Bản án số 135/2023/HS-PT ngày 08/08/2023 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 135/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 135/2023/HS-PT ngày 08/08/2023 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội danh: 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thanh Hóa
Số hiệu: 135/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Thị C phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THANH HÓA Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 135/2023/HSPT
Ngày: 08/8/2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Văn Quân
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Long
Bà Nguyễn Thu Hà
- Thư ký phiên tòa: Bà Đỗ Kim Oanh - Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thị Thu Huyền - Kiểm sát viên
Ngày 08 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử
phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ s156/2023/TLPT-HS ngày 26 tháng 6
năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị C do kháng cáo của bị cáo đối với Bản án
hình sự thẩm số 34/2023/HS-ST ngày 24/5/2023 của TAND thành phố SS, tỉnh
Thanh Hóa.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 150/2023/QĐXXPT-HS, ngày
12/7/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2023/HSPT-QĐ ngày 24/7/2023.
- Bị cáo có kháng cáo:
* Nguyễn Thị C - sinh năm 1993; Nơi ĐKNKTT: Thôn GM, xã TT, huyện
NC, tỉnh Thanh Hóa; Nơi hiện nay: Tiểu Khu TH, TT. NC, huyện NC, tỉnh
Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh;
giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đức D (Đã chết)
bà: Nguyễn Thị H; chồng Xuân D1 (Đã chết) và 02 con, lớn sinh năm
2015, nhỏ sinh năm 2019;
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/11/2022 đến ngày 13/01/2023 thay
đổi biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi trú”.
Có mặt tại phiên tòa.
- Ngoài ra còn 02 bị cáo không kháng cáo không bị kháng cáo, kháng
nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Hồi 23 giờ 55 phút ngày 27 tháng 11 năm 2022, tại bàn V10 quán Bar
Diamond Club thuộc thôn TP, xã QĐ, thành phố SS, tỉnh Thanh Hóa. Tổ công tác
Công an thành phố SS kiểm tra, phát hiện bắt 04 đối tượng gồm: Phùng Đảo Phi Y,
Nguyễn Thị C, Lữ Văn Đ, Hoàng Quốc Ph có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép
chất ma túy. Thu giữ tại góc phía Đông Nam của bàn V10, giữa ghế bờ tường
của quán: 01 tờ tiền giấy mệnh giá 1.000 đồng có số seri NS 7266572 được gấp lại,
bên trong chứa chất bột màu trắng (niêm phong hiệu V10); 01 điện thoại
IPhone 12 Promax, 01 túi da, số tiền 1.502.000 đồng của Phùng Đào Phi Y; 01
điện thoại IPhone 13 Promax, 01 túi da, số tiền 2.552.000 đồng của Nguyễn Thị C;
01 điện thoại Realme C35 của Lữ Văn Đ; 01 điện thoại Samsung Galaxy S10 của
Hoàng Quốc P. Các đối tượng khai nhận sử dụng ma túy, tự lấy mẫu nước tiểu
đựng trong các chai nhựa ghi rõ họ tên, địa chỉ.
Tiến hành xét nghiệm nhanh, kết quả: Phùng Đào Phi Y, Nguyễn Thị C, Lữ
n Đ, Hoàng Quốc P dương tính với Ketamine, MDMA, Methamphetamine.
Tiến hành xác định hiện trường tại khu vực bàn V10 thu giữ 01 bật lửa màu
hồng; 01 mảnh giấy gói ma túy (niêm phong kí hiệu BL-V10; G-V10).
Tại Bản kết luận giám định s 4223/KL-KTHS ngày 02 tháng 12 năm 2022
của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng
của phong bì niêm phong kí hiệu V10 gửi giám định ma túy, có tổng khối lượng
0,355 gam, loại Ketamine.
Kết luận giám định số 4287/KL-KTHS ngày 07 tháng 12 năm 2022 của
Phòng kthuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: m thấy ma túy loại
MDMA, Ketamine trong mẫu nước tiểu ghi thu của: Phùng Đào Phi Y, Lữ Văn Đ,
Nguyễn Thị C, Hng Quốc P gửi đến giám định.
Kết luận giám định số 1074/KL-KTHS ngày 14 tháng 3 năm 2023 của
Phòng Kthuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Tìm thấy ma túy, loại
Ketamine bám dính trong tờ giấy dạng giấy ăn đã qua sử dụng của phong niêm
phong kí hiệu G-V10 gửi giám định, không xác định được khối lượng chất ma túy.
Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận: Chiều ngày 27/11/2022,
Nguyễn Thị C điện thoại cho Phùng Đào Phi Y để đến phòng trọ của Y phòng
408 Chung AT HOME thuộc phường Đông H, thành phố Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa chơi. Quá trình nói chuyện, Y nói có ma túy kẹo, rủ C cùng sử dụng. C
nói lại cũng ma túy ke. Sau đó, C để ma y ke trong túi nilon nhỏ gói bên
3
ngoài bằng tờ giấy dạng giấy ăn. Khi đến phòng trọ, C đưa gói giấy chứa ma y
cho Y cầm. Khi cả hai ăn uống xong thì Y rủ C đến quán Bar Diamond Club nghe
nhạc, sử dụng ma túy, C đồng ý. Trước khi đi Y bẻ một mảnh ma túy kẹo sử dụng,
phần còn lại gói chung với số ma túy của C đưa.
Đến khoảng 22 giờ 00, Y đem theo gói ma túy rồi cùng C đi taxi xuống quán
Diamond Club. Trên đường đi, Y nhắn tin rủ bạn Hoàng Quốc P uống rượu
nghe nhạc cùng, P đồng ý rủ thêm Lữ Văn Đ đi cùng. Khi đến quán Diamond
Club, Y C vào đặt bàn V10 tầng 01. Tại bàn V10, Y lấy mảnh ma túy kẹo ra
bẻ thành nhiều mảnh nhỏ để trên mặt bàn rồi chỉ cho C lấy sdụng. C sử dụng
nước lọc nuốt cùng mảnh kẹo nhỏ. Sau khi sử dụng 01 mảnh kẹo, C cầm gói ma
túy còn lại để trên ghế giữa chỗ ngồi của Y, C. Đến khoảng 23 giờ 30 phút, P và Đ
đến Y nói C đưa gói ma túy cho P, Đ sdụng. C chcho Đ chỗ đgói ma túy, Đ
lấy sử dụng 01 mảnh kẹo uống cùng nước lọc và đưa cho P mảnh kẹo còn lại uống
cùng nước lọc. Sau khi sử dụng xong ma túy kẹo, Đ đi lại nói với C “Chị xào ke
đi”, C nói không biết xào nên Đ hỏi C tiền giấy không thì C đưa cho Đ tờ tiền
giấy mệnh giá 1.000 đồng. Đ vứt tờ giấy gói ma y lại bàn rồi cầm tờ tiền cùng
gói nilon đựng ma túy đi vào phòng vệ sinh, đổ ma túy ra tờ tiền giấy rồi gấp lại,
ném túi nilon vào bồn vệ sinh, xnước. Sau đó để tờ tiền đựng ma túy lên nắp bể
nước bồn vệ sinh dùng bật lửa hơ bên ngoài tờ tiền làm cho ma túy bên trong nóng
mạnh nhiều lần để ma túy mịn. Đ đem ma túy lại bàn V10 dùng móng tay
ngón út bàn tay phải xúc đưa lên mũi để C hít vào cơ thể, sau đó xúc ma túy cho Y
hít o thể rồi gọi P đi vào nhà vệ sinh, tại đây Đ tiếp tục dùng móng tay ngón
út xúc một phần ma túy cho P sử dụng rồi quay lại. Tại bàn, Đ tự xúc sdụng, số
ma túy còn lại cất vào giữa ghế và bờ tường của quán, khi cả nhóm ngồi nghe nhạc
thỉ bị phát hiện, bắt quả tang.
Do hành vi trên, tại Bản án hình sự thẩm số 34/2023/HS-ST ngày
24/5/2023 của TAND thành phố SS, đã quyết định:
Căn cứ: điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17;
Điều 58 BLHS (đối với các bị cáo); khoản 2 Điều 51 BLHS (đối với bị cáo Y).
Điểm a, c khoản 2 ; điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331,
Điều 333 BLTTHS.
Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án
Tuyên bố: Các bị cáo Phùng Đào Phi Y, Nguyễn Thị C, Lữ Văn Đ phạm tội
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
4
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị C 07 (bảy) năm, nhưng được trừ đi thời hạn
tạm giữ, tạm giam (từ ngày 28/11/2022 đến ngày 13/01/2023). Thời hạn tính từ
ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về tội danh, hình phạt với bị cáo Phùng Đào Phi
Y; Lữ Văn Đ; xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 25 tháng 5 năm 2023 bị cáo Nguyễn Thị C có đơn kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị C giữ nguyên yêu cầu nội dung
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử Bị cáo giao nộp bổ sung đơn trình bày về
điều kiện sống, hoàn cảnh gia đình phiếu siêu âm, các kết quả xét nghiệm nước
tiểu, huyết học của Bệnh viện đa khoa huyện NC, tỉnh Thanh hóa về việc bị cáo
đang có thai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án:
Về hình thức: Bị cáo Nguyễn Thị C nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật
định nên đề nghị HĐXX chấp nhận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung: Tại phiên tòa bcáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung
bản án thẩm, khi quyết định hình phạt, cấp thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, để quyết định mức hình phạt là phù hợp. Bị cáo
đơn trình bày điều kiện, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi con nhỏ, hiện
đang thai, chồng vừa mới chết; chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Đề
nghị XX xem xét, ghi nhận các tài liệu chứng cứ mới mà bcáo đã giao nộp,
căn cứ vào Điểm n, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 51 của BLHS; các điều 353;
355 của Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa bản án thẩm theo hướng giảm nhẹ một
phần hình phạt cho bị cáo. Đề nghị mức giảm hình phạt từ 18 đến 24 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT X
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo Nguyễn Thị C nộp trong thời hạn luật định
hợp lệ, được chấp nhận xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của Nguyễn Thị C tại phiên tòa
phúc thẩm phù hợp với nội dung bản án thẩm đồng phạm, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Đủ cơ sở kết luận:
5
Chiều ngày 27/11/2022, bị cáo C gặp bị cáo Y tại phòng trọ của Y, tại đây Y
ma túy dạng kẹo (MDMA) rủ C cùng nhau sử dụng ma túy, C đồng ý nói có
mang theo ma túy dạng ke (Ketamine), sau đó C đưa cho ma túy cho Y cầm mang
đi để sử dụng. Y rủ C xuống quán Bar Diamond Club mang theo ma túy của cả
hai để sử dụng. Trên đường đi Y nhắn tin rủ Hoàng Quốc P và P rủ thêm Lữ Văn Đ
đi cùng xuống Bar. Tại đây Y và C đặt bàn V10 ở tầng 1, Y lấy ma túy dạng kẹo ra
bẻ thành nhiều mảnh nhỏ để trên mặt bàn rồi chỉ cho C lấy sdụng. Đến khoảng
23 giờ 30 phút, P Đ đến Y nói C đưa gói ma túy cho P, Đ sử dụng. C chỉ cho Đ
chỗ để gói ma túy, Đ lấy sử dụng 01 mảnh kẹo uống cùng nước lọc đưa cho P
mảnh kẹo còn lại uống cùng nước lọc. Sau khi sử dụng xong ma y kẹo, Đ đi lại
nói với C “Chị xào ke đi”, C nói không biết xào nên Đ hỏi C có tiền giấy không thì
C đưa cho Đ tờ tiền giấy mệnh giá 1.000 đồng đi vào nhà vệ sinh dùng bật lửa
bên ngoài tờ tiền làm cho ma túy bên trong nóng mạnh nhiều lần để ma túy
mịn. Sau đó Đ đem ma túy xào được lại bàn V10 dùng ng tay ngón út bàn
tay phải xúc đưa lên mũi để C hít vào thể, sau đó xúc ma túy cho Y hít vào
thể rồi gọi P đi vào nhà vệ sinh, tại đây Đ tiếp tục dùng móng tay ngón út xúc một
phần ma túy cho P sdụng rồi quay lại. Tại bàn, Đ tự xúc sdụng, sma túy còn
lại cất giấu khe ghế. Khi cả nhóm ngồi nghe nhạc thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Lời nhận tội của các bcáo phù hợp với các tài liệu chứng ccó trong hồ sơ vụ
án, lời khai của người làm chứng, tang vật chứng thu được cùng các tài liệu khác
phản ánh tại hồ sơ. Đ cơ sở khẳng định c bị cáo Phùng Đào Phi Y, Nguyễn
Thị C, Lữ Văn Đ đã phạm tội “T chc sdụng trái phép chất ma túy” tội phạm
hình phạt được quy đnh tại Điều 255 BLHS
[3] Xét kháng cáo của Nguyễn Thị C xin giảm nhẹ hình phạt: Hành vi phạm
tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định qun lý v cht
ma túy của nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình trt t tr an tại địa P, là nguyên
nhân dẫn đến các t nn và ti phm khác. Bị cáo nhận thức được hành vi đã thực
hiện vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa
án cấp sơ thẩm đã xem xét về tính chất, hậu quả, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và xử phạt bị cáo 07 năm tù đúng quy định của pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm Nguyễn Thị C cung cấp giao nộp bổ sung chứng cứ đơn
trình bày hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính, đang nuôi con nhỏ, phiếu
siêu âm, các kết quả xét nghiệm nước tiểu, huyết học của Bệnh viện đa khoa huyện
NC, tỉnh Thanh hóa vviệc bị cáo đang thai, chồng bị cáo vừa mới chết vì tai
6
nạn giao thông; bản thân chưa tiền án, tiền sự, do ham vui mà nhất thời phạm
tội và lần đầu phạm tội.
Với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho hội cần
phải xử lý nghiêm mới đáp ứng được yêu cầu trong đấu tranh phòng chống ma túy
tội phạm vma túy hiện nay. Tuy nhiên trong vụ án này bị cáo phạm tội nhưng
không tính chất vụ lợi cũng phạm tội lần đầu với vai trò thứ yếu, hoàn
cảnh gia đình thật sự khó khăn, bị cáo thành khẩn khai báo rất hối hận về việc
làm của mình, hiện nay bị cáo đang thai đây tình tiết mới cũng tình tiết
giảm nhẹ TNHS. Như vậy bị cáo Nguyễn Thị C 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS
theo quy định tại điểm n, s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Do đó HĐXX xem xét
chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo đồng ý với đề nghị của
đại diện Viện kiểm sát áp dụng khoản 1 Điều 54 của BLHS để quyết định hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng ngh
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí
hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm b Khoản 1 Điều 355; Điểm c Khoản 1 Điều 357 của Bộ luật
Tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhhình phạt của bị cáo Nguyễn Thị C. Sửa
một phần Bản án hình sự thẩm số 34/2023/HS-ST ngày 24/5/2023 của Tòa án
nhân dân thành phố SS, tỉnh Thanh Hóa về hình phạt như sau.
Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 255; Điểm n, s khoản 1 Điều 51; khoản 1
Điều 54; Điều 47; 58; 38 của BLHS; Điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Nguyễn Thị C phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Nguyễn Thị C 05 (Năm) năm tù, được trđi thời hạn tạm giữ, tạm
giam (từ ngày 28/11/2022 đến ngày 13/01/2023). Thời hạn tính tngày bắt thi
hành án.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị C không phải chịu án phình sự phúc
thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
7
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa;
- TAND thành phố SS;
- VKSND thành phố SS;
- CQCSĐT thành phố SS;
- CQTHAHS thành phố SS;
- Chi cục THADS thành phố SS;
- Bị cáo;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Văn Quân
Tải về
135_2023_HS-PT_ THANH HOA 135_2023_HS-PT_ THANH HOA

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

135_2023_HS-PT_ THANH HOA 135_2023_HS-PT_ THANH HOA

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất