Bản án số 04/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2021/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 04/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép
Tội danh: 349.Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lạng Sơn
Số hiệu: 04/2021/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/01/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Lộc Văn B, Lưu Văn Q phạm tội Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 04/2021/HS-PT
Ngày 26-01-2021
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hoa
Các Thẩm phán: Ông Chu L Kiếm
Ông Vi Đức Trí
- Thư phiên tòa: Nguyễn Mi - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên toà:
Bà Lương Thị Hoà - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn
xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ số: 139/2020/TLPT-HS ngày
29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Lộc Văn B cùng đồng phạm do kháng
cáo của các bị cáo Lộc Văn B, Lưu Văn Q đối với Bản án hình sự sơ thẩm số:
62/2020/HS-ST ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Lc Văn B; sinh ngày 17 tháng 10 năm 1996 tại huyn L, tỉnh Lạng Sơn.
Nơi đăng thưng trúch: Thôn P, T, huyn L, tỉnh Lạng n; ngh
nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; n tộc: Tày; giới tính: Nam; n
go: Kng; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lc Bình N (đã chết) và bà Vi Th C;
vợ, con chưa có; tiền án: Không có; tin sự: Kng có; nhân thân: Tại Bản án hình
sự thẩm số: 60/2020/HS-ST ngày 26-11-2020 bị Tòa án nhân dân huyn Lộc
Bình, tỉnh Lạng n xử phạt 02 m 02 tháng về tội Tchức cho người kc
xuất cảnh trái phép (hành vi phạm tội xảy ra vào ngày 25-5-2020), chưa bị x pht
vi phạm hành chính, chưa bị xử kỷ luật; bị o bị bắt tạm gingày 14-6-2020,
bbt tạm giam t ny 17-6-2020 đến nay; có mặt.
2. Lưu Văn Q, sinh ngày 02 tháng 09 năm 1996 tại huyện L, tỉnh Lạng
Sơn. Nơi đăng thường trú chỗ ở: Thôn B, T, huyện L, tỉnh Lạng n;
nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: y; giới tính: Nam;
tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn S Phan Thị T;
vợ, con chưa có; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án
hình sự thẩm số: 60/2020/HS-ST ngày 26-11-2020 bị Tòa án nhân dân
2
huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Tổ chức cho
người khác xuất cảnh trái phép pp (hành vi phạm tội xảy ra vào ngày 25-5-
2020). Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 17/QĐ-XPVPHC ngày
20-12-2018, bị cáo bị Công an huyện Lc Bình, tỉnh Lạng Sơn phạt tiền
750.000 đồng về hành vi Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau (đã
được xóa), chưa bị xử lý k luật; bị cáo bị bắt giữ ngày 26-5-2020 trong một vụ
án khác; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Lộc Văn B: Bà Chu Thị Nguyễn P, Luật sư
thực hiện trợ giúp pháp thuộc Trung tâm trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh
Lạng Sơn; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Lưu Văn Q: Ông Văn Đ, Luật thực
hiện trgiúp pháp thuộc Trung m trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh Lạng
Sơn; có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn 03 bị cáo khác không kháng cáo, không
bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hành vi phạm tội của Hoàng Văn K, Lộc Văn B, Lường Văn B cụ thể
như sau:
Khoảng đầu tháng 5-2020, Hoàng Văn K gặp và làm quen với một người
đàn ông tên là L, cả hai cho nhau số điện thoại đ liên lạc, số của L
0888707800, số của Hoàng Văn Khợ là 0342535561.
Ngày 19-5-2020, L gọi điện đặt vấn đề thuê Hoàng Văn K đưa dẫn 02
người phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc với tiền công là 120NDT/người. Sau
đó, Hoàng Văn K gọi điện thuê Lộc Văn B đưa 02 người phụ nữ Việt Nam
sang Trung Quốc theo đường mòn thuộc khu vực cửa khẩu C, huyện L, tỉnh
Lạng Sơn với tiền ng 500.000 đồng. Hoàng n K báo lại gửi số điện
thoại của Lộc Văn B cho L được L gửi sđiện thoại 0966682942của người
phụ nữ tên là Phùng Thị T để liên lạc đón. Sau đó, Hoàng Văn K đã gửi số điện
thoại này để Lộc Văn B đã trao đổi với Phùng Thị T và được biết người đi cùng
Đinh Thị Thu H. Lộc Văn B hẹn khi nào hai người phụ nữ y đến khu vực
ngã tư M, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn thì gọi để ra đón.
Khoảng 10 giờ ngày 20-5-2020, L gọi điện thoại thông báo cho Hoàng
Văn K biết Phùng Thị T, Đinh Thị Thu H đang trên đường lên Lạng Sơn,
khi nào đón được người thì thu tiền đưa dẫn 1800NDT/người; đồng thời gửi
số điện thoại của người Trung Quốc với mục đích khi nào đưa người vào đến
khu vực biên giới thì gọi điện thoại để lên biên đón. Khoảng 17 giờ cùng ngày,
Phùng Thị T gọi điện báo đang cùng Đinh Thị Thu H đợi địa điểm đã hẹn.
Lộc Văn B hướng dẫn họ bắt xe ô khách đến đoạn cây xăng thuộc Đ,
3
huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Phùng Thị T Đinh Thị Thu H đi xe ô khách vào
huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Trên xe khách còn một số người khác, trong đó
Hoàng Thị T. Qua nói chuyện, Hoàng Thị T đặt vấn đề xin đi sang Trung Quốc
làm thcùng nhưng Phùng Thị T Đinh Thị Thu H cho biết phải hỏi ý kiến
của người đưa đường. Khi đến điểm hẹn, Phùng Thị T gọi cho Lộc Văn B ra
đón. Khi gặp Lộc Văn B, Hoàng ThT đặt vấn đề nhờ đưa Hoàng Thị T cùng
một sngười khác đi sang Trung Quốc. Lộc Văn B nói để hỏi lại phía Trung
Quốc, rồi hai bên cho nhau số điện thoại để liên lạc. Sau đó, Lộc Văn B đón
Phùng Thị T, Đinh Thị Thu H đi và được Hoàng Văn K bảo thu của mỗi người
1800NDT, đồng thời Hoàng Văn K gửi số điện thoại của người Trung Quốc
bảo Lộc Văn B liên hệ với người đó ra đón. Khi liên hệ, người đàn ông Trung
Quốc bảo Lộc Văn B đưa hai người phụ nữ vào khu vực biên giới mốc 1242 để
ông ta lên đón. Sau đó, Lộc Văn B đưa Phùng Thị T, Đinh Thị Thu H vào trong
nhà nghỉ gần y xăng để nghỉ. Tại đây, Lộc Văn B đã thu của mi người
1800NDT hẹn đến đêm sđến đón để đưa sang Trung Quốc.Khoảng 21 giờ
30 phút ngày 20-5-2020, Lộc Văn B gọi điện thoại thuê Lường Văn B cùng đưa
người sang Trung Quốc theo đường mòn thuộc mốc 1242, khi quay về sẽ được
trả tiền công. Sau đó, Lộc Văn B, Lường Văn B đến nhà nghỉ chở Phùng Thị T,
Đinh Thị Thu H đi theo hướng vào khu vực biên giới, đến mốc 1242 thì Lường
Văn B quay về, còn Lộc Văn B lại gọi cho người phía Trung Quốc lên đón.
Sau khi đưa Phùng Thị T, Đinh Thị Thu H cho người Trung Quốc thì Lộc Văn
B quay về.
Đến khoảng 09 giờ ngày 21-5-2020, Lộc Văn B đưa cho Hoàng Văn K
số tiền 3600NDT được trả ng 500.000đồng, Hoàng Văn K giữ lại
240NDT tiền công của mình gửi 3360NDT cho L theo xe khách ra thành
phố L, tỉnh Lạng Sơn. Sau đó, Lộc Văn B đưa cho Lường Văn B 200.000 đồng.
Khi vào trong nội địa Trung Quốc thì Phùng Thị T, Đinh Thị Thu H bị lực
lượng quản lý Biên cảnh Trung Quốc phát hiện bắt giữ và trao trả về Việt Nam.
Hành vi phạm tội của Lộc Văn B, Lưu Văn Q, Hoàng Văn T, Lường Văn
B cụ thể như sau:
Chiều tối ngày 20-5-2020, Hoàng Thị T sau khi làm quen xin được số
điện thoại của Lộc Văn B thì gặp Trần Văn K; qua nói chuyện Trần Văn K biết
Hoàng Thị T ý định sang Trung Quốc làm thuê nên muốn đi cùng. Hoàng
Thị T cho Trần Văn K số điện thoại của Lộc Văn B. Sau khi liên hệ, Trần Văn
K được Lộc Văn B nhất trí sẽ dẫn đường đưa sang Quảng Châu, Trung Quốc.
Người đàn ông Trung Quốc bảo Lộc Văn B cứ đưa những người lên khu vực
biên giới mốc 1242 thì gọi để người đó ra đón giá tiền công
2450NDT/người. Lộc Văn B gọi lại cho Trần Văn K, Hoàng Thị T biết giá tiền
công là 2600NDT/người (trong đó Lộc Văn B thu thêm mỗi người 150NDT) và
hẹn khoảng 11 giờ ngày 21-5-2020 đến ngã ba thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng
Sơn để đưa qua biên giới. Sau đó, Hoàng Thị T gọi rủ và báo cho bạn là Lô Thị
N biết chi phí sang đến chỗ làm 2600NDT/người và hẹn Thị N 11 giờ
4
ngày 21-5-2020 tập trung để cùng nhau đi sang Trung Quốc. Tiếp đó, Lô Thị N
đã gọi cho cháu là Hoàng Văn T để cùng đi sang Trung Quốc làm thuê.
Sáng ngày 21-5- 2020, Mai Văn D liên lạc với Hoàng Thị T để xin đi
cùng sang Trung Quốc làm thuê. Hoàng Thị T cho Hoàng Văn D số điện thoại
để hỏi Lộc Văn B. Sau đó, Lộc Văn B gọi cho người đàn ông ở Trung Quốc để
hỏi thông báo Hoàng n D cũng đi nhưng chưa tiền để trả chi phí, khi
nào đi sang đến chỗ làm thì sẽ mượn tiền trsau, người đàn ông Trung Quốc
đồng ý. Lộc Văn B hẹn Hoàng Văn D 11 giờ ngày 21-5-2020 tập trung ngã
ba thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn để đưa đi sang Trung Quốc. Khoảng 11
giờ ngày 21-5-2020, Thị N, Hoàng Thị T, Hoàng Văn T, Hoàng Văn D gặp
cùng nhau lên phòng nghỉ Trần Văn K đang thuê để đợi đưa sang Trung
Quốc. Sau đó, Lộc Văn B gọi điện thoại thuê Lưu Văn Q đi lên đường biên giới
trông đường, khi quay về thì sẽ trả tiền công gọi điện thuê Lường Văn B,
Hoàng Văn T cùng tham gia đưa người lên biên giới, quay về sẽ được trả tiền
công sau.
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 21-5-2020, Hoàng Văn T, Lường Văn B đi
xe mô tô gặp Lộc Văn B và gặp các đối tượng đi sang Trung Quốc. Sau đó, Lộc
Văn B chở Hoàng Thị T, Trần Văn K; Hoàng Văn T chở Lô Thị N, Hoàng Văn
T; Lường Văn B chở Hoàng Văn D. Trên đường đi, Lộc Văn B gọi điện để Lưu
Văn Q đi trông đường trước. Lưu Văn Q đi xe môtô từ nhà vòng lên đường
tuần tra biên giới xem đường, khi ra đến khu vực cửa khẩu C, huyện L, tỉnh
Lạng Sơn thì thấy Lộc Văn B cùng mọi người đợi tại đây. Lưu Văn Q cho biết
trên đường biên không lực lượng chức năng bảo mọi người cứ đi theo
đường xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn lên khu vực biên giới mốc 1242. Lộc Văn
B bảo Hoàng Thị T đi sang xe Lưu Văn Q ngồi. Sau đó các xe di chuyển, xe đi
cách xe khoảng 200m đtránh bị lực lượng chức năng phát hiện. Khi vào đến
thôn B, T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thì Lường Văn B gặp lực lượng Bộ đội
Biên phòng nên gọi điện thoại thông báo cho Lộc Văn B biết. Lộc n B bảo
Lường Văn B đưa người quay lại gọi điện thoại bảo Lưu Văn Q cho Hoàng
Thị T xuống xe đLộc Văn B đón đưa quay lại, còn Lưu Văn Q tiếp tục đi
lên đường tuần tra biên giới để trông đường. Khi lên đến đường biên, Lưu Văn
Q điện thoại thông báo không thấy lực lượng chức năng; tuy nhiên, do đã
muộn nên Lộc Văn B bảo Lưu Văn Q quay ra khu vực cửa khẩu C, huyện L,
tỉnh Lạng Sơn thuê phòng nghỉ rồi cùng mọi người ngủ qua đêm.
Khoảng 11 giờ ngày 22-5-2020, Lộc Văn B gọi cho người đàn ông
Trung Quốc để đón người bảo Lưu Văn Q đi lên biên trông đường trước.
Lưu Văn Q đi xem đường, không thấy lực lượng tuần tra nên đã điện thoại cho
Lộc Văn B bảo đưa nguời lên, Lưu Văn Q đứng cảnh giới. Sau đó, Lộc Văn B
chở Thị N, Hoàng Thị T lên cột mốc 1242 thì cho 02 người này xuống xe
đợi, rồi quay lại cùng Hoàng Văn T, Lường Văn B chở Trần Văn K, Hoàng
Văn T, Hoàng Văn D lên mc 1242. Khi đưa người đến nơi thì Lưu Văn Q,
Hoàng Văn T, Lường Văn B đi về trước, còn Lộc Văn B đưa 05 người khách
lên hàng rào biên giới gọi người đàn ông Trung Quốc đến đón người. Tại
5
đây, Lộc Văn B thu của Hoàng ThT, Trần Văn K, Thị N, Hoàng Văn T
mỗi người 2600NDT. Lộc Văn B giữ lại 750NDT tiền công đưa cho người
đàn ông Trung Quốc 9650NDT. Trên đường về, Lộc Văn B gọi điện thoại cho
Lưu Văn Q, Lường Văn B hẹn cùng nhau đi xuống nhà Hoàng Văn T để nhận
tiền ng. Khi ra đến thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, Lộc Văn B đổi
750NDT được 2.400.000 đồng chia cho mỗi người 600.000 đồng. Khi vào
trong nội địa Trung Quốc thì Hoàng Thị T, Trần Văn K, Thị N, Hoàng Văn
Dương, Hoàng Văn T bị lực lượng quản lý Biên cảnh Trung Quốc phát hiện bắt
giữ và trao trả về Việt Nam.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2020/HS-ST ngày 27-11-2020 của
Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định: Căn cứ điểm b,
c khon 2 Điu 349, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điu 17, Điều 58, Điu 38
ca Blut Hình sự năm 2015, xử phạt b cáo Lộc Văn B 06 năm 06 tháng vti
Tổ chức cho người khác trn đi nước ngi trái phép.Căn c đim c khon 2 Điu
349, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điu 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình
s m 2015, x phạt b cáo Lưu Văn Q 05 m 06 tháng tù về ti Tchức cho
ni khác trốn đi ớc ngoài trái phép. Ngoài ra, Bản án còn quyết định về tội
danh hình phạt đối với 03 bị cáo khác, quyết định về biện pháp pháp, về
xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, các bị cáo Lộc Văn B, Lưu Văn Q kháng cáo xin
giảm hình phạt tù.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Các bị cáo giữ nguyên nội dung đã kháng cáo.
Đi diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Lạng n phát biểu quan điểm về
việc gii quyết vụ án: Bản án thẩm kết án các bị cáo về tội T chức cho
người khác trốn đi nước ngoài trái phép đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng nhân thân, vai trò, tính chất, mức độ
hành vi phạm tội cũng như đã xem xét đầy đủ các tình tiết gim nhẹ ấn định
mức hình phạt đối vớic bị cáo phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Lộc Văn
B không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo
của mình. Bị cáo Lưu Văn Q cung cấp Biên lai thu tiền thể hiện đã nộp số tiền
800.000 đồng tại quan thi hành án huyện để thi hành số tiền bị truy thu
600.000 đồng tiền án phí thẩm. vậy, bị cáo Lưu Văn Q được hưởng
thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự
năm 2015. Tuy nhiên, để đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
này đang ngày một diến biến phức tạp, không căn cứ để chấp nhận kháng
cáo của các bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều
355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo
của các bị cáo, giữ nguyên quyết định về phần hình phạt tù đối với các bị cáo.
Chu Thị Nguyễn P là người bào chữa cho bị cáo Lộc Văn B đề nghị Hội
đồng t xxem t điều kiện, hoàn cảnh của bị o để giảm nhphn o hình
phạt cho bịo.
6
Ông n Đ là ngườio cha cho bịo Lưu Văn Q đề ngh Hội đồng
xét xử xem xét việc bị o đã nộp số tiền 800.000 đồng theo quyết định của Bản
án sơ thẩm đ giảm nh phần nào hình phạt tù cho bị o.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên snội dung ván, căn cứ vào các tài liệu trong hồ ván đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản
thân như nội dung của Bản án thẩm. Do đó, căn cứ để xác định: Ngày
27-5-2020, Phòng quản xuất nhập cảnh Công an tỉnh Lạng Sơn tiếp nhận 19
trường hợp công dân Việt Nam nhập cảnh trái phép vào Trung Quốc
quan chức năng của Trung Quốc bắt giữ, trao trả qua Đồn Biên phòng cửa khẩu
C thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn, trong đó có: Đinh Thị
Thu H, Phùng Thị T người do đối ợng tên L thuê Hoàng Văn K, Lộc Văn
B, Lường Văn B tổ chức đưa sang Trung Quốc trái phép vào ngày 20-5-2020
qua khu vực biên giới mốc 1242 thuộc thôn B, T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
Số tiền Hoàng Văn K được hưởng 286.480 đồng, số tiền Lộc Văn B được
hưởng 300.000 đồng, số tiền Lường Văn B được hưởng 200.000 đồng;
Hoàng Thị T, ThN, Mai Văn D, Hoàng Văn T, Trần Văn K người do
Lộc Văn B, Lưu Văn Q, Lường Văn B, Hoàng Văn T tổ chức đưa sang Trung
Quốc trái phép cho người đàn ông Trung Quốc (không xác định được) vào
ngày 22-5-2020, qua khu vực biên giới mc 1242 thuộc thôn B, T, huyện L,
tỉnh Lạng Sơn. Số tiền Lộc Văn B, Lưu Văn Q, Lường Văn B, Hoàng Văn T
mỗi người được hưởng 600.000 đồng. vậy, Tòa án cấp thẩm xét xử
Lộc Văn B về tội Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép theo quy
định tại điểm b, c khoản 2 Điều 349 Bộ luật Hình snăm 2015; xét xử Lưu
Văn Q về tội Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép theo quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 349 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.
[2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt tù của các bị cáo, thấy rằng: Tòa án
cấp sơ thẩm đã xem xét khách quan, toàn diện, đánh giá đúng nhân thân, vai
trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1,
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể: Các bcáo đều thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bcáo đều là ngưi dân tộc thiểu số cư trú
vùng có điều kiện kinh tế - hội đặc biệt k khăn; bị o Lc Văn B sau khi
phạm tội đã ra đu thú, thuộc hộ cận nghèo đã nộp s tin thu li bất cnh
900.000 đng. Do đó, mức hình phạt đã tuyên đối với các bị cáo là phù hợp. Tại
cấp phúc thẩm, bị cáo Lộc Văn B không xuất trình được thêm tài liệu, chứng cứ
mới đchứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Bị cáo Lưu Văn Q
cung cấp Biên lai thu tiền thể hiện đã nộp số tiền 800.000 đồng tại quan thi
hành án huyện để thi hành số tiền bị truy thu 600.000 đồng tiền án phình
sự thẩm 200.000 đồng theo quyết định của Bản án thẩm. Đây tình tiết
7
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo Lưu Văn Q được hưởng theo quy
định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 nhưng cũng không đủ
căn cứ thay đổi bản chất vụ án ng như không đủ để thay đổi mức hình phạt
đối với bị cáo. Đặc biệt, hành vi phạm tội của các bị cáo diễn ra vào thời điểm
cả nước toàn thế giới đều chung tay trong việc phòng, chống bệnh dịch
COVID 19 đang bùng phát trở lại. Chính vậy, hành vi phạm tội của các bị
cáo cần được xử nghiêm minh đúng theo pháp luật nhằm giáo dục các bị cáo
phòng ngừa chung trong hội.Do đó, không chấp nhận kháng cáo của các
bị cáo, cần giữ nguyên nội dung của Bản án thẩm về phần hình phạt đối
với các bị cáo.
[3] Các bị cáo bị xử phạt tại Bản án hình sthẩm số: 60/2020/HS-
ST ngày 26-11-2020 của Toà án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Sau
khi xét xử thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt tù. Hiện chưa
quyết định, Bản án có hiệu lực pháp luật nên không có căn cứ để tổng hợp hình
phạt đối với các bị cáo.
[4] Xét đnghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân phù hợp với các
quy định của pháp luật nên chấp nhận; xét đề nghị của người bào chữa cho các
bị cáo là không phù hợp với các quy định của pháp luật nên không chấp nhận.
[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu tiền án
phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình
snăm 2015, điểm b khon 2 Điu 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội kh14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[6] Các phần quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. n cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng nh sự
năm 2015;không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt tù của các bị cáo Lộc
Văn B, Lưu Văn Q; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự thẩm số:
62/2020/HS-ST ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn về phần hình phạt đối với các bị cáo Lộc Văn B, Lưu
Văn Q, cụ thể:
1.1. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 349, điểm s khoản 1, khoản 2 Điu 51,
Điều 17, Điều 58 của Bluật Hình snăm 2015; xử phạt bị cáo Lộc Văn B 06
(u) năm 06 (u) tháng tù v tội Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái
phép. Thời hạn chp hành hình phạt nh từ ngày bịo bị bắt tạm giữ ngày
14-6-2020.
8
1.2. n cứ điểm c khoản 2 Điu 349, đim s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 17, Điu 58 ca Bluật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lưu n Q 05
(năm) năm 06 (u) tháng v ti Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
trái phép. Thi hạn chấpnh hình pht tính từ ngày bo bị bắt là ngày 26-5-
2020.
2. Ghi nhận bị o Lưu Văn Q đã nộp (Lưu Thị T nộp thay) s tiền
800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tiền số: AA/2015/0006480
ngày 22-01-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sựm
2015, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-
12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo Lộc Văn
B, Lưu Văn Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án
phí hình sự phúc thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng o, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- Sở Tư pháp tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- PV06 Công an tỉnh Lạng Sơn;
- TAND h. Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND h. Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn;
- CCTHADS h. L, tnh Lng Sơn;
- Công an h. Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn;
- Các bị cáo;
- Người TGTT khác;
- Lưu: VT, Tổ HCTP, Tòa HS, HS vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Hoa
Tải về
Bản án 04/2021/HS-PT Lạng Sơn Bản án 04/2021/HS-PT Lạng Sơn

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 04/2021/HS-PT Lạng Sơn Bản án 04/2021/HS-PT Lạng Sơn

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất