Bản án số 213/2023/HS-PT ngày 07-12-2023 của TAND TP. Đà Nẵng về về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (thuốc lắc)

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 213_2023_HS-PT_ DA NANG

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 213_2023_HS-PT_ DA NANG

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 213/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 213/2023/HS-PT ngày 07-12-2023 của TAND TP. Đà Nẵng về về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (thuốc lắc)
Tội danh: 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 213/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Mai Thị Kim T tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (thuốc lắc)
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 213/2023/ HS-PT
Ngày: 07/12/2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Minh Long
Các thẩm phán: Trần Thị Bé
Ông Phan Vĩnh Chuyển
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Tùng Lâm - Thư ký TAND TP Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân n thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 208/2023/TLPT-HS ngày 10
tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Mai Thị Kim T do kháng cáo của bị cáo đối với
Bản án hình sự thẩm số 121/2023/HS-ST ngày 28 tháng 09 năm 2023 của Tòa án
nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo: Mai Thị Kim T (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 29 tháng
05 năm 1985, tại Q; Nơi ĐKNTTT: Thôn L, xã T, thành phố Q, tỉnh Q; Nơi trú: Tổ
60, phường H, quận L, thành phố Đ; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học
vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con
ông Mai Tấn P (chết) Thị L (sống); chồng Bảo H (đã ly hôn) 02 con sinh
năm 2011 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/05/2023 bị Công an
quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng xphạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về
hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/4/2023 đến
ngày 09/6/2023 thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh, hiện đang tại ngoại. mặt
tại phiên tòa.
Trong vụ án còn có các bị cáo Đồng Minh T1, Lê Xuân T2, Hồ Thị Thu M nhưng
không kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
ơ
Theo các tài liệu trong hồ ván diễn biến tại phiên tòa, nội dung ván
được tóm tắt như sau:
2
Vào lúc 22h10 ngày 24/4/2023, tại phòng 303 quán karaoke B, số 22 T, phường
H, quận L, thành phố Đ, quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu phối hợp
với Công an phường Hòa Minh tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện, bắt quả
tang: Đồng Minh T1, Mai Thị Kim T, Lê Xuân T2 đang tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy cùng Nguyễn Thị N.
Tang vật thu giữ: 01 (một) gói nylon kích thước 02x2.5cm bên trong chứa chất
bột màu trắng; 01 (một) mảnh vỡ viên nén màu nâu nghi chất ma túy; 01 (một) dĩa
sứ màu trắng bị vỡ đôi, 01 (một) thẻ nhựa màu trắng ghi chữ C; 01 (một) ống hút
được quấn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng; 01 (một) CMND mang tên
Đồng Minh T1; 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Samsung số imei:
352233119867xxx/01 gắn sim số 0905.643.xxx; 01 (một) điện thoại di động hiệu
Iphone 13 Promax số seri PF9H2V3xxx gắn sim số 0941.295.xxx; 01 (một) điện thoại
di động hiệu Samsung số imei: 358230102597xxx/37 gắn sim số 0905.253.xxx (I).
T T1 khai nhận nguồn ma túy cả nhóm sử dụng mua của Hồ Thị Thu M. Đến
11h40 ngày 25/4/2023, quan điều tra đã tiến hành giữ trong trường hợp khẩn cấp
đối với Hồ Thị Thu M, tiến hành khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của Hồ Thị Thu M ở địa
chỉ: nhà số 26 L, phường H, quận L, thành phố Đ, tiếp tục thu giữ: 01 (một) điện thoại
di động hiệu Iphone 8 Plus, sseri: F17WNE2UJxxx, gắn sim số 0788.032.xxx; 01
(một) căn cước công dân số 048196001xxx mang tên Hồ Thị Thu M (II).
quan điều tra còn thu giữ của Mai Thị Kim T: 01 (một) xe y BKS 76B1-
085.94 màu xanh hiệu Honda Vision, số khung: 088xxx, số máy: 0088xxx (III).
Theo Kết luận giám định số 352/KL, ngày 28/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự
Công an thành phố Đà Nẵng xác định:
- 01 (một) mảnh vỡ viên nén màu nâu trong mẫu hiệu A1 gửi giám định là ma
tuý, loại MDMA, khối lượng mẫu A1: 0,168 gam.
- Chất bột màu trắng trong mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma tuý, loại
ketamine, khối lượng: 0,012 gam.
Quá trình điều tra, Đồng Minh T1, Mai Thị Kim T, Lê Xuân T2 và người sử dụng
ma túy Nguyễn Thị N thừa nhận hành vi của mình, sau đó T1 T2 thay đổi lời khai.
Tuy nhiên, từ lời khai ban đầu và các vật chứng thu giữ xác định:
Khoảng 17h ngày 24/4/2023, Đồng Minh T1, Xuân T2, Nguyễn Thị N cùng
ngồi ăn nhậu tại quán T, đường Đ, quận L, thành phố Đ. Đến khoảng 19h cùng ngày,
T1 nảy sinh ý định muốn sử dụng ma tuý nên đã rủ T2, N cùng “đi nghe nhạc”. Khi
nghe T1 rủ “đi nghe nhạc” thì T2 biết đi sử dụng trái phép chất ma tuý, còn N chỉ
nghĩ là đi nghe nhạc hát karaoke nên N đồng ý đi cùng. Đến khoảng 19h10 cùng
ngày, T1 liên hệ với Mai Thị Kim T qua zalo rủ T cùng sử dụng ma tuý, nhT mua ma
tuý, đặt phòng karaoke để cả nhóm cùng sử dụng. T thống nhất liên hệ với quán
karaoke B để đặt phòng; sử dụng số điện thoại 0905.643.112 liên hệ với Hồ Thị Thu M
3
qua số điện thoại 0788.032.408 để đặt mua 02 (hai) viên thuốc lắc 01 (một) chỉ
ketamin (01 gam) với giá 2.200.000 đồng. M gửi số tài khoản đứng tên Hồ Thị Thu M
mở tại ngân hàng TMCP Đầu Phát triển Việt Nam BIDV s56010000878xxx
cho T, T gửi số tài khoản này cho Đồng Minh T1 vào lúc 19h58 cùng ngày, T1 đã
chuyển khoản đến tài khoản này của M số tiền 2.200.000 đồng mua ma tuý.
Đến 19h45 cùng ngày, T1, T2, N đến quán karaoke B nhận phòng 303. T điều
khiển xe máy BKS 76B1-085x.xx đến quán karaoke B, gặp M nhận ma tuý. Sau đó, T
đem ma tuý lên phòng 303 rồi bẻ 02 (hai) viên thuốc lắc thành 04 (bốn) mảnh để lên
bàn. T tiếp tục đổ gói ma tuý ketamine ra dĩa sứ sử dụng thẻ nhựa (dĩa sứ và thẻ
nhựa mượn của quán karaoke B trước đó) phân ma tuý ketamin ra thành nhiều đường
nhỏ để cả nhóm cùng sử dụng. T1 lấy 01 (một) tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng ra
để quấn thành ống hút, nhưng vì quấn không được nên T1 đã đưa cho T2 quấn. Sau khi
quấn ống hút xong thì T2 lấy 01 (một) mảnh viên thuốc lắc đưa cho T sdụng; lấy 01
(một) mảnh viên thuốc lắc nhét vào miệng của N, nhưng N không dùng nên đã nhả ra
ném xuống đất. T1, T2 tlấy thuốc lắc đsử dụng cho bản thân. Sau đó, T1, T2, T
cùng nhau sử dụng ma tuý loại ketamine, còn N không sử dụng ma tuý. Đến 22h10
cùng ngày thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt quả tang như đã nêu ở trên.
Đối với Hồ Thị Thu M: M bán ma túy cho T lần đầu, nguồn ma túy M mua của
người tên Quý” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) với giá 1.600.000 đồng, M
điều khiển xe tô hiệu Attila Eliza BKS 92N1-418.30 (xe thuộc sở hữu của anh
Trương Văn H, sinh năm 1995, trú tại tổ 02, phường H, quận L, thành phố Đ, chồng
M) đến ngã đường Đ N, quận L, thành phố Đ để nhận ma ttrả tiền mua ma
tuý cho “Q” bằng tiền mặt. Sau khi nhận ma ttừ “Q”, M đem số ma tuý trên đến
trước cửa quán karaoke B giao cho T. M bán ma túy cho T thu lợi 600.000 đồng. Số
tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma tuý cho T, M đã tiêu xài cá nhân hết.
* Tại Bản án hình sự thẩm số 121/2023/HS-ST ngày 28/09/2023 của Tòa án
nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ
luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Mai Thị Kim T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy”, trừ đi thời gian bị tạm giam từ ngày 24/4/2023 đến ngày
09/6/2023 43 ngày, n phải chấp hành 07 năm 4 tháng 17 ngày tù. Thời gian chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, Bản án thẩm n quyết định về tội danh hình phạt đối với các bị
cáo Đồng Minh T1, Lê Xuân T2, Hồ Thị Thu M nhưng các bị cáo này không kháng cáo,
không bị kháng nghị; phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
4
- Ngày 02/10/2023, bị cáo Mai Thị Kim T đơn kháng cáo với nội dung: Khi
phạm tội bị cáo đang có thai sau đó bị hư thai, hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha đã mất
vào tháng 9/2023, mẹ già yếu trên 70 tuổi bị tàn tật ngồi xe lăn, đã ly hôn chồng 2
con còn nhỏ dại; mức án Tòa thẩm tuyên là quá nặng; xin giảm nhẹ hình phạt xin
được hưởng án treo; xin xem xét trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS
76B1 08xxx để làm phương tiện đi lại nuôi mẹ già yếu và các con nhỏ.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bcáo Mai Thị Kim T thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ
thẩm đã nêu kết luận; bị cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình
phạt và cho bị cáo hưởng án treo; xin trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS
76B1 08xxx.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng quan điểm vviệc giải
quyết vụ án như sau: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Mai Thị Kim T cùng các đồng
phạm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 255 Bộ luật hình sự là căn cứ, đúng pháp luật. Trong ván, bị cáo người
đồng phạm vai trò tích cực chđứng sau bị cáo T1; mức án 7 năm 6 tháng đối với
bị cáo phù hợp với tính chất, vai trò phạm tội của bị cáo. Tài liệu tại hồ sơ vụ án
thể hiện khi phạm tội bị cáo phụ nữ thai sau đó thì bị mất thai, nhưng khi xét xử
Tòa án cấp thẩm không áp dụng điểm n khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo thiếu
sót, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng bổ sung cho bị cáo. Tuy nhiên, xét mức án
trên phù hợp, không nặng; các tình tiết thuộc về nhân thân, điều kiện hoàn cảnh gia
đình của bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét và áp dụng cho bị cáo theo khoản 2
Điều 51 BLHS; nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt xin
hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.
Về nội dung kháng cáo xin trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS
76B1 08xxx; xét bị cáo T không sdụng chiếc xe này vào việc phạm tội, chỉ sử
dụng xe này di chuyển từ nơi ở đến quán Karaoke Ba Miền để cùng đồng bọn tổ chức sử
dụng trái phép chất ma y, đây phượng tiện đi lại của bị cáo; nên đề nghị chấp nhận
nội dung kháng cáo này trả lại xe máy trên cho bị cáo quản lý, sở hữu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
5
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Mai Thị Kim T đã khai nhận toàn bộ hành vi
phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ tại hồ
vụ án, phù hợp với kết luận của bản án thẩm. Do vậy, HĐXX sở khẳng định:
Bản án hình sự sơ thẩm số 121/2023/HS-ST ngày 28/09/2023 của Tòa án nhân dân quận
Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Mai Thị Kim T cùng các đồng phạm
Đồng Minh T1, Xuân T2 v ti “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b
khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
[2] Trong vụ án này bị cáo T người đồng phạm, nghe theo sự rủ rê, chỉ đạo của
bị cáo T1; khi được T1 rủ sử dụng ma túy thì bị cáo đã đồng ý, bị cáo cũng là người liên
hệ đặt phòng Karaoke B để tổ chức hát và sử dụng ma túy, bị cáo cũng là người trực tiếp
liên hệ với bị cáo Hồ Thị Thu M để đặt mua 2 viên thuốc lắc 1 chỉ Ketamine với giá
2.200.000 đồng, cung cấp số tài khoản của M cho T1 để T1 chuyển tiền mua ma túy cho
M; bị cáo T cũng chính người mang ma túy lên phòng, bẻ 02 viên thuốc lắc thành 4
mảnh để lên bàn, đổ ma túy Ketamine ra đĩa sứ sử dụng thẻ nhựa để chẻ ma túy ra
thành nhiều đường nhỏ cho cả bọn gồm: T1, T2 thụ hưởng là Nguyễn Thị N cùng sử
dụng; vai trò phạm tội của bị cáo là tích cực, chỉ đứng sau bị cáo T1.
[3] Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt xin hưởng án treo của bị
cáo Mai Thị Kim T, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo và đồng phạm
nguy hiểm cho hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản của nhà nước vcác
chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an hội tại địa phương, nên cần xử phạt
nghiêm. Tòa án cấp thẩm áp dụng hình phạt thời hạn đối với bị cáo là cần thiết
để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên,
căn cứ các tài liệu chứng cứ tại hồ vụ án thể hiện: Khi bị bắt đưa vào nhà tạm
giữ ngày 24/4/2023 xác định bị cáo quan hệ tình dục trước đó 7 ngày; tại phiếu siêu
âm thai ngày 01/6/2023 ngày 07/6/2023 thể hiện bị cáo người thai, nên ngày
01/6/2023 Trưởng nhà tạm giữ Công an quận Liên Chiểu đã Văn bản thông báo về
việc bị can nữ có thai 06 tuần 3 ngày, trên cơ sở đó Cơ quan điều tra Công an quận Liên
Chiểu đã thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp cho bảo lĩnh đối với
bị cáo; sau đó tại phiếu siêu âm đề ngày 21/6/2023 thể hiện bị cáo bị mất thai. Tuy
nhiên, khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự “Người phạm tội phụ nthai” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 BLHS cho
bị cáo thiếu sót; mặt khác xét hoàn cảnh gia đình bị cáo thật skhó khăn đã ly hôn
chồng, 2 con sinh năm 2011 2014, cha chết mẹ già yếu bị tàn tật ngồi xe lăn. Do
vậy, HĐXX thấy bị cáo tình tiết mới chưa được Tòa án cấp thẩm áp dụng, nên
6
chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Riêng
kháng cáo xin hưởng án treo, HĐXX không chấp nhận.
[4] Xét nội dung kháng cáo liên quan đến quyết định xử vật chứng tịch thu
sung công quỹ chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS 76B1 08xxx của bị cáo
Mai Thị Kim T, HĐXX nhận thấy: Không tài liệu chứng cứ nào thể hiện bị cáo T đã
sử dụng chiếc xe này vào việc phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma y; bị cáo
chỉ sử dụng xe này để di chuyển từ nơi đến quán Karaoke B, đây phương tiện đi lại
kiếm sống của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu sung công quỹ chiếc xe này
nhưng không nêu rõ lý do trong bản án không đúng, không phù hợp với quy định của
pháp luật. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm thấy căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo
này của bị cáo, tuyên trả lại chiếc xe trên cho bị cáo quản lý, sở hữu.
[3] Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Do được chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
I. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a, c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố
tụng hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Mai Thị Kim T; sửa một phần
bản án thẩm, giảm hình phạt sửa phần xử vật chứng liên quan đến chiếc xe
Honda Vision BKS 76B1 08xxx của bị cáo T.
1.1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58
Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bị cáo Mai Thị Kim T 07 (Bảy) năm về tội “Tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy”, trừ đi thời gian bị tạm giam từ ngày 24/4/2023 đến ngày
09/6/2023 là 43 ngày, còn phải chấp hành 06 năm 10 tháng 17 ngày tù. Thời gian chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
1.2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố
tụng Hình sự: Trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision BKS 76B1 08xxx màu
xanh, số khung: 088xxx, số máy: 0088xxx cho bị cáo Mai Thị Kim T. (Xe máy trên hiện
do Chị cục thi hành án dân squận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đang quản theo
Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/9/2023).
II. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Mai Thị Kim T
không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
7
III. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Phòng HSNV CA Tp Đà Nẵng;
- Chi cục THADS quận Liên Chiểu;
- VKSND quận Liên Chiểu;
- CQCSĐT Công an quận Liên Chiểu;
- Toà án nhân dân quận Liên Chiểu;
- Vụ GĐKT I – TAND tối cao;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Minh Long
8
Các Thẩm phán
Phan Vĩnh Chuyển Trần Thị Bé
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Trần Minh Long
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Phòng HSNV CA Tp Đà Nẵng;
- Chi cục THADS quận Liên Chiểu;
- VKSND quận Liên Chiểu;
- CQCSĐT Công an quận Liên Chiểu;
- Toà án nhân dân quận Liên Chiểu;
- Vụ GĐKT I – TAND tối cao;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HS.
Phan Vĩnh Chuyển
10
11
12
13
Tải về
213_2023_HS-PT_ DA NANG 213_2023_HS-PT_ DA NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

213_2023_HS-PT_ DA NANG 213_2023_HS-PT_ DA NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất