Bản án số 584/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 584/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 584/2024/DS-PT ngày 23/09/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 584/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Lê Thị Kim L - Lê Khắc D
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG THÁP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 584/2024/DS-PT
Ngày: 23/9/2024
Về việc tranh chấp về quyền sử dụng đất
vàtài sản chung của dòng họ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hồng Nước
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hồng Nước
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Tuấn Anh
Ông Đinh Chí Tâm
Thư ký phiên tòa: Ông Lê Vũ Đình Quang – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Tháp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Được - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 9 và ngày 23 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp, tiến hành xét xử phúc thẩm v án dân s thụ số
320/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 7 năm 2024, về việc “Tranh chấp về quyền
sử dụng đất và tài sản chung của dòng họ”.
Do Bản án dân sự thẩm số 25/2024/DS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2024,
của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò bị kháng cáo;
Theo Quyếtđưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 500/2024/QĐ-PT ngày
26/7/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 547/2024/QĐPT-DS ngày 16/8/2024,
của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1937.
Địa chỉ: Số I, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của L: Ông Bùi Văn P, sinh năm 1961;
Địa chỉ: Số A, ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp theo vănbản ủy quyền ngày
12/8/2022;
- Bị đơn: Ông Lê Khắc D, sinh năm 1962.
2
Địa chỉ: Số A, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của ông D: Anh Lê Khắc T, sinh năm 1978;
Địa chỉ: Số A, Đỗ Ngọc Q, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh theo
vănbản ủy quyền ngày 31/12/2020.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1970;
2. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974;
3. Chị Nguyễn Thị Khánh L1, sinh năm 2000;
4. Anh Nguyễn Khánh D1, sinh năm 2009;
Cùng địa chỉ: Số I, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo pháp luật của anh D1: Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm
1970 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974; Cùng địa chỉ: Số I, ấp A, xã Đ, huyện
L, tỉnh Đồng Tháp.
5. Bà Lê Thị D2, sinh năm 1961;
6. Anh Lê Khắc D3, sinh năm 1987;
7. Chị Lê Thị Cẩm N1, sinh năm 1989;
8. Chị Lê Thị Hng N2, sinh năm 1991;
Cùng địa chỉ: Số A, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà D2, anh D3, chị Cẩm N3 chị Hồng
N4: Anh Lê Khắc T, sinh năm 1978; Địa chỉ: Số A, Đỗ Ngọc Q, Phường D, Quận
H, Thành phố Hồ Chí Minh theo vănbản ủy quyền ngày 31/12/2020.
9. Chị Lê Thị Huỳnh N5, sinh năm 1984;
Địa chỉ: Số I, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
10. Anh Phạm Hữu T1, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Số I, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Tạm trú: Ấp M, thị trấn C, huyện P, tỉnh Hậu Giang.
11. Anh Lê Khắc T, sinh năm 1978;
Địa chỉ: Số A, Đỗ Ngọc Q, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Bà Lê Thị K, sinh năm 1939;
Địa chỉ: Số I, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
3
13. Ông Lê Triều K1, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của K ông K1: Anh Khắc T, sinh
năm 1978; Địa chỉ: Số A, Đỗ Ngọc Q, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí
Minh theo vănbản ủy quyền ngày 29/02 và 04/3/2024.
Ông P, anh T, ông S, \" \o "nào,"N6hưcó mặt tại phiên các phiên tòa;
chị Khánh L2, anh T1 vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn Lê Thị Kim L là ông Bùi Văn P trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp với ông Khắc D trước đây là theo phần phân
chia ngày 27/3/1965 của cụ Minh H (ông C của L) thì cụ H chia ra, phần
căn nhà (nhà bacủa cụ H quản theo như tờchia. Đến tháng 01/1966, cụ H chết
nên căn nhà bỏ hoang vắng không ai dám ở, ông bà ngồi lại kêu cha bà L cụ
Trí T2 vquản vào tháng 6/1966. Phần căn nhà do ông T2 đứng tên, phần
còn lại chia cho vợ cụ H cụ Nguyễn Thị B. Khi cụ B chết thì Thị Minh
con của cụ B thừa hưởng, sau đó bà bán cho ông D. Như vậy, chỉ
được bán phần đất Ảnh được hưởng, ông D không được đứng tên luôn phần
đất căn nhà của cụ T2 quản lý. Đến ngày 18/5/2011, hộ ông D đã được Ủy ban
nhân dân (UBND) huyện Lấp Vò cấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) của thửa đất số
23, tờ bản đồ 38, diện tích 6.822,7m
2
, đất tọa lạc tại ấp A, Đ, huyện L, tỉnh
Đồng Tháp.
Đến năm 2014, L thấy căn nhà xuống cấp nên L bán với số tiền
300.000.000 đồng để lấy tiền xây lại căn nhà như hiện nay. Việc này ông
Nguyễn Văn C1 (còn sống) đứng ra cho, ông C1 lớn nhất trong gánh họ.
Hàng năm, căn nhà này có đến 09 đám giỗ và đang thờ ông bà đều là họ Lê.
Lúc còn sống cT2 sử dụng diện tích như L xác định khi đo đạc, nên
L yêu cầu diện tích là 1.259,2m
2
và ông D phải sang tên lại cho L. Vì phần đất
này cụ T2 đã quản lý sử dụng từ năm 1966, sau khi cụ T2 cụ Nguyễn Thị K2
chết thì L tiếp tục sử dụng đến nay. Khi bà Ả chưa bán đất cho ông D thì
chỉ sử dụng bên phần đất bà Ả, ranh giới phía trước nằm về phía sân ông D so với
hàng rào ông D xây hiện nay. n phía sau căn nhà là khoảng đất rất rộng khoảng
30 mét, có con mương ngang phân biệt ranh đất giữa bà Ả cụ T2. Phần đất sau
nhà cụ T2 trồng tre, tầm vong, dừa, làm chuồng nuôi heo bắt cầu cá. Sau khi
4
cụ T2 chết (ngày 04/8/1991), cụ K2 tiếp tục sử dụng cho đến khi cụ K2 chết (ngày
13/6/2009) thì L tiếp tục sử dụng, nhưng do L đi chùa T6 mới về nhà nên
ông D tiến hành phá bvườn câytrồng cây lấn chiếm đất khoảng 08 năm nay.
Còn trước đây ông D không có sử dụng phần đất này. Đối với các cây trồng phía
trước sân do L trồng khoảng năm 1995 một số do cha L cụ T2 trồng.
L là dì của ông Nguyễn Thanh S còn bà Nguyễn Thị Nào l vợ của ông
S. Bà L chỉ cho ông S và bà N7 một phần của căn nhà mà L đang sdụng, chứ
bà L không có cho phần căn nhà và phần đất mà ông S và bà N8 sử dụng.
Nay L thay đổi yêu cầu chỉ yêu cầu Toà án công nhận đối với diện
tích theo đo đạc thực tế 1.259,2m
2
trong phạm vi các mốc từ M1, M27, M34,
M28, M2, M25, M3, M4, M5, M6, M7, M24, E, F, A, M8, M9, M10 về M1 theo
Sơđo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 09/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng
đăng đất đai huyện L điều chỉnh giấynhận QSDĐ của ông D để cấp phần
diện tích nêu trên choL.
Trong trường hợp Tòa án giao đất cho L thì bà L đồng ý trả giá trị các
cây trồng của ông D, còn nếu buộc bà L phải di dời thì bà L không có yêu cầu gì
đối với căn nhà, do căn nhà là của bà L và cũng không có yêu cầu hay tranh chấp
gì đối với các tài sản trong căn nhà.
Đối với phần diện tích theo đo đạc thực tế 108,1m
2
trong phạm vi các
mốc từ M2, M25, M3, M4, M16, M15, M14, M13, M12, M11 về M2 theo Sơđo
đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 09/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện L tL thống nhất làm lối đi chung ra khu mộ, nên không yêu
cầu Tòa án giải quyết.
L yêu cầu ông D tháo dỡ phần nền mới xây phía trên sân đất L
không hỗ trợ chi phí di dời.
Bà L không thống nhất với yêu cầu phản tố bổ sung của ông D và các yêu
cầu độc lập của bà K, ông K1 và anh T.
Bà L thống nhất với các Biênxem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án, S1 đạc
hiện trạng đất tranh chấp của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L
Biênbản định giá tài sản ca Hội đồng định giá.
- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn Lê Khắc D và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Thị D2, Lê Khắc D, Lê Thị Cẩm N1, Thị Hồng N2, Lê Thị K và Triều K1
anh Lê Khắc T trình bày:
Trước đây, phần đất này là của bà Lê Thị Minh Ả (con đẻ của cụ Lê Minh
5
H ông Khắc D gọi cụ H là ông C) đứng tên gồm các thửa đất số 360a
360b, được UBND huyện T (nay huyện L) cấp giấynhận QSDĐ ngày
27/11/1991 theo đơnkhai đăng ký chủ sử dụng đất, khi cấp giấyđo đạc, không
có cắm mốc và tại thời điểm được cấp giấycó ai tranh chấp. Đến năm 1994,
bán lại cho ông Lê Khắc D hết các thửa đất trên giấynhận QSDĐ. Đến ngày
28/12/1994, ông D được UBND huyện T (nay huyện L) cấp giấynhận QSDĐ,
khi cấp giấy không đo đạc, không cắm mốc, nhưng trong nội dung đơnký
chuyển nhượng QSDĐ có ghi thửa đất số 360a có chiều ngang 45 mét, chiều dài
140 mét, thửa đất số 360b chiều ngang 40 mét, tứ cận hướng Đông giáp
Văn K3, phía Tây giáp Huỳnh Văn B1, phía Nam giáp chủ sở hữu hương hoả (tức
phần đất phía sau nhà), hướng Bắc giáp sông N Bác tại thời điểm ông D
được cấp giấy không có ai tranh chấp.
Đến ngày 17/11/2006, ông D làm thủ tục tách thửa đất số 360b thành 02
thửa thửa đất số 482, 483 được ghi trang 4 giấynhận QSDĐ. Ngày
07/12/2006, ông D được UBND huyện L cấp giấynhận QSDĐ thửa đất số 483,
khi cấp giấycó đo đạc, không cắm mốc tại thời điểm ông D được cấp giấy
không có ai tranh chấp.
Đến ngày 18/02/2009, ông D đơn xin cấp lại, cấp đổi giấynhận QSDĐ
và nhập thửa đất số 483 với thửa đất số 360a, cùng tờ bản đồ số 4a thành thửa đất
số 23, tờ bản đồ s38, diện tích 6.822,7m
2
được UBND huyện L cấp giấynhận
QSDĐ vào ngày 18/5/2011, khi cấp giấy tiến hành đo đạc, xác định ranh
giới, mốc giới, những chủ sử dụng đất tiếp giáp thống nhất ranh gồm ông
Nguyễn Trí T3, Thị K, ông Hữu Đ, ông Đặng Văn M tại thời điểm
ông D được cấp giấy không có ai tranh chấp.
Lúc bà bán đất có ghi vị trí là trọn thửa của bà Ả. Đối với phần phủ thờ
của chungchia cho ai. Cụ T2 trên phủ thờ tnăm 1966, lúc đó còn nhiều
người khác sử dụng không trực tiếp nhưng tới lui, có bà Thị C2 chung, cho
đến năm 1977 mới về ở với con bà Nguyễn Thị B2 đó nhưng vẫn ở đây và bà
Thị L3 thường xuyên tới lui đất từ đường. Sau khi cụ T2 tiếp quản phủ thờ
do không hợp nên mọi người ra riêng hết, chỉ còn gia đình cụ T2 ở. Nhưng giỗlễ
tết thì anh em bà con dòng họ về tụ lại lo cúng ông bà. Đến khi cụ T2 chết thì vợ
cụ T2 là cụ Nguyễn Thị K2 tiếp tục ở, các con thì ở riêng. Bà L tu sĩ chùa H1
tại thành phố C, tỉnh An Giang nên từ trước đến nay bà L không thường xuyên ở
trong phủ thờ để chăm lo hương khói cho ông bà tổ tiên. Phần từ đường là thuộc
họ Lê chứ không của riêng ai.
Ông D nhận chuyển nhượng đất của bà Ả trên cơ sở bà Ả được cấp đất hợp
6
pháp chuyển nhượng hợp pháp cho ông D. Lúc mua diện tích 4.030m
2
, do
được cấp diện tích này khi ông D mua lại đều không đo đạc thực tế,
chủ yếu dựa trên đơn khai đăng ký của đến ông D được cấp giấy
là được sang toàn bộ các thửa đất từ bà Ảnh mà cũng không có đo đạc. Khi mua
đất, ông D biết đất bà Ả bao gồm phần phủ thờ mà gia đình cụ T2, cụ K2 đang sử
dụng. Sau đó, ông D được cấp đổi nhiều lần, nhưng không ai tranh chấp kể cả cụ
K2, bà L nên ông D không đồng ý theo yêu cầu ca bà L.
Nay ông D yêu cầu bà L, chị N5, anh T1, ông S, bà N,chị L2 và anh D1 di
dời tất cả các tài sản nhân ra khỏi đất để giao trả đất lại cho ông D và ông D
đồng ý hỗ trợ giá trị một phần căn nhà cho L, chị N5 anh T1 theo định g
276.279.075 đồng hỗ trợ giá trị một phần căn nhà cho ông S, bà N,L2 và anh
D1 theo định giá 24.439.825 đồng. Đồng thời, ông D, anh T, K và ông K1
đều yêu cầu xác định căn nhà này là phủ thờ họ L4 và đồng ý giao phần phủ thờ
cho anh T, giao phần diện tích 923,4m
2
(đất tại nông thôn 180m
2
đất trồng
cây lâu năm 743,4m
2
) trong phạm vi các mốc tM1, M10, M9, M8, A, F, E, M24,
M25, M2, M28, M34, M27 về M1 theo Sơđo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày
09/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L cho anh T đại diện
đứng tên quản lý để con cháu của dòng họ Lê có nơi thờ cúng ông bà, tổ tiên của
dòng họ theo phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.
Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà L thì ông D không yêu
cầu trả giá trị các cây trồng có trên đất do ông D trồng và không yêu cầu định giá,
bồi thường các cây trồng mà ông D trồng thêm sau khi Tòa án thẩm định lần đầu,
ông D sẽ tự nguyện di dời. Đối với phần nền nhà mới xây ông D ng tự
nguyện tháo dỡ di dời và không yêu cầu định giá hay bồi thường.
Đối với phần diện tích theo đo đạc thực tế 108,1m
2
trong phạm vi các
mốc từ M2, M25, M3, M4, M16, M15, M14, M13, M12, M11 về M2 theo Sơđo
đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 09/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện L thì ông D thống nhất làm lối đi chung ra khu mộ, nên không yêu
cầu Tòa án giải quyết.
Ông D, anh T, K ông K1 đều thống nhất với các Biênxem xét thẩm
định tại chỗ của Tòa án, S1 đạc hiện trạng đất tranh chấp của Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện L Biênbản định giá tài sản của Hội đồng định giá.
- Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên toà, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị N trình bày:
Ông S (cháu ngoại của cụ Lê Trí T2 và cụ Nguyễn Thị K2) và bà N9 sống
trong một phần căn nhà (nhà ba gian) L đang quản lý, sử dụng (căn nhà
7
phụ) từ năm 1997. Trước đây, ông D không có sử dụng phần đất sau vườn mà chỉ
mới lấn chiếm trồng cây khoảng 08 - 09 năm nay. Nay ông S N10 ý di dời
đi theo yêu cầu của ông D. Trường hợp Tòa chấp nhận yêu cầu phản tố của ông
D thì ông S N11 ông D bồi thường theo giá trị của Hội đồng định giá là
24.439.825 đồng. Đối với phần đất tranh chấp thì ông S N12 L quyết
định, ông S N13 có yêu cầu hay tranh chấp.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ThHuỳnh N5 trình bày: Chị N5 thống nhất với lời trình bày của L không
có ý kiến trình bày bổ sung.
- Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên toà, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Phạm Hữu T1 trình bày: Anh T1 cháu ngoại của bà L, anh
T1 không có yêu cầu hay tranh chấp gì trong vụ án này. Nguyên nhân anh T1
tên trong hộ khẩu do anh T1 người con của Đồng Tháp nên muốn căn
cước công dân đầu số 087 đtrùng với giấy tờ còn lại. Hiện nay, anh T1 không
còn sinh sống trong căn nhà mà bà L đang quản lý, sử dụng mà đã chuyển về sinh
sống ở thị trấn C, huyện P, tỉnh Hậu Giang.
Tại Bảnán dân sthẩm số 25/2023/DS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2024,
của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò đã xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện củaLê Thị Kim L.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Khắc D.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị N,
anh Lê Khắc T, bà Thị K và ông Lê Triều K1.
4. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Thị Kim L về việc yêu cầu
huỷ một phần Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất đối với thửa đất số 23, tờ bản đồ số 38, diện tích 6.822,7m
2
, đất toạ
lạc tại ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp, được UBND huyện L, tỉnh Đồng
Tháp cấp cho hộ ông Khắc D vào ngày 18/5/2011 và yêu cầu ông Khắc D
trả giá tr xây dựng căn nhà bà Lê Thị Kim L đang ở theo định giá là 276.279.075
đồng trong trường hợp buộc phải di dời.
- Buộc Thị Kim L, chị Thị Huỳnh N5, anh Phạm Hữu T1, ông
Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Khánh L1 anh Nguyễn Khánh
D1 nghĩa vụ di dời tất cả các tài sản nhân trong căn nhà thờ để trả lại cho
ông Khắc D diện tích đất theo đo đạc thực tế 1.259,2m
2
được thể hiện từ
mốc M1, M27, M34, M28, M2, M25, M3, M4, M5, M6, M7, M24, E, F, A, M8,
8
M9, M10 vM1 theo Sơđo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 09/11/2023, của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đaihuyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
- Giao phần diện tích 923,4m
2
(đất ở tại nông thôn 180m
2
và đất trồng cây
lâu năm 743,4m
2
), trong phạm vi các mốc từ M1, M10, M9, M8, A, F, E, M24,
M25, M2, M28, M34, M27 về M1 theo Sơđo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày
09/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L căn nthờ
được xây dựng trên phần diện tích này cho anh Lê Khắc T đại diện đứng tên, quản
lý làm nơi thờ cúng ông bà, t tiên ca dòng họ Lê.
Các đương snghĩa vụ đến quan Nhànước thẩm quyền để đăng
ký, kê khai cấp giấyng nhận quyền sử dng đất theo quy định của pháp luật.
- Buộc ông Khắc D hoàn trả giá trị cho Thị Kim L số tiền
276.279.075 đồng (Hai trăm bảy mươi sáu triệu, hai trăm bảy mươi chín nghìn,
không trăm bảy mươi lăm đồng).
- Buộc ông Khắc D hoàn trả giá trị cho ông Nguyễn Thanh S
Nguyễn Thị N14 tiền 24.439.825 đồng (Hai mươi bốn triệu, bốn trăm ba mươi
chín nghìn, tám trăm hai mươi lăm đồng).
(Kèm theo Sơđo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 09/11/2023 của Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đaiLấp Vò, tỉnh Đồng Tháp và các Biênbản xem
xét thẩm định tại chỗ các ngày 30/7/2020, 20/01/2022, 05/6 19/10/2023 của
Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp)
5. Về chi phí tố tụng:
- Thị Kim L phải chịu chi phí đo đạc là 4.525.000 đồng (Bốn triệu,
năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng), chi phí xem xét thẩm định tại chỗ tổng cộng
1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng), chi phí thẩm định giá
500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Tổng cộng 6.525.000 đồng (Sáu triệu,
năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng). Bà L đã nộp tạm ứng và chi xong.
- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Lê Khắc D về việc tự nguyện chịu chi phí
xem xét thẩm định tại chỗ là 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Ông D đã nộp
tạm ứng và chi xong.
6. Về án phí và tạm ứng án phí:
- Thị Kim L là người cao tuổi đơn đề nghị miễn án phí nên
được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
9
- Ông Khắc D phải chịu số tiền 15.035.900 đồng (Mười lăm triệu, không
trăm ba mươi lăm nghìn, chín trăm đồng) án phí dân sự thẩm, được khấu trừ
vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà ông D đã nộp tạm ứng án phí
theo Biênthu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002390, ngày 30/11/2021 của C3
cụchành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp. Ông D còn phải nộp tiếp số tiền
14.735.900 đồng (Mười bốn triệu, bảy trăm ba mươi lăm nghìn, chín trăm đồng).
- Hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh S Nguyễn Thị N số tiền 611.000
đồng (Sáu trăm mười một nghìn đồng) mà ông S N đã nộp tạm ứng án phí
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002391, ngày 30/11/2021 của
C3 cụcThi hành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
- Hoàn trả cho ông Khắc D, anh Khắc T, Thị K ông Triều
K1 số tiền 300.000 đng (Ba trăm nghìn đng) mà ông D, anh T, bà K và ông K1
đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án s0003607,
ngày 31/01/2024 của C3 cụcThi hành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 21/5/2024, bà Th Kim L nguyên đơn kháng cáo yêu cầu giải
quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của L, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
của ông D và yêu cầu độc lập của người liên quan để bảo vệ chính đáng cho bà L
theo quy định ca pháp luật.
Ngày 21/5/2024, ông Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị Nào là người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa
bản án của Tòa án huyện L chấp nhận theo yêu cầu của bà N và ông S.
- Ti phiên tòa phúc thm
Bà L, ông S, bà N15 nguyên yêu cầu kháng cáo;
Anh Khắc T không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo L, ông S,
N.nhiên, anh Lê Khắc T đồng ý cho bà L tiếp tục ở trong căn nhà thờ dòng họ Lê
đến cuối đời nhưng không được ngăn cản con cháu họ Lê đến thấp hương cho tổ
tiên, ông bà. Đồng ý cho ông Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị N, chị N5, anh T1,
chị L1, anh D1 lưu cư do Hội đồng xét xử quyết định.
- Đại din Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
V vic tuân theo pháp lut t tng
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán:
10
Từ khi thụ giải quyết vụ việc đến khi nghị án, Thẩm phán đã tuân thủ
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc tuân theo pháp luật ttụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư
ký phiên tòa:
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
Bộ luật tốtụng dân sự về trình tự xét xử phúc thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định
của Bộ luật tốtụng dân sự.
V vic gii quyết v án: Nguồn gốc đất tranh chấp của cụ Minh H
(cha đcủa cụ Lê ThMinh Ả). Năm 1966, cụ H bị bắn chết không ai dám về nhà
thờ đó nên các bác trong dòng họ kêu cụ Trí T2 (cha đcủa L) về ở.
Ngày 27/11/1991, cụ Á (con cụ H) được UBND huyện T (nay huyện L) cấp
giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất số 360a 360b, tổng diện tích
4.030m
2
. Tại Công văn số 79/UBND- NC ngày 28/5/2021 của UBND huyệh Lấp
khẳng định: Việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho cấp theo đơn
khai đăng ký chủ sử dụng đất, không có đo đạc, cắm mốc, tại thời điểm cấp giấy
không tranh chấp, về đối tượng đảm bảo và vtrình tthủ tục đảm bảo theo
quy định của tại thời điểm cấp giấy.
Đến năm 1994, bà Ả chuyển nhượng hết diện tích đất trên giấy cho ông
Khắc D được UBND huyện L hạ trang 4 trên giấy chứng nhận QSDĐ của
Ảnh, nội dung đã chuyển nhượng hết cho ông D diện tích 4.030m
2
ngày
28/12/1994. Việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông D cũng không có đo đạc,
cắm mc. Ngoài ra, theo nội dung đơn đăng chuyển nhượng QSDĐ ghi thửa
đất số 360a có chiều ngang 45 mét, chiều dài 140 mét, thửa đất số 360b có chiều
ngang 40 mét và có ghi tứ cận của thửa đất tiếp giáp với chủ sử dụng đất còn lại,
cụ thể Đông giáp Lê Văn K3, Nam giáp sở hữu chủ - Hương quả, T4 giáp Huỳnh
Văn B3, Bắc giáp song Ngã Bác.
Theo lời trình bày của những người làm chứng là con của bà Ả cho rằng bà
chỉ chuyển nhượng cho ông D phần đất của bà Ả được hưởng 04 công, không
có chuyển nhượng phần của bà L và bà hoàn toàn không biết việc giấy đất của
cấp trùm luôn phần đất của L là không phù hợp. Khi ông D được cấp đổi
giấy ngày 18/5/2011 với diện tích 6.822,7m
2
, đo đạc thực tế, theo ranh giới
mốc giới của chủ sử dụng xác định, tại thời điểm cấp giấy không tranh chấp.
Thửa đất 360b sau khi ông D nhận chuyển nhượng từ cụ Ảnh thì sau đó tách ra
11
thành 02 thửa là thửa 482 và 483. Thửa đất số 23, tờ bản đồ số 38 được cấp đổi từ
thửa đất số 483, 360a, diện tích tăng do việc cấp giấy theo bản đồ 299 không chính
xác. Ngoài ra, theo nội dung Tờ chuyển nhượng ngày 14/12/1994 giữa bên chuyển
nhượng là bà Trần Thị Minh Á1, ông Trần Ngọc S2 và bà Trần Thị Kim T5 (các
con của cụ H) với ông Khắc D thể hiện , ông S2 T5 thống nhất
chuyển nhượng lại cho ông D đất và nhà gồm 02 căn nhà giáp với nhà phủ thờ họ
L4 05 công vườn cùng phần hương hoả theo tờ thoả thuận chia bất động sản
lúc trước để lại cho con cháu kế sự (Văn bản thoả thuận ngày 27/3/1965).
Về hiện trạng, quá trình sử dụng đất: Sau khi ông D nhận chuyển nhượng
từ bà Ả thì ông D sử dụng để cất nhà, trồng cây lâu năm. Gia đình ông T2 (cha
L) sống trong phủ thờ từ năm 1966, sau đó ông T2 chết thì K2 (mẹ L) và bà
L tiếp tục sống ở phủ thờ, đến năm 1997 thì bà L cho vợ chồng ông S2 nhờ nhà
của bà L, khi nhà xuống cấp, ông S2, bà N sửa chữa lại căn nhà. Ngoài ra, trên
đất còn có cây trồng của cụ T2 và bà L. Việc cụ T2 sống trong phủ thờ là sau khi
cụ H chết không ai dám ở nên anh em mới thống nhất để c T2 ở chứ không phải
là cho đất cụ T2. Khi bà được cấp giấy thì ông T2, K2L không ai
tranh chấp. Như vậy, căn cứ xác định phần đất tranh chấp của ông D nhận
chuyển nhượng từ bà Ả.
Đối với nhà thờ (phủ thờ, từ đường): L không thừa nhận căn nhà bà L
đang quản lý, sử dụng phủ thờ chỉ nhà do được cụ H cho cha bà. Tuy
nhiên, L cũng thừa nhận các ông bà, bác trong dòng họ kêu cụ T2 về
trong căn nhà này được thờ ông từ các cụ sơ, cụ cố cho đến chú bác hầu hết
đều mang họ L4 và hàng năm có đến 09 lễ giỗ. Hơn nữa, L còn thừa nhận vào
năm 2014 L thấy phủ thờ xuống cấp nên L bán phủ thờ được số tiền
300.000.000 đồng để lấy tiền xây lại phủ thờ như hiện nay và việc bà L bán phủ
thờ ông Nguyễn Văn C1 đứng ra cho, do ông C1 lớn nhất trong gánh họ. Do
đó, căn cứ để xác định một phần căn nhà L đang quản lý, sử dụng
một phần căn nhà mà bà L cho các cháu của L ông Nguyễn Thanh S
Nguyễn Thị N quản lý, sử dụng là nhà thờ họ Lê. Nhận thấy, bà L là tu sĩ (không
có chức vụ ở chùa) ở chùa H1 tại thành phố C, tỉnh An Giang và bà L đã cao tuổi,
L thừa nhận không thường xuyên nhà thờ hđể lo hương khói cho ông
bà. Đồng thời, các thành viên dòng họ Lê, trong đó ông D thống nhất giao phần
diện tích đất 923,4m
2
và nhà thờ trên phần diện tích đất này cho ông Lê Khắc T.
Xét thấy, giao diện tích đất trên và nhà thờ cho ông T đại diện họ Lê đứng tên và
quản lý là phù hợp.
12
Ông Nguyễn Thanh SNguyễn Thị N không đồng ý di dời để trả nhà
mái trái cho ông D không còn chỗ nào khác. Xét việc ông S N trên
đất do bà L đồng ý cho ở, không sự đồng ý của ông D cũng như những thành
viên trong dòng họ L4, nhà ông S N đang được xác định phủ thờ của
dòng họ L4 nên việc buộc hộ ông S và bà N di dời trả nhà là có căn cứ.
Tuy nhiên, tại phiên toà ông T đồng ý cho bà L tiếp tục ở trong phủ thờ cho
đến cuối đời và đồng ý cho ông S, N, chị N5, anh T1, chị L1anh D1 được
lưu cư, thời gian lưu do Toà án quyết định. Xét thấy sự tự nguyện của ông T
là phù hợp quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên chấp nhận.
Chấp nhận sự tự nguyện của ông D trả giá trị cho L theo kết quả của Hội
đồng định giá là 276.279.075 đồng và trả giá trị cho ông S, bà Nào là 24.439.825
đồng.
Xét kháng cáo của Thị Kim L, ông Nguyễn Thanh S Nguyễn
Thị Nào l không có cơ sở để chấp nhận.
Từ những phân tích trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm s:
25/2024/DS-ST ngày 08/5/2024 ca Tòa án nhân dân huyện Lấp theo hướng
ghi nhận sự tự nguyện của ông Khắc T cho Thị Kim L được tiếp tục
trong phủ thờ đến cuối đời. Ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị N, chị Thị
Huỳnh N5, anh Phạm Hữu T1, chị Nguyễn Khánh L1 và anh Nguyễn Khánh D1
được quyền lưu cư trong thời hạn là 06 tháng kể từ ngày 23/9/2024.
Về án phí đề nghị tuyên đúng theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được xem
xét tại phiên toà và lời phát biu ca Kim sát viên tại phiên toà, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1]. Về thủ tục t tụng:
Thị Kim L nguyên đơn, ông Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị Nào
l người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo trong hạn luật định. Do đó,
Tòa án cấp phúc thẩm thụ xét xử theo trình tự phúc thẩmđúng với Điều 273,
293 Bộ luật tốdân sự năm 2015.
[2]. Lê Thị Kim L kháng cáo yêu cầu giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của L, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông D yêu cầu độc lập
của người liên quan để bảo vệ chính đáng cho bà L theo quy định của pháp luật.
13
Hội đồng xét xử xét thấy: Các đương sự thừa nhận đất tranh chấp có nguồn
gốc từ ông chung cụ Minh H (cha ruột của cụ Thị Minh ). Ngày
27/11/1991, cụ được UBND huyện T (nay huyện L) cấp giấy chứng nhận
QSDĐ đối với thửa đất số 360a và 360b, tổng diện tích 4.030m
2
. Ngày
14/12/1994 cụ chuyển nhượng nhà và đất cho ông Khắc D, cụ Ảnh chuyển
nhượng hết diện tích đất trên giấy cho ông Khắc D và được UBND huyện L
hạ trang 4 trên giấy chứng nhận QSDĐ của bà Ảnh, nội dung đã chuyển nhượng
hết cho ông D diện tích 4.030m
2
đồng thời UBND huyện L cấp giấy chứng nhận
QSDĐ cho ông D diện ch 4.030m
2
, gồm thửa đất số 360a và 360b theo nội dung
đơn đăng chuyển nhượng QSDĐ ghi thửa đất số 360a chiều ngang 45
mét, chiều dài 140 mét, thửa đất số 360b có chiều ngang 40 mét và có ghi tứ cận
của thửa đất tiếp giáp. Việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông D cũng không
đo đạc, cắm mốc, chỉ hạ trang 4 trên giấy chứng nhận QSDĐ của bà Ảnh
do chuyển nhượng hết 02 thửa đất nói trên, tại thời điểm cấp giấy không ai
tranh chấp. Tại Công văn số 115/UBND-NC ngày 20/7/2020 của UBND huyện L
xác định: Khi ông D được cấp giấy ngày 18/5/2011 với diện tích 6.822,7m
2
,
đo đạc thực tế, theo ranh giới mốc giới của chủ sử dụng xác định, tại thời điểm
cấp giấy không tranh chấp, về trình tự thủ tục đảm bảo theo quy định tại thời
điểm cấp giấy. Tại Công văn số 3564/CNVPĐKĐĐHLV-KTĐC ngày 18/9/2023,
của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L cung cấp thông tin như sau:
Sổ mục thể hiện thửa đất số 360a 360b thể hiện tên chủ sử dụng đất
Thị Minh Ả (thửa đất 360b sau khi ông D nhận chuyển nhượng từ cụ Ảnh thì sau
đó tách ra thành 02 thửa là thửa 482, 483) 360a. Thửa đất số 23, tờ bản đồ số
38 được cấp đổi từ thửa đất s482, 483, 360a, diện tích tăng do việc cấp giấy theo
bản đồ 299 không chính xác. Đồng thời, theo hồ cấp giấy chứng nhận QSDĐ
cho ông D thể hiện: Khi cấp giấy cho ông D nhận chuyển nhượng từ Ảnh thì
không có tiến hành đo vẽ, thể hiện tứ cận của thửa đất số 360a và 360b vào ngày
17/12/1994. Đến ngày 29/10/2008, thửa đất thể hiện hình thể, các cạnh số
đo cụ thể theo biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất các chủ đất
tiếp giáp ký xác định ranh. Đối với nhà thờ (phủ thờ, từ đường): L không thừa
nhận căn nhà L đang quản lý, sử dụng phủ thờ chỉ nhà do được
cụ H cho cha bà. Tuy nhiên, L cũng thừa nhận các ông bà, cô bác trong dòng
họ kêu cụ T2 về ở và trong căn nhà này được thờ ông bà từ các cụ sơ, cụ cố cho
đến chú bác hầu hết đều mang họ L4 hàng năm đến 09 lễ giỗ. L ng
thừa nhận vào năm 2014 bà L thấy phủ thờ xuống cấp nên L bán phủ thờ được
số tiền 300.000.000 đồng để lấy tiền xây lại phủ thờ như hiện nay việc L
bán phủ thờ ông Nguyễn Văn C1 đứng ra cho, do ông C1 lớn nhất trong
gánh họ. Do đó, căn cứ để xác định một phần căn nhà mà bà L đang quản lý,
sử dụng một phần căn nhà L cho các cháu của L ông Nguyễn Thanh
S Nguyễn Thị N quản lý, sử dụng nhà thờ họ Lê. Đồng thời, hiện tại trong
căn nhà vẫn còn đang thờ hình các cụ sơ, cố…và các bàn thờ cổ vẫn còn. Các
14
thành viên dòng họ Lê, trong đó ông D thống nhất giao phần diện tích đất
923,4m
2
và nhà thờ trên phần diện tích đất này cho ông Lê Khắc T. Xét thấy, giao
diện tích đất trên và nhà thờ cho ông T đại diện họ Lê đứng tên và quản lý là phù
hợp. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bà L là không có căn cứ nên Hi đồng xét xử
không chấp nhận. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm anh Lê Khắc T đồng ý cho
Thị Kim L tiếp tục trong căn nthờ dòng họ đến cuối đời nhưng
không được ngăn cản con cháu họ Lê đến thấp hương cho tổ tiên, ông bà. Đồng ý
cho ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị N, chị N5, anh T1, chị L1, anh D1 lưu
cư do Hội đồng xét xử quyết định. Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện
của anh T phù hợp với truyền thống ca người Việt Nam, không trái với điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự
nguyện này của anh T.
[3]. Xét bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thanh S yêu cầu sửa án của Tòa
án huyện Lấp chấp nhận theo yêu cầu của N ông S. Như nhận định tại
mục [2] xét thấy yêu cầu kháng cáo của ông S, bà Nào l không có căn cứ nên Hội
đồng xét xử không chấp nhận.
[4]. Từ những phân ch trên Hội đồng xét x phúc thm xét thy Bảnán
dân sthẩm s 25/2024/DS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp đã xcăn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc
thẩm ghi nhận sự tự nguyện của anh T nên sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm.
[5]. Xét lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp
đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà L, ông S, bà
N; ghinhận sự tự nguyện của anh T là phợp pháp luật nên chấp nhận như đã
nhận định nêu trên.
[6]. V án phí dân s phúc thẩm: Do sửa án dân sự sơ thẩm nên bà Thị
Kim L, ông Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị N không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị N tiền tạm ứng án phí
dân sự phúc thẩm theo quy định.
[7]. Các phn khác ca Bn án dân s sơ thẩm s 25/2024/DS-ST ngày 08
tháng 5 năm 2024, của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp không có
kháng cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo,
kháng ngh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
15
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 Bộ luật tốdân sự; Nghị quyết
s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường V Quc Hi quy
định về án phí và lphí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị Kim L, ông Nguyễn
Thanh S, bà Nguyễn Thị N.
2. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm s 25/2024/DS-ST ngày 08 tháng 5
năm 2024, của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim L.
2.2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Khắc D.
2.3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị
N, anh Lê Khắc T, bà Lê Thị K và ông Lê Triều K1.
2.4. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Thị Kim L về việc yêu cầu
huỷ một phần Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất đối với thửa đất số 23, tờ bản đồ số 38, diện tích 6.822,7m
2
, đất toạ
lạc tại ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp, được UBND huyện L, tỉnh Đồng
Tháp cấp cho hộ ông Khắc D vào ngày 18/5/2011 và yêu cầu ông Khắc D
trả giá tr xây dựng căn nhà bà Lê Thị Kim L đang theo định giá là 276.279.075
đồng trong trường hợp buộc phải di dời.
- Buộc ThKim L, chị Thị Huỳnh N5, anh Phạm Hữu T1, ông
Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Khánh L1 anh Nguyễn Khánh
D1 nghĩa vụ trả lại cho ông Khắc D diện tích đất theo đo đạc thực tế
1.259,2m
2
được thể hiện từ mốc M1, M27, M34, M28, M2, M25, M3, M4, M5,
M6, M7, M24, E, F, A, M8, M9, M10 về M1 theo Sơđo đạc hiện trạng đất tranh
chấp ngày 09/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L, tỉnh
Đồng Tháp.
- Giao phần diện tích 923,4m
2
(đất ở tại nông thôn 180m
2
và đất trồng cây
lâu năm 743,4m
2
), trong phạm vi các mốc từ M1, M10, M9, M8, A, F, E, M24,
M25, M2, M28, M34, M27 về M1 theo Sơđo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày
09/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L căn nthờ
được xây dựng trên phần diện tích này cho anh Khắc T đại diện đứng tên, quản
lý làm nơi thờ cúng ông bà, t tiên ca dòng họ Lê.
Các đương snghĩa vụ đến quan Nhànước thẩm quyền để đăng
ký, kê khai cấp giấychứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
16
- Ghi nhận sự tự nguyện của anh Khắc T đồng ý cho Thị Kim L
tiếp tục ở trong căn nhà thờ dòng họ Lê đến cui đời nhưng không được ngăn cản
con cháu họ Lê đến thấp hương cho t tiên, ông bà.
- Buộc chị Lê Thị Huỳnh N5, anh Phạm Hữu T1, ông Nguyễn Thanh S, bà
Nguyễn Thị N, chị Nguyễn Khánh L1 anh Nguyễn Khánh D1 nghĩa vụ di
dời tất cả các tài sản nhân ra khỏi nhà để trả lại cho anh Khắc T quản
trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày 23/9/2024.
- Buộc ông Lê Khắc D hoàn trả giá trị căn nhà cho bà Lê Thị Kim L số tiền
276.279.075 đồng (Hai trăm bảy mươi sáu triệu, hai trăm bảy mươi chín nghìn,
không trăm bảy mươi lăm đồng).
- Buộc ông Lê Khắc D hoàn trả giá trị căn nhà cho ông Nguyễn Thanh S
Nguyễn Thị N số tiền 24.439.825 đồng (Hai mươi bốn triệu, bốn trăm ba mươi
chín nghìn, tám trăm hai mươi lăm đồng).
(Kèm theo Sơđo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 09/11/2023 của Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đaiLấp Vò, tỉnh Đồng Tháp và các Biênbản xem
xét thẩm định tại chỗ các ngày 30/7/2020, 20/01/2022, 05/6 19/10/2023 của
Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp)
3. Về chi phí tố tụng:
- Thị Kim L phải chịu chi phí đo đạc 4.525.000 đồng (Bốn triệu,
năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng), chi phí xem xét thẩm định tại chỗ tổng cộng
1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng), chi phí thẩm định g
500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Tổng cộng 6.525.000 đồng (Sáu triệu,
năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng). Bà L đã nộp tạm ứng và chi xong.
- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Lê Khắc D về việc tự nguyện chịu chi phí
xem xét thẩm định tại chỗ là 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Ông D đã nộp
tạm ng và chi xong.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm
- Thị Kim L là người cao tuổi đơn đnghị miễn án phí nên
được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
- Ông Khắc D phải chịu số tiền 15.035.900 đồng (Mười lăm triệu, không
trăm ba mươi lăm nghìn, chín trăm đồng) án phí dân sự thẩm, được khấu trừ
vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà ông D đã nộp tạm ứng án phí
theo Biênthu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002390, ngày 30/11/2021 của C3
17
cụchành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp. Ông D còn phải nộp tiếp số tiền
14.735.900 đồng (Mười bốn triệu, bảy trăm ba mươi lăm nghìn, chín trăm đồng).
- Hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh S Nguyễn Thị N số tiền 611.000
đồng (Sáu trăm mười một nghìn đồng) mà ông S N đã nộp tạm ứng án phí
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002391, ngày 30/11/2021 của
C3 cụcThi hành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
- Hoàn trả cho ông Khắc D, anh Khắc T, Thị K ông Triều
K1 số tiền 300.000 đng (Ba trăm nghìn đng) mà ông D, anh T, bà K và ông K1
đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003607,
ngày 31/01/2024 của C3 cụcThi hành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
5. Án phí dân sự phúc thẩm:
- Bà Lê Thị Kim L, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị N16 phải nộp án
phí dân sự phúc thẩm.
- Hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh S, Nguyễn Thị N số tiền 300.000đồng
tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007430 ngày
28/5/2023 của Chi cụcThi hành án dân sự huyện L.
6. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, b sung năm 2014 thì người được thi
hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, b sung năm 2014;
thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự sửa đổi b sung năm 2014.
7. Các phn khác ca Bn án dân s thẩm s 25/2023/DS-ST, ngày
08/5/2024, của Tòa án nhân dân huyện Lấp , tỉnh Đồng Tháp không có kháng
cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng
ngh.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Phòng KTNV và THA;
- VKSND Tỉnh;
- TAND huyện Lấp Vò;
- Chi Cục THADS huyện Lấp Vò;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS (Trang).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký tên đóng dấu
Lê Hng Nưc
18
Tải về
Bản án số 584/2024/DS-PT Bản án số 584/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 584/2024/DS-PT Bản án số 584/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất