma tuý“. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, hình phạt
chung buộc bị cáo Lê Quang H phải chấp hành là: 11 (mười một) năm tù, thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án và được trừ thời gian
tạm giữ từ ngày 26/12/2022 đến này 31/12/2022 .
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc N 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ
ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 27/12/2022.
2. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) túi niêm phong, có mã số NS3A 106492, bên ngoài
có dấu hình của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng trị và có chữ ký của
những người tham gia niêm phong; 01 (một) túi niêm phong, có mã số NS3
2117337, bên ngoài có dấu hình của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng trị
và có chữ ký của những người tham gia niêm phong; 01 (một) cây kéo dài 13cm,
cán nhựa màu vàng đen dài 07cm, lưỡi được làm bằng kim loại dài 06 cm; 01
(một) bật lửa màu xanh dài 08 cm; 01 (một) bật lửa màu vàng dài 08 cm; 01
(một) hộp nhựa màu hồng kch thước (26,5x22x6) cm, bên trong có nhiều
mảnh giấy hình chữ nhật có cháy một phần; 01 (một) chai nhựa trong suốt trên
nắp có viền màu đen, có chiều dài 19cm, trên thân chai có đục một lỗ tròn
cách đáy 4,5cm và được gắn một ống bằng gỗ hình trụ tròn có chiều dài
13cm, đường kín 0,6cm; 01 (một) chai nhựa trong suốt trên nắp có viền màu
đỏ, có chiều dài 22 cm, trên thân chai có đục một lỗ tròn cách đáy 05cm.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu
Iphone 12 PROMAX, màu xám, số seri: F2LDK777H0D4Y, IMEI:
11
3567321100399688, máy đã qua sử dụng; một tờ giấy ghi bạc mệnh giá 1000
VNĐ có số seri KX 1466720 được niêm phong trong gói niêm phong có ký
hiệu LQ.
(Kèm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/5/2023 giữa
Công an thị xã Quảng Trị với Chi cục Thi hành án thị xã Quảng Trị)
3. Về án phí: Các bị cáo Lê Quang H, Nguyễn Ngọc N mỗi bị cáo phải
chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng
mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc niêm yết bản án./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Quảng Trị;
- VKSND tỉnh Quảng Trị;
- VKSND thị xã Quảng Trị;
- Công an thị xã Quảng Trị;
- Cơ quan cảnh sát điều tra TXQT;
- Nhà tạm giữ;
- Bị cáo; NCQLNVLQ;
- Thi hành án hình sự;
- Chi cục THADS thị xã Quảng Trị;
- Lưu: Hồ sơ, Tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Phương Tiến
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 07/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 15/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 05/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 23/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 08/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm