Bản án số 16/2023/HS-ST ngày 27-09-2023 của TAND huyện An Lão (TAND tỉnh Bình Định) về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
16-2023-HS-ST-AN-LAO-BINH-DINH
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
16-2023-HS-ST-AN-LAO-BINH-DINH
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 16/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 16/2023/HS-ST ngày 27-09-2023 của TAND huyện An Lão (TAND tỉnh Bình Định) về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 255. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện An Lão (TAND tỉnh Bình Định) |
| Số hiệu: | 16/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 27/09/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | LÊ CÔNG T và HUỲNH THIỆN KH phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN AN LÃO
TỈNH BÌNH ĐỊNH
Bản án số: 16/2023/HS-ST
Ngày: 27/9/2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Văn Huy.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông: Đinh Văn Ba.
Bà: Lê Thị Thanh Trầm.
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Thị Bích Nghị, là Thư ký Toà án nhân dân
huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định tham gia
phiên toà: Ông Đinh Văn Trà - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, tỉnh
Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2023/TLST-HS ngày
23 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2023/QĐXXST-HS
ngày 08 tháng 9 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 110/2023/QĐST-HS
ngày 22 tháng 9 năm 2023, đối với các bị cáo:
1. Bị cáo LÊ CÔNG T, sinh ngày 10/01/1996, tại: Bình Định; nơi cư trú: Khu
phố H, thị trấn A, huyện A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn:
10/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn Đ, sinh
năm 1956 và bà Phùng Thị Th, sinh năm 1956; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền
án: Có 01 tiền án, ngày 21/9/2021, bị Tòa án nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định
xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 15/2021/HS-ST. Ngày
04/9/2022, Lê Công Th chấp hành xong hình phạt; về nhân thân: Ngày 04/10/2013, bị
Công an thị trấn An Lão xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh
nhau gây thương tích; ngày 26/7/2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xử phạt 01
năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự phúc thẩm số:
78/2017/HSPT, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/3/2018; ngày 05/7/2018, bị
Công an huyện An Lão xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000 đồng về hành vi đánh
nhau gây thương tích; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, tạm giam từ ngày
03/01/2023, bị cáo tạm giam “Có mặt”.
2. Bị cáo HUỲNH THIỆN KH, sinh ngày 24/01/2000, tại: Bình Định; trú tại:
167/11 tổ 23, khu phố 5A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nơi thường trú:
2
Thôn V, xã A, huyện A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn:
9/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Xuân H,
sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1977; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền
sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, tạm giam từ ngày 03/01/2023, bị
cáo tạm giam “Có mặt”.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh: Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1994. Địa chỉ: Khu phố H, thị trấn A, huyện
A, tỉnh Bình Định. “Có mặt”.
+ Anh: Phan Thanh Q, sinh năm 2000. Địa chỉ: Thôn X, xã A, huyện A, tỉnh
Bình Định. “Vắng mặt”.
+ Anh: Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1983. Địa chỉ: Khu phố 9, thị trấn A, huyện
A, tỉnh Bình Định. “Có mặt”.
+ Chị: Dương Thị Thùy Nh, sinh năm 2001. Địa chỉ: Khu vực K, phường B,
thị xã A, tỉnh Bình Định. “Vắng mặt”.
+ Chị: Huỳnh Thị Diễm Tr, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn B, xã T, thành phố
Quảng Ngãi, tỉnh Quãng Ngãi. “Vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào trưa ngày 03/01/2023, Huỳnh Thiện Kh và Phan Thanh Q (sinh năm
20/01/2000, ở Xuân Phong Bắc, An Hòa) đến quán karaoke Cây Xoài ở khu phố 9,
thị trấn A để hát. Tại đây, Kh điện thoại rủ Lê Công Th đến cùng hát, Th đồng ý và
nói Kh đến đón Th tại nhà anh Bùi Văn V (sinh năm 1993 ở khu phố H, thị trấn A, vì
Th đang ăn tất niên tại nhà V). Kh điều khiển xe môtô đến nhà V chở Th đến quán
karaoke Cây Xoài. Th nói anh Nguyễn Ngọc D (sinh năm 1983- là chủ quán karaoke
Cây Xoài) mở phòng Vip 3, đem bia và trái cây, Th, Kh, Q vào phòng Vip 3 vừa hát,
vừa uống bia để chờ bạn của Q đến. Sau khi hát được vài bài thì không hát nữa, Th
bật nhạc sàn remix để nghe, tắt đèn sáng trong phòng, chỉ để đèn led. Trong quá trình
nghe nhạc, Th có điện thoại cho Lê Tấn V (sinh năm 1995, ở Hưng Nhơn, thị trấn A)
lúc này V đang ở gần với Nguyễn Văn Ph (sinh năm 20/6/1994 ở Hưng Nhơn, thị
trấn A) tại nhà V nên Ph biết Th đang ở quán Cây Xoài. Sau đó, Ph đến quán karaoke
Cây Xoài vào phòng Vip 3 tham gia uống bia cùng với Th, Q, Kh. Vào được một lúc,
thì Ph đi khỏi quán Cây Xoài về nhà để lấy tiền nhưng không có tiền nên Ph gọi điện
thoại cho Th nói Ph không đến nữa, nhưng Th nói Ph cứ đến hát không sao đâu, sau
đó Ph quay lại quán Cây Xoài. Trong thời gian Ph đi khỏi quán, Th nói với Kh “nhạc
dầy bay chút không” (Th rủ Kh sử dụng ma túy) nhưng Kh trả lời “không” vì còn đợi
bạn của Q đến. Khi Phúc quay lại phòng Vip 3, Th cầm lấy gói ma túy đã cất giấu sẵn
trong kẽ ghế trong phòng Vip 3 từ trước đi ra ngoài vào phòng bếp của quán lén lấy
một cái đĩa sứ màu trắng đường kính 27cm, ôm sát vào bụng đi vào nhà vệ sinh nữ,
3
Ph cũng đi theo Th vào nhà vệ sinh nữ rồi sau đó Phúc đi ra, một mình Th trong nhà
vệ sinh nữ, Thức lấy gói ma túy trút một ít ra đĩa để “xào”, gói ma túy còn lại Th để
trên bờ tường giữa nhà vệ sinh nữ và nhà vệ sinh nam. Sau khi “xào” xong, do không
biết làm nên bị cháy, Th không sử dụng, Th lấy tờ tiền giấy 1.000 đồng hay 2.000
đồng gì đó Th không nhớ rõ, dích một nữa ma túy trên đĩa ra tờ tiền giấy rồi gói lại
bọc vào túi quần, Th vừa làm xong thì Ph đi vào nhà vệ sinh nữ, Th để đĩa ma túy
trên chỗ bệ cầu và một tờ tiền giấy 1.000 đồng hay 2.000 đồng, Ph sử dụng tờ tiền
giấy trên đĩa dích hết ma túy đưa lên mu bàn tay hít hết số ma túy vào cơ thể qua mũi,
sau đó Th đem đĩa ra bồn rửa tay trước nhà vệ sinh rửa đĩa, Th và Ph vào phòng Vip
3. Khi Th vào phòng, Kh đến hỏi Th “Hầu nãy anh rủ dẫy có đồ cho chút chơi” (Kh
hỏi Th ma túy), thì Th lấy trong túi quần tờ tiền giấy gói ma túy đã xào đưa cho Kh,
sau đó Kh và Q đi ra ngoài vào nhà vệ sinh nữ sử dụng hít hết ma túy vào cơ thể. Sau
khi sử dụng ma túy xong, Kh và Q đi vào phòng Vip 3, Th hỏi Kh có biết xào ma túy
hay không, còn một ít Th để ở nhà vệ sinh, do Kh không biết xào nên Kh đã nhắn tin
điện thoại cho Q hỏi Q biết xào ma túy hay không nhưng Q nhắn tin lại không biết
xào ma túy. Vì còn ma túy để ở nhà vệ sinh nữ nên Th nảy sinh muốn xào ma túy để
sử dụng, Th nói với Kh gọi 02 nữ tiếp viên đến phục vụ nhưng Kh không gọi nên Th
đi ra ngoài đến nói anh D gọi cho Th hai nữ tiếp viên đến phục vụ, nói xong Th vào
phòng Vip 3, anh D gọi điện thoại cho tiếp viên theo yêu cầu của Th.
Vì muốn xào ma túy để sử dụng, Th ra khỏi phòng Vip 3 thì gặp Kh đang đứng
trước cửa nhà vệ sinh, Th nói Kh lấy đĩa, rồi Th đi vào nhà vệ sinh nữ trước, Kh cầm
đĩa chỗ bồn rửa tay vào nhà vệ sinh cùng với Th rồi Th đóng cửa nhà vệ sinh lại.
Trong lúc đang ở trong nhà vệ sinh, Th nghe tiếng của Q đang ở bên ngoài, Th nói Q
vào phòng Vip 3 lấy cho Th bị đựng hạt hướng dương, đem cho Th, thì Q vào phòng
Vip 3 lấy bị đựng hạt hướng dương xé trút hết hạt ra rồi cầm vỏ bì hướng dương đem
ra cho Th nhưng Thức nói đưa qua khe hở nhà vệ sinh nam cho Th, Q đi qua nhà vệ
sinh nam sát bên rồi để vỏ bì hướng dương trên bờ tường giữa nhà vệ sinh nam và nữ,
sau đó Q đi vào phòng Vip 3. Kh cầm lấy vỏ bì hướng dương xuống đưa cho Th, Th
nói Kh lau khô đĩa, Th mở điện thoại xem hướng dẫn “xào” ma túy, Th lấy gói ma
túy trên bờ tường, nói Kh cầm đĩa, Th lấy quẹt gas đốt cháy vỏ bì hướng dương hơ
nóng đĩa, Kh cầm đĩa nóng tay nên đưa lại cho Th, Th vừa cầm đĩa vừa đốt vỏ bì
hướng dương cháy hơ đĩa. Sau đó, Th trút ma túy hết ra đĩa rồi Th đốt luôn vỏ bì
nilông của gói ma túy, Th hỏi mượn Kh thẻ ATM, Kh lấy thẻ ATM đưa cho Th rồi
Th dùng thẻ ATM tán mịn ma túy ra dạng bột, rồi Thức để ATM lên đĩa, Th tiếp tục
hỏi mượn tiền của Kh, Kh đưa cho Th tờ tiền loại polyme 10.000 đồng, sau đó Th nói
Kh bưng đĩa chứa ma túy vào phòng Vip 3, Th đi trước vừa đi Th vừa quấn tờ tiền
10.000 đồng thành dạng ống hút, Kh lấy thẻ ATM bọc vào túi quần, rồi bưng đĩa ma
túy đi sau Th. Vào phòng Vip 3, Th xé hai đầu lọc màu vàng của hai điếu thuốc lá
bọc cố định hai đầu của ống hút, Kh đưa đĩa ma túy cho Th thì Th không thấy thẻ
ATM nên hỏi Kh thẻ ATM thì Kh lấy thẻ ATM đưa cho Th, Th dùng thẻ ATM kẻ
một phần ma túy trên đĩa khoảng 04-05 đường chỉ nhỏ, sau đó Th dùng ống hút làm
bằng tờ tiền 10.000 đồng hít một đường ma túy vào cơ thể qua mũi. Sau khi Th hít
xong, Ph thấy trên đĩa có tờ tiền giấy 1.000 đồng hay 2.000 đồng, Ph cầm tờ tiền giấy
4
dích một đường ma túy trút lên mu bàn tay của Ph, rồi hít ma túy vào cơ thể qua mũi.
Sau khi Ph sử dụng xong, Kh dùng ống hút hít hai đường ma túy vào cơ thể, sau đó Q
cũng dùng ống hút hít ma túy vào cơ thể. Khi cả bốn người đã sử dụng xong, Th
bưng đĩa ma túy để ở dưới nền sau cái bàn rồi cả nhóm nghe nhạc, nhảy trên sàn.
Hai nữ tiếp viên là Dương Thị Thùy Nh (sinh năm 2001, HKTT: Khu vực K,
phường B, thị xã A, Bình Định) và Huỳnh Thị Diễm Tr (sinh năm 1994, HKTT: thôn
B, xã T, thành phố Quãng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) vào phòng Vip 3 theo yêu cầu của
Th. Tr và Nh rót bia mời Th, Kh, Q, Ph uống, sau đó Th bưng đĩa ma túy dưới nền để
trên bàn, Th bưng đĩa và cầm thẻ ATM kẻ một phần của ma túy còn trên đĩa thành hai
đường chỉ nhỏ, rồi cầm ống hút để trên đĩa, Nh cầm lấy ống hút, Th để đĩa trên bàn,
Nh cúi xuống hít một đường ma túy vào cơ thể. Sau khi Nh sử dụng xong thì đưa lại
ống hút cho Th, Th cầm ống hút đưa cho Tr, Tr cũng dùng ống hút hít ma túy vào cơ
thể. Sau khi Nh và Tr sử dụng xong, Th bưng đĩa đựng ma túy để dưới nền rồi đứng
nhảy trên sàn. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, trong lúc Th, Kh và các đối tượng nói
trên đang sử dụng ma túy, thì lực lượng Công an huyện An Lão kiểm tra phát hiện bắt
quả tang và thu giữ tại phòng VIP 3, quán karaoke Cây Xoài gồm: Một đĩa sứ màu
trắng có đường kính mặt 27cm, đường kính đáy 17cm (toàn bộ chất bột màu trắng
trên đĩa cho vào túi nilong có kích thước 13,5 x 6,8cm hàn kín và niêm phong theo
quy định); 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank, số thẻ 97043686214882104, chủ thẻ
Huynh Thien Khanh; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn, hai đầu được
bọc bằng vỏ đót thuốc lá; 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng bị xé rách làm đôi; 01 tờ
tiền mệnh giá 1.000 đồng bị xé rách một phần. Các đối tượng khai nhận đã sử dụng
ma túy.
Kết quả test nước tiểu Lê Công Th, Huỳnh Thiện Kh, Phan Thanh Q, Nguyễn
Văn Ph, Dương Thị Thùy Nh, Huỳnh Thị Diễm Tr đều dương tính loại ma túy.
Kết luận giám định số: 02/KL-KTHS ngày 05/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình
sự Công an tỉnh Bình Đinh xác định: Chất bột màu trắng (ký hiệu A) đựng bên trong
01 (một) túi nilong, kích thước (13,5 x 6,8)cm gửi giám định là ma túy, có khối lượng
là 0,0957 gam là (loại): Ketamine.
Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã tạm giữ và niêm phong: 01 (một) đĩa sứ
có đường kính mặt 27cm, đường kính đáy 17cm bên trên có chất bột màu trắng; 01
(một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank, số thẻ 970436862148821014, chủ thẻ
Huynh Thien Khanh; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn hai đầu
được bọc bằng vỏ đót thuốc lá; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 2000 bị xé rách làm đôi; 01
(một) tờ tiền mệnh giá 1000 đồng bị xé rách một phần; 01 (một) bì giấy màu nâu (loại
bì đựng hạt hướng dương) đã bị cháy nham nhở một phần, còn lại không rõ hình, kích
thước 9cm x 5cm.
Tạm giữ 01 (một) điện thoại Iphone 8 Plus, IMEI: 354833098037217, màu
trắng. Điện thoại đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong; 01 (một) điện
thoại Iphone XS max, đã sử dụng, ốp lưng màu đỏ, không kiểm tra chất lượng bên
trong; 01 (một) điện thoại di động Iphone XS đã sử dụng, không kiểm tra chất lượng
5
bên trong, số máy: MTW2LL/A, số seri:G6TYGC1YKPHD; 01 (một) điện thoại
Iphone 11, màu đỏ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.
Tại bản cáo trạng số: 12/CT-VKSAL ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm
sát nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Lê Công Th và Huỳnh
Thiện Kh về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chát ma túy” theo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu lời luận tội
và phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực
hiện; giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Công Th và Huỳnh Thiện Kh phạm tội “Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy”
- Về hình phạt:
+ Đối với bị cáo Lê Công Th: áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, Điều 17 Bộ
luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 và Điều 38
của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Công Th từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.
+ Đối với bị cáo Huỳnh Thiện Kh: áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, Điều 17
Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật
hình sự, xử phạt bị cáo Huỳnh Thiện Kh từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có thu nhập nên không phạt bổ sung
đối với bị cáo Thức và bị cáo Khanh.
+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ
luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ gồm: 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng
được cuộn tròn hai đầu được bọc bằng vỏ đót thuốc lá; Tịch thu tiêu hủy gồm: 01
(một) bì thư dán kín niêm phong, có chữ ký của Lê Công Thức, Huỳnh Thiện Khanh,
Nguyễn Ngọc Dũng, Dương Văn Ngưỡng, Phan Chiến Thắng, Phạm Văn Cao
Nguyên. Bên trong có: 01 (một) đĩa sứ có đường kính mặt 27cm, đường kính đáy
17cm; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 2000 bị xé rách làm đôi; 01 (một) tờ tiền mệnh giá
1000 đồng bị xé rách một phần; 01 (một) vỏ, bao bì đựng mẫu vật: 0,0313 gam mẫu
A còn lại sau giám định (đựng trong phong bì dán kín niêm phong; dấu tròn “Phòng
kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định”, chữ ký bên giao và bên nhận); 01 (một)
bì giấy màu nâu (loại bì đựng hạt hướng dương) đã bị cháy nham nhở một phần, còn
lại không rõ hình, kích thước 9cm x 5cm. Trả lại cho chủ sở hữu 01 (một) thẻ ATM
ngân hàng Vietcombank, số thẻ 970436862148821014, chủ thẻ Huynh Thien Khanh;
Tại phiên tòa bị cáo Lê Công Th và Huỳnh Thiện Kh khai nhận có hành vi tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy, các bị cáo nhận tội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Ngọc D trình bày ý kiến:
Việc bị cáo tổ chức sử dụng ma túy tại quán Karaoke của nhà anh thì anh hoàn toàn
không biết, đối với chiếc đĩa mà các bị cáo lấy để sử dụng ma túy thì không còn giá
trị nên anh không yêu cầu trả lại.
6
Lời nói sau cùng của bị cáo Th: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình và hứa
sẽ cải tạo tốt để trở thành công dân có ích cho xã hội, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo Kh: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình và hứa
sẽ cải tạo tốt để trở thành công dân có ích cho xã hội, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra, Điều tra
viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra,
truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo không có ý kiến hoặc
khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi,
quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp
pháp.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các
bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng
xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Vào ngày 03/01/2023, tại quán Karaoke Cây Xoài
ở khu phố 9, thị trấn An Lão, huyện An Lão, Lê Công Th và Huỳnh Thiện Kh đã tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy cho nhiều người sử dụng. Như vậy, HĐXX có đủ
cơ sở để khẳng định bị cáo Lê Công Th và Huỳnh Thiện Kh đã phạm vào tội “Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão
truy tố bị cáo Lê Công Th và Huỳnh Thiện Kh là đúng người, đúng tội và đúng pháp
luật.
[3] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, các bị cáo đều đã thành niên, đều biết
rõ sử dụng và tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy là hành bị pháp
luật nghiêm cấm, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu cá nhân các bị cáo vẫn cố ý thực
hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm
phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về việc sử dụng chất ma tuý, xâm
phạm đến trật tự, an toàn xã hội, việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của các
bị cáo là nguy hiểm cho bản thân, gia đình và xã hội. Bởi lẽ, hành vi tổ chức sử dụng
ma túy của các bị cáo sẽ làm gia tăng số lượng người nghiện ma túy, khi người
nghiện ma túy sẽ dễ bị thoái hóa nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả dễ
vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội là một trong những nguyên nhân gia
tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe
giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
7
[4] Xét về tính chất vụ án và mức độ phạm tội của từng bị cáo thì thấy rằng: Các
bị cáo phạm tội có yếu tố đồng phạm giản đơn, không có bàn bạc phân công vai trò,
cấu kết chặt chẽ nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt
tương ứng với hành vi phạm tội của mình.
Trong vụ án này bị cáo Lê Công Th là người giữ vai trò chính, bởi lẽ bị cáo Th
người trực tiếp cung cấp, lấy đĩa từ nhà bếp của quán, trực tiếp xào ma túy và tổ chức
sử dụng nên phải chịu mức hình phạt nặng nhất. Còn bị cáo Huỳnh Thiện Kh không
trực tiếp xào ma túy, nhưng bị cáo Kh là người giúp sức tích cực, bị cáo lấy và lau
đĩa, đưa cho Th dụng cụ Thẻ ATM cà chất ma túy ra, đưa Thức 10.000 đồng để làm
ống hút để Th, Kh, Q, Ph, Nh và Tr sử dụng nên bị cáo Kh chịu trách nhiệm hình sự
mức án thấp hơn bị cáo Th.
[5] Khi quyết định hình phạt, có xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
- Về nhân thân: Bị cáo Lê Công Th có nhân thân xấu: Ngày 04/10/2013, bị
Công an thị trấn An Lão xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh
nhau gây thương tích; ngày 26/7/2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xử phạt 01
năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự phúc thẩm số:
78/2017/HSPT, chấp hành xong phạt tù ngày 31/3/2018; ngày 05/7/2018, bị Công an
huyện An Lão xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000 đồng về hành vi đánh nhau gây
thương tích.
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lê Công Th có tình tiết tăng nặng là tái phạm được
quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52; bị cáo Kh không phải chịu tình tiết tăng nặng
nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Lê Công Th, Huỳnh Thiện Kh thành khẩn khai báo,
ăn năn hối cải, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s
khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo Kh có ông Ngoại là người có
công với cách mạng nên bị cáo Kh được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm
cho xã hội, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng. HĐXX thấy để tương xứng với
hành vi mà các bị cáo thực hiện và đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội
phạm trên địa bàn huyện An Lão nên cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài đời
sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân
có ích và phòng ngừa chung cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy cần xử lý như sau:
- Tịch thu sung quỹ nhà nước gồm: 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng
được cuộn tròn hai đầu được bọc bằng vỏ đót thuốc lá; 01 (một) tờ tiền mệnh giá
2000 bị xé rách làm đôi; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 1000 đồng bị xé rách một phần.
8
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 (một) bì thư dán kín niêm phong, có chữ ký của Lê
Công Thức, Huỳnh Thiện Khanh, Nguyễn Ngọc Dũng, Dương Văn Ngưỡng, Phan
Chiến Thắng, Phạm Văn Cao Nguyên. Bên trong có 01 (một) đĩa sứ có đường kính
mặt 27cm, đường kính đáy 17cm; 01 (một) vỏ, bao bì đựng mẫu vật: 0,0313 gam mẫu
A còn lại sau giám định (đựng trong phong bì dán kín niêm phong; dấu tròn “Phòng
kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định”, chữ ký bên giao và bên nhận); 01 (một)
bì giấy màu nâu (loại bì đựng hạt hướng dương) đã bị cháy nham nhở một phần, còn
lại không rõ hình, kích thước 9cm x 5cm.
- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Thiện Kh 01 (một) thẻ ATM ngân hàng
Vietcombank, số thẻ 970436862148821014, chủ thẻ Huynh Thien Khanh.
[7] Đối với 01 (một) điện thoại Iphone 8 Plus; 01 (một) điện thoại Iphone XS
max; 01 (một) điện thoại di động Iphone XS (một) điện thoại Iphone 11 Cơ quan
cảnh sát điều tra huyện An Lão đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp với quy
định của pháp luật.
[8] Đối với Phan Thanh Q: Q đưa vỏ bì hướng dương cho Th và Th đã dùng bì
hướng dương này đốt cháy để hơ nóng đĩa xào ma túy tại nhà vệ sinh nữ. Tuy nhiên
khi Th nói Q lấy bì hương dương thì Th không nói cho Q biết đưa bị hướng dương để
làm gì, sử dụng mục đích gì, hơn nữa việc Th sử dụng vỏ bì hướng dương ở trong nhà
vệ sinh nữ đã đóng kín cửa, Q không trực tiếp thấy Th dùng vỏ bì hướng dương đốt
cháy hơ nóng đĩa để xào ma túy. Và Q không biết Th sử dụng vỏ bì hướng dương này
để làm gì. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện An Lão không truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với Phan Thanh Q đồng phạm trong vụ án này là có căn cứ.
[9] Đối với Nguyễn Văn Ph, Dương Thị Thùy Nh, Huỳnh Thị Diễm Tr đây là
những người được các bị can cung cấp ma túy, cho họ sử dụng ma túy nên không truy
cứu trách nhiệm hình sự trong vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật.
[10] Đối với anh Nguyễn Ngọc D là chủ cơ sở kinh doanh karaoke Cây Xoài,
anh Dũng không biết các đối tượng tổ chức sử dụng ma túy tại phòng quán của mình,
nên không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.
[11] Về nguồn gốc ma túy Lê Công Th khai: Ma túy mà cả nhóm sử dụng tại
phòng Vip 3 vào ngày 03/01/2023 là của Thức, Th có được ma túy do lượm được vào
tối ngày 02/01/2023 khi Thức đến hát karaoke tại quán Cây Xoài cùng với bạn tại
phòng Vip 3, quá trình lượm được Thức không nói cho ai biết, ma túy được gói bằng
túi nilong có kích thước khoảng 02cm x 02cm. Sau khi nhặt được, Th cất giấu gói ma
túy trong kẽ ghế giữa ghế đầu tiên và ghế thứ hai của băng ghế bên trái hướng từ cửa
vào. Trưa ngày 03/01/2023 trong quá trình hát tại phòng Vip 3, thì Th lấy ma túy cất
giấu để cho cả nhóm sử dụng. Ngoài lời khai của Th thì Cơ quan Điều tra không có
nguồn nào khác để chứng minh về nguồn gốc ma túy trong vụ án.
[12] Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị áp dụng điểm, khoản, Điều luật, hình
phạt tù đối với bị cáo Lê Công Th và Huỳnh Thiện Kh là phù hợp với quy định của
pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[13] Về án phí HSST: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

9
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Đối với bị cáo Lê Công Th: Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s
khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình
sự;
Đối với bị cáo Huỳnh Thiện Kh: Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s
khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự;
Căn cứ Điều 106; Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Công Th và Huỳnh Thiện Kh phạm tội “Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
2.1. Xử phạt bị cáo Lê Công Th 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 03/01/2023.
2.2. Xử phạt bị cáo Huỳnh Thiện Kh 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 03/01/2023.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung quỹ gồm: 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuộn
tròn hai đầu được bọc bằng vỏ đót thuốc lá; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 2000 bị xé rách
làm đôi; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 1000 đồng bị xé rách một phần.
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 (một) bì thư dán kín niêm phong, có chữ ký của Lê
Công Th, Huỳnh Thiện Kh, Nguyễn Ngọc D, Dương Văn Ng, Phan Chiến Th, Phạm
Văn Cao Ng. Bên trong có 01 (một) đĩa sứ có đường kính mặt 27cm, đường kính đáy
17cm; 01 (một) vỏ, bao bì đựng mẫu vật: 0,0313 gam mẫu A còn lại sau giám định
(đựng trong phong bì dán kín niêm phong; dấu tròn “Phòng kỹ thuật hình sự - Công
an tỉnh Bình Định”, chữ ký bên giao và bên nhận); 01 (một) bì giấy màu nâu (loại bì
đựng hạt hướng dương) đã bị cháy nham nhở một phần, còn lại không rõ hình, kích
thước 9cm x 5cm.
- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Thiện Kh 01 (một) thẻ ATM ngân hàng
Vietcombank, số thẻ 970436862148821014, chủ thẻ Huynh Thien Khanh.
(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 22/8/2023, giữa
Công an huyện An Lão và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão).
4. Về án phí HSST: Bị cáo Lê Công Th và bị cáo Huỳnh Thiện Kh mỗi bị cáo
10
phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa
có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận bản án được giao hoặc được niêm yết hợp lệ.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án Dân sự.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão;
- CQ CSĐT Công an huyện An Lão;
- CQ THAHS Công an huyện An Lão;
- Chi cục THADS huyện An Lão;
- Các bị cáo;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Lê Văn Huy
11
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 07/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 08/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm