Bản án số 566/2023/HS-PT ngày 21-08-2023 của TAND cấp cao về về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 566_2023_HS-PT_HCM

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 566_2023_HS-PT_HCM

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 566/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 566/2023/HS-PT ngày 21-08-2023 của TAND cấp cao về về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
Tội danh: 349.Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 566/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Thị Kim H phạm tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 566/2023/HS-PT
Ngày: 21 - 8 - 2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Hà Huy Cầu.
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thanh Duyên
Bà Trần Thị Hòa Hiệp
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tâm Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Dũng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 21 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ
án hình sự phúc thẩm thụ số 189/2023/TLPT-HS ngày 20 tháng 3 năm 2023
đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim H do kháng cáo của bị cáo đối với Bản án
hình sự thẩm số: 08/2023/HS-ST ngày 10 tháng 02 năm 2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thị Kim H (Mười T), sinh năm 1969; Giới tính: Nữ; Nơi trú:
Ấp P, Đ, huyện A, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn
giáo: Đạo Phật; Nghề nghiệp: Kinh doanh, buôn bán; Trình độ học vấn: 6/12;
Cha: Nguyễn n T1, sinh năm 1932 (chết); Mẹ: Mai Thị Ê, sinh năm 1932
(chết); Anh, chị, em: 12 người, bị cáo người thứ 9; Chồng: Huỳnh K,
sinh năm 1964; Có 04 người con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 2009;
Quá trình nhân thân: Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, học hết lớp 6 nghỉ,
phụ giúp gia đình.
Năm 1999, bị quan An ninh điều tra Công an tỉnh A bắt về tội “Buôn
lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” và bị tạm giam 03
tháng 03 ngày được tha về, không xử lý.
Ngày 22/01/2007, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù, về tội “Buôn lậu”, chấp hành xong hình
phạt ngày 25/10/2007.
Ngày 12/8/2021 và ngày 01/9/2021 bị quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh A khởi tố bị can về tội “Buôn lậu”.
Ngày 04/11/2021, bị quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh A khởi tố bị
can về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”.
Ngày 23/12/2021, bị quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh A khởi tố bị
can về tội Rửa tiền”.
2
Ngày 21/11/2022, bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
xử phạt 08 năm về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” theo Bản
án hình sự phúc thẩm số 844/2022/HS-PT.
Ngày 09/01/2023 bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xử phạt 14 năm tù về
tội “Buôn lậu”.
- Tiền án, Tiền sự: Không;
- Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác từ ngày 06/7/2021 đến nay (có
mặt);
- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu:
1/Luật sư Phạm Thanh Bình – thuộc Đoàn Luật sư thành phố H (có mặt)
2/Luật sư Đỗ Đức B –thuộc Đoàn Luật sư thành phố H (có mặt).
3/Luật sư Hồ Hoàng P thuộc Đoàn Luật sư tỉnh A (có mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Mai Thị Ngọc P1, sinh năm 1979; (có mặt)
2. Võ Văn T2, sinh năm 1980; (có mặt)
(Hiện Phấn, T2 đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Nhà tạm giCông
an thành phố L)
3. Lê Thị Bạch V, sinh năm 1966; (có mặt)
4. Nguyễn Văn L, sinh năm 1984; (có mặt)
5. Nguyễn Hoàng Ú, sinh năm 1971; (có mặt)
6. Nguyễn Hữu P2, sinh năm 1989; (có mặt)
7. Phạm Tấn L1, sinh năm 1986; (có mặt)
(H, L, Ú, P2, L1 đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Trại tạm giam
Công an tỉnh A)
8. Phạm Thanh S, sinh năm 1982; (có mặt)
Nơi cư trú: tổ A, ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.
(Hiện đang thi hành án tại Trại giam C2)
9. Nguyễn Phạm Khắc T3 (C), sinh năm 1992; (xin xét xử vắng mặt)
Nơi cư trú: ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.
10. Lê Thị Thu T4, sinh năm 1999; (vắng mặt)
Nơi cư trú: thôn H, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.
11. Dương Thành N, sinh năm 1990; (vắng mặt)
Nơi cư trú: ấp H, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.
12. Nguyễn Thị Kim X (Năm P3), sinh năm 1959; (vắng mặt)
Nơi cư trú: ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.
13. Nguyễn Thanh T5 (Phước A), sinh năm: 1986; (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang;
14. Nguyễn Tuấn T6 (T7), sinh năm: 1991; (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang;
15. Huỳnh Văn V1, sinh năm: 1985; (có mặt)
Nơi cư trú: Tổ F, ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang;
16. Lê Ngọc L2 (L3), sinh năm: 1958; (có mặt)
Nơi cư trú: Khóm C, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang;
17. Lê Tấn T8, sinh năm: 1982; (vắng mặt)
3
Nơi cư trú: Khóm H, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang;
18. Trần Hoàng M, sinh năm: 1987; (xin xét xử vắng mặt)
Nơi cư trú: Số D, G1, tổ C, 6 A, quận N, thành phố Cần Thơ;
19. Tô L4, sinh năm: 1958; (vắng mặt)
Nơi cư trú: Tổ 8, khóm M, phường V, thành phố C, tỉnh An Giang;
20. Nguyễn Văn H1, sinh năm: 1995; (vắng mặt)
Nơi cư trú: Số A, đường G, phường T, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh;
21. Nguyễn Thị H2, sinh năm: 1958; (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồvụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyn Th Kim H (M), ch đạo những người làm thuê cho H gm Phm
Tn L1, Th Bch V, Mai Th Ngc P1 nhn và kiểm đếm USD do các T9
vàng giao đ Nguyn Hoàng Ú, Văn T2, Nguyn Hu P2, Nguyễn Văn M1,
Trần Văn H3, Nguyễn Văn L cùng mt s ngưi khác vn chuyn USD t Vit
Nam sang Campuchia nhn vàng t Campuchia vn chuyn v Vit Nam
giao li cho các tim vàng thành ph C để nhn tin công. Khong 12 gi 40
phút ngày 30/10/2020, khi nhóm ni ca H đang vn chuyn 50.907,32 gam
vàng (99,99%) t Campuchia v đến khu vc khóm V, phường V, thành ph C
thì b lực lượng Công an phát hin bt gi H3 cùng tang vt. Còn Ú, T2, M1, P2
b trn sang Campuchia. Sau khi biết vic vn chuyn vàng b phát hin, khong
15 gi ngày 30/10/2020 H đin thoi cho Th Bch V kêu Nguyn Phm
Khc T3 (C) điều khin xe (không bin s) ch V đến bến đò Bùng
Binh ti V, huyn A (khu vc biên gii) gp H. Khi T3 ch V đến V thì
gp H cùng Tô L4 đứng ch, lúc này H kêu L4 đi v và kêu T3 ch H cùng V đi
thêm một đoạn khong 100m thì xung xe, H kêu V xung xung máy ca
người đàn ông (chưa xác định được nhân thân lai lịch) để đưa V sang
Campuchia trưc, khoảng 30 phút sau người đàn ông này quay lại rước H đưa
sang Campuchia, H cùng V đến nhà ca Nguyn Th Kim X ti G
(Campuchia).
Đến khong 9 gi ngày 31/10/2020, khi đang thành ph C, Nguyễn Văn
L gặp người đàn ông mang khẩu trang (chưa họ tên) điều khin xe mô
(không bin s) nói “Công an đến nhà kiếm mày, lên xe tao ch đi trốn” thì
Lê lên xe cho người này ch đến bến đò Bùng Binh (xã V) và lên xuồng máy để
một người đàn ông Campuchia đưa sang Campuchia cùng vi H, V ti nhà ca
X.
Đến ngày 10/11/2020, H đin thoi kêu Nguyn Phm Khc T3 (Chì) tìm
s đin thoi ca Mai Th Ngc P1 để đưa cho Nguyn Thanh T5 (P). T3 đến
gp bà Nguyễn Thị H2 (mẹ của P1) xin số điện thoại của P1cung cp số điện
thoại của P1 cho T5 Nguyn Tun T6 (T7). Đến khoảng trưa cùng ngày, T5
đin thoi cho P1 hi P1 đang ở đâu và kêu chờ s có người đến rước. Sau đó T6
đi xe mô tô đến khu vc Trung tâm thương mại C3 c Phấn đến khu vc xã Đ,
huyn A, T6 kêu P1 đi xung sông, tại đây người đàn ông (không họ
4
tên địa ch) ch sn và ch P1 v nhà ngoi ca P1 thuc xã V, tại đây Phấn gp
Ngc L2 (T). Sau đó người đàn ông này dn P1, L2 đi bộ một đon khong
100m ri lên xuồng máy để một người đàn ông khác chở đi đến ct mc biên
gii thuc xã V huyn A và P, L2 qua xung máy cho Huỳnh Văn V1 ch c hai
sang Campuchia gp H, V, ti nhà ca X (G, Campuchia). đây khoảng 01
tháng, H cùng V, P1, L, V1 đến nhà ca R (thành ph P, Campuchia) trn. Sau
đó, R cũng đưa Phm Thanh S, Văn T2, Nguyn Hu P2, Phm Tn L1 đến
cùng H, thi gian đây tt c chi phí sinh hot hàng ngày của nhóm đu do H
chi tr. Ngày 09/7/2021, V, L, P1, S, T2, P2, L1 đầu thú. H bị bắt theo Quyết
định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh A để điều tra về hành vi
“Buôn lậu”.
Ngày 16/12/2021, Nguyn Th Kim H bị khởi tố điều tra về tội “Tổ chức
cho người khác trốn đi nước ngoài”.
* Quá trình điều tra, các người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai
nhận:
- Mai Thị Ngọc P1, Thị Bạch V, Nguyễn Văn L, Nguyễn Phạm Khắc
T3 (C), trình bày việc H là người tổ chức cho P1, V, Lê sang Campuchia để trốn
tránh pháp luật như nội dung vụ án đã nêu.
- Nguyễn Thị Kim X, cho biết: Căn nhà 02 tầng tại T, Campuchia
của X, không tổ chức cho H cùng đồng phạm trốn tại đây.
- Nguyn Thanh T5 (P), Nguyn Tun T6 (T7) khai: T6, T5 không liên
lạc đ đón P1 như T3, P1 đã khai. Trong lịch s cuc gi ca T5 gi cho T3
vào ngày 10/11/2020 do T5 thy s đin thoi l nên gi li ch không trao
đổi gì.
- Ngọc L2 (T), Tấn T8, Trần Hoàng M, đều cho biết: Sáng ngày
31/10/2020, L2, T8, M đến Nội theo yêu cầu của H luật Phạm Thanh
B1. Ngày 01/11/2020, H đến cùng phòng với L2, còn T3 phòng riêng, đến
chiều tối ngày 01/11/2020 ngày 02/11/2020 T8, L2 v An Giang. Ngày
03/11/2020, H, T3 về Thành phố Hồ Chí Minh, còn M về Cần Thơ. Khoảng vài
ngày sau khi từ Nội về, người đàn ông khoảng 40 tuổi điều khiển xe
đến nhà chở L2 đi gặp P1, rồi người này dẫn L2, P1 lên một chiếc xuồng đưa
đến cột mốc V thì qua chiếc xuồng khác do V1 điều khiển chcả hai sang
nhà kho ở G (Campuchia) gặp H. Ở đây được khoảng 02 ngày thì V1 đưa L2 về
lại Việt Nam. Còn M, sau 02 ngày từ khi Nội về, số tài khoản (không
biết người chuyển là ai) đã chuyển vào tài khoản của M mở tại Ngân hàng A2 số
tiền 200.000.000 đồng, số tiền này của H chuyển trả lại tiền chí phí khi
Nội mà M đã chi.
- Nguyễn Văn H1, khai: Ngày 30/10/2020, H không đến nhà H1 H cũng
không có nhờ H1 đặt vé máy bay cho H.
- Nguyễn Thị H2 (mẹ của P1), cho biết: Khoảng 10 ngày sau khi Công an
bắt vụ 51 vàng, T3 đến nhà xin số điện thoại của P1. H2 đưa tờ giấy
P1 có ghi sẵn số điện thoại cho T3.
Tại quan điều tra, bị cáo Nguyễn Thị Kim H không thừa nhận hành vi
phạm tội.
5
Tại bản án hình sự thẩm số 08/2023/HS-ST ngày 10 tháng 02 năm
2023 Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim H phạm tội: “T chức cho ngưi khác
trốn đi ớc ngoài”.
Áp dụng khon 1, khoản 4 Điều 349, Điều 38 B lut Hình s năm 2015 được
sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim H 03 (ba) năm tù, thời hạn tính từ
ngày 06/7/2021.
Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị Kim H 40.000.000 đồng
(bốn mươi triệu đồng) nộp vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xvật chứng, án phí quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 15/02/2023 bị o Nguyễn Thị Kim H
kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh cho bị cáo.
Trong phần tranh luận:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Bản án thẩm đã xét xử căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho b cáo (Luật Phạm Thanh B1) trình bày: Tại
phiên tòa thẩm lần thứ nhất qua quá trình xét hỏi bị cáo những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, xem xét các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ
án và lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa thì,
Hội đồng xét xử nhận định do cần phải được điều tra làm sáng tỏ vụ án, chứng
minh hành vi phạm tội của bị cáo nên đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
với các yêu cầu làm vai trò trách nhiệm của Nguyễn Phạm Khắc T3, Quốc
A1, T7 trong vụ án. Thứ hai thu thập, xác minh thời gian địa điểm, lời khai
của Quốc A1, T7, các bị cáo đã dùng số điện thoại nào liên lạc với V. Với
những tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra bổ sung tại phiên tòa
thẩm ngày 10/02/2023 thì Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã rút lại một
phần truy tố. Trên sở đó Tòa án cấp thẩm đã quy kết bị cáo H 03 năm
về tội Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” vì cho rằng có đủ căn cứ để
chứng minh bị cáo H đã tổ chức cho V trốn sang Campuchia.
Tuy nhiên với vai trò là người bào chữa tham gia vụ án này từ giai đoạn
điều tra thì người bào chữa thấy rằng những tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì a
án cấp thẩm xác định chứng cứ để kết tội bị cáo không khách quan
không đúng quy định của pháp luật bởi các lẽ sau: Trong quá trình trả hồ sơ điều
tra bổ sung, Tòa án cấp thẩm đã nêu xác minh thời gian, địa điểm của bị
cáo H trong ngày 31/10/2020 là một trong những nội dung cần được điều tra làm
để chứng minh hành vi của bị cáo H, nhưng quá trình điều tra bổ sung đến
phiên tòa ngày 10/02/2023 vẫn chưa giải quyết được nội dung này, chưa xác
minh được chuyến bay bị cáo H đi Nội, mặc vậy bản án thẩm đã cho
6
rằng việc bị cáo H đi Hà Nội và nội dung H nại ra để chứng minh không đi cùng
V sang Campuchia. Bản án thẩm còn nhận định rằng tại địa bàn thành phố C
giáp ranh với Campuchia cách một con sông nhỏ, nên sau khi đưa V sang
Campuchia, bị cáo H vẫn thể trở vC trong cùng ngày, để hôm sau đi Thành
phố Hồ Chí Minh là hoàn toàn suy diễn, thiếu căn cứ pháp luật, mâu thuẫn chính
với nội dung trong việc trả hồ để điều tra bổ sung. Trong hồ không bất
cứ tài liệu nào chứng minh nội dung này. Tại phiên tòa phúc thẩm, V cũng
khai đi một mình qua Campuchia, lịch trình của bị cáo H khai về việc đi
Thành phố Hồ Chí Minh đúng, việc H đi máy bay hay không tình tiết
quan trọng, đề nghị thu thập chứng cứ xác minh Kim H di máy bay không,
hãng nào và ngày nào để có căn cứ xác định chính xác vụ việc.
Người bào chữa cho bị cáo (Luật Đỗ Đức B) trình y: Tòa án cấp
thẩm chưa làm được tình tiết bị cáo H đi Hà Nội, liên quan đến việc bị cáo H
đưa V đi Campuchia, chứng cứ này quan trọng nên để không làm oan người
vô tội, đề nghị Hội đồng xét xử cho hoãn phiên tòa để làm rõ chứng cứ này.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết
quả tranh luận tại phiên tòa, trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý
kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H làm trong hạn luật định
nên hợp lệ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo đề nghị hoãn phiên
tòa để thu thập thêm tài liệu, chứng cứ. Xét, điểm b Khoản 1 Điều 352 Bộ luật t
tụng hình sự quy định: “Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu,
đồ vật không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa” trường hợp hoãn
phiên tòa phúc thẩm trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử nhận thấy cần
phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Bộ luật
tố tụng hình sự không quy định về trường hợp hoãn phiên a để thu thập
chứng cứ theo yêu cầu của người bào chữa. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vụ án.
[2] Nguyễn Thị Kim H bị cáo trong vụ án “Buôn lậu” 50.906,31 gam
vàng 99,99% bị phát hiện ngày 30/10/2020 tại thành phố C, người chủ mưu
chỉ đạo cho các đối tượng (hiện đã bị khởi tố trong vụ án Buôn lậu cùng với bị
o H) kiểm đếm tiền USD để vận chuyển sang Campuchia mua vàng đem về
cho bị cáo H để bị cáo giao lại cho các tiệm vàng trong thành phố C để thu lợi.
Sau khi vụ việc bị phát hiện bắt quả tang, bị cáo đã chỉ đạo, điều động Nguyễn
Phạm Khắc T3 (Chì) chở V đến gặp bị cáo để cùng trốn sang Campuchia. Khi bị
cáo cùng V, P1, L G được khoảng 01 tháng, sợ bị phát hiện bcáo đã chỉ đạo
các đối tường này cùng bcáo di chuyển đến Thành phố P thuê căn ncủa Ra
để tập hợp các đối tượng tham gia trong vụ buôn lậu 51 vàng lại nhằm để
các đối tượng không bị phát hiện để khai ra hành vi vi phạm pháp luật của bị
cáo, bị cáo tổ chức cho V sang Campuchia để trốn tránh pháp luật.
Với hành vi nêu trên, Toà án cấp thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị
Kim H (M) phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” quy định tại
7
khoản 1, khoản 4 Điều 349 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm
2017.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H:
[3.1] Lời khai của những người làm chứng người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong vụ án có nội dung:
- Thị Bạch V trình bày: Vào ngày 30/10/2020 H trực tiếp điện thoại
cho V kêu Nguyễn Phạm Khắc T3 chở V đến Vĩnh Hội Đ để trốn sang
Campuchia. Khi đến nơi V ng với H đi đến bến sông, H chỉ đạo cho V đi sang
Campuchia trước, khoảng 30 phút sau thì H qua đến gặp V và sắp xếp cho V
trên một chiếc ghe rồi H đi đâu V không biết.
- Văn T2, Nguyễn Hữu P2, Phạm Tấn L1, Nguyễn Hoàng Ú, đều trình
bày: T2, P2, L1, Ú, tham gia vận chuyển vàng từ Campuchia về Việt Nam cho
H, khi bị Công an phát hiện, Ú điều khiển vỏ lãi chở T2, P2 trốn sang
Campuchia nhà của L5, T10, Ra; Sau đó Ra đưa T2, P2, L1 đến căn nhà 03
tầng thành phố N, Campuchia cùng H, L, S, P1; còn Ú trốn tại nhà một
người quen Campuchia. Thời gian Campuchia, mọi chi phí sinh hoạt hàng
ngày do H chi trả.
- Phạm Thanh S trình bày: Sang tham gia vận chuyển vàng theo chỉ đạo
của H, khi bị Công an phát hiện, S trốn sang Campuchia làm thuê cho người tên
Qua thì H điện thoại kêu S tiếp tục lại Campuchia trốn cùng với H, V, P1, L,
P2, T2, L1.
- Thị Thu T4 trình bày: Trưa ngày 30/10/2020, T4 nghe V, P1 nói
Công an bắt vụ vận chuyển vàng và thấy V nói chuyện điện thoại với H, nghe H
kêu V bỏ đi nhưng không rõ đi đâu.
- Dương Thành N Nguyễn Phạm Khắc T3 (C), trình bày: Sáng ngày
30/10/2020, N điều khiển xe ô chở H, T3 đến khu vực V, V (huyện G,
tỉnh Kiên Giang), đến khoảng hơn 12 giờ người điện thoại cho H hay “đồ
đã bị bắt” nên H kêu quay xe về C, khi đến Bưu điện C4 thì H kêu T3 xuống xe
rồi T3 đi về nhà H thì gặp V được V kêu ch đến bến đò Bùng Binh (V,
huyn A) gp H. Còn N ch H đến cầu K thì H kêu dừng xe, sau đó H xuống xe
và đi đâu N không biết.
- L4 khai: Khoảng 15 giờ ngày 30/10/2020, H đi Taxi đến cầu K để
rước L4 đi đám giỗ. Khi xe đi qua khỏi phủ thờ Nguyễn M2khoảng 2km thì
H nói với tài xế dừng xe đợi, L4 cùng H đi bộ xuống cách bến đò Bùng Binh
khoảng 100m thì thấy T3 điều khiển xe mô tô chở một người phụ nữ mang khẩu
trang, lúc này H kêu L4 về trước bằng Taxi, còn H, T3 và người nữ đi đâu thì L4
không biết.
Ngoài ra, bị cáo H còn nại ra rằng ngày 30/10/2020 bị cáo đi Kiên Giang
cùng với N (do N tài xế của bị cáo), sau đó bcáo đi lên Thành phố HChí
Minh, ngủ qua đêm tại căn nhà số A, đường G, phường T, quận G, Thành phố
Hồ Chí Minh của Nguyễn Văn H1 (sinh ngày 01/12/1995), chiều hôm sau ngày
31/10/2020 bị cáo mua máy bay đi Nội, nên bị cáo không đi cùng V sang
Campuchia, cũng như gặp những người như T3 (C), Long ngày 30/10/2020
tại V như họ đã trình bày. Nhưng chính Nguyễn Văn H1 khai: Vào đêm
8
30/10/2020 bị cáo H không ngủ lại nhà của ông. L2 khai: khoảng 01 giờ
sáng ngày 01/11/2020 L2 ra sân bay H rước bị cáo H”. Điều này cho thấy ngày
30/10/2020 bị cáo không đi thành phố Hồ Chí Minh như bị cáo đã khai nhận,
việc V, T3, L4 khai nhận gặp bị cáo C hoàn toàn căn cứ và phợp
với những tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hơn nữa địa bàn thành
phố C giáp ranh với C1, qua lại chỉ cách một con sông nhỏ, nên ngày
30/10/2020 sau khi đưa V qua Campuchia, bị cáo trở về lại C để ngày hôm sau
đi Thành phố Hồ Chí Minh vẫn đảm bảo về thời gian.
Mặc dù, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội, nhưng quá trình điều
tra đã đủ sở xác định: Bị cáo H biết bản thân bị cáo Thị Bạch V,
Phạm Tấn L1, Nguyễn Hữu P2, Văn T2 đang bị truy nã, còn Mai Thị Ngọc
P1, Nguyễn Văn L, Phạm Thanh S bị truy tìm vì liên quan trong v51
vàng, nên đã hành vi tổ chức, chỉ đạo cho các đối tượng liên quan trốn sang
Campuchia.
[3.2] Theo Bản o trạng số 96/CT-VKSAG-P1 ngày 29/11/2022 của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã kết luận bị cáo Nguyễn Thị Kim H 03
lần tổ chức cho Lê Thị Bạch V, Mai Thị Ngọc P1, Nguyễn Văn L sang
Campuchia. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa thẩm,
Mai Thị Ngọc P1Nguyễn Văn L đều khai nhận không do bị cáo trực tiếp kêu
những người này đi trốn sang Campuchia, qua trung gian một người khác,
khi sang đến Campuchia gặp bị cáo H thì mới nghĩ rằng bị cáo H tchức cho
mình trốn sang Campuchia. Đồng thời, tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm
sát đã rút lại một phần truy tố, chỉ quy kết bị cáo H tổ chức cho một mình Lê Thị
Bạch V trốn sang nước ngoài chuyển khung từ khoản 2 Điều 349 Bộ luật
hình sự sang khoản 1 Điều 349 Bộ luật hình sự. Do vậy, Tòa án cấp thẩm đã
xét xbị cáo Nguyễn Thị Kim H phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi
nước ngoài” theo khoản 1 Điều 349 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo nêu bị cáo H
khai rằng: Ngày 30/10/2020 bị cáo lên Thành phố Hồ Chí Minh sáng ngày
hôm sau bị cáo ra Hà Nội bằng máy bay, nhưng cơ quan tiến tố tụng cấp sơ thẩm
không làm rõ nội dung này là không đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội của
bị cáo. Xét, nội dung này đã được cơ quan tiến hành tố tụng cấp thẩm làm
qua lời khai của Nguyễn Văn H1, Ngọc L2 phù hợp với các tài liệu, chứng
cứ trong hồ vụ án, nên Hội đồng xét xử không căn cứ để chấp nhận lời
trình bày này của người bào chữa cho bị cáo.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của
đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H;
Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Các quyết định khác ca bản án thẩm không kháng cáo, kháng
ngh đã có hiệu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
[6] Án phí hình s phúc thẩm: Do kháng cáo không đưc chp nhn, nên
b cáo phi chu.
Vì các lẽ trên,
9
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình snăm
2015,
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H;
Giữ nguyên bản án hình sự thẩm số 08/2023/HS-ST ngày 10/02/2023
của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang,
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim H phạm tội: “T chức cho người
khác trốn đi nước ngoài”.
2. Áp dụng khon 1, khoản 4 Điều 349, Điều 38 B lut Hình s năm 2015
được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim H 03 (ba) năm tù, thời hạn tính từ
ngày 06/7/2021.
Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị Kim H 40.000.000 đồng
(bốn mươi triệu đồng) nộp vào ngân sách Nhà nước.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị Kim H phải chịu
200.000 đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân ti cao;
- VKSND cp cao ti TP.HCM
- TAND tnh An Giang;
- VKSND tnh An Giang;
- Cc THADS tnh An Giang;
- Công an tnh An Giang;
- S tư pháp tỉnh An Giang;
- Nhà tm gi công an huyn Thoi
Sơn, tỉnh An Giang;
(Tống đạt cho b cáo)
- Lưu (10) 20b (ÁnTTKY).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Hà Huy Cu
10
Tải về
566_2023_HS-PT_HCM 566_2023_HS-PT_HCM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

566_2023_HS-PT_HCM 566_2023_HS-PT_HCM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất