Bản án số 15/2022/HS-ST ngày 06/04/2022 của TAND tỉnh Thái Bình về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 15/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 15/2022/HS-ST ngày 06/04/2022 của TAND tỉnh Thái Bình về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài
Tội danh: 349.Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thái Bình
Số hiệu: 15/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/04/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI BÌNH
Bản án số: 15/2022/HS-ST
Ngày 06/4/2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Duy Luân
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Vũ Thị Nga
Ông Nguyễn Thế Hiệp
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Tiến Thành-Thư kýTAND tỉnh Thái Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Thị Thảo-Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử
sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2021/TLST - HS ngày 31 tháng 12 năm
2021 theo Quyết định đưa ván ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng
02 năm 2022; Thông báo về việc thay đổi thời gian mphiên tòa số 19/2022/TB-
TA ngày 08 tháng 3 năm 2022 đốivới:
Bị cáo Phạm Thị T, sinh năm 1982.
Nơi đăng hộ khẩu thường trú: Thôn Nh, xã Th, huyện Th2, tỉnh Thái
Bình;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;Trình đvăn a:
9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Con ông Phạm Văn N bà Trần Thị K ều đã chết); chồng
Đồng C ã chết) và 02 con.
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giam từ ngày 21/9/2021 đến nay, hiện đang btạm giam tại Trại
tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 2000; nơi trú: Thôn A, T, huyện Th2,
tỉnh Thái Bình;
+ Chị Th, sinh năm 2000; nơi trú: Thôn Đ, Đ, huyện Q, tỉnh Thái
Bình.
(chị Ng và chị Tr có Đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
2
Đầu năm 2017, do nhu cầu sang Trung Quốc lao động, Phạm Thị T nhờ
một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ trú tại tỉnh Lạng Sơn có “đường dây
đưa người Việt Nam sang Trung Quốc lao động bằng con đường xuất cảnh trái
phép và được người này đồng ý. Người này đã đưa Phạm Thị T xuất cảnh trái phép
qua biên giới tỉnh Lạng Sơn sang San Thầu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc làm
việc tại một xưởng may quần áo. Quá trình lao động đây, một người đàn ông
Trung Quốc nhờ T tìm người Việt Nam sang làm việc tại xưởng sản xuất đồ
chơi do người này shữu, công việc là sản xuất đồ chơi trẻ em với mức lương từ
2000 đến 3000 Nhân dân tệ (NDT)/tháng, bao ăn, ở tại xưởng, T nhận lời tìm người
lao động giúp người y. T liên hệ với người phụ nữ đã đưa T xuất cảnh trái phép
sang Trung Quốc lần trước và người này thống nhất sẽ tổ chức đưa người Việt Nam
đi Trung Quốc qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn đến San Thầu, tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc với chi phí vượt biên là 1200 NDT/người.
Trong tháng 7 tháng 11 năm 2017, Phạm Thị T đã 2 lần tổ chức đưa
người Việt Nam trốn đi Trung Quốc với mục đích lao động, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Tháng 5/2017, T từ Trung Quốc trở về Việt Nam thông
qua mối quan hệ hội, T quen biết với Nguyễn Thị H. Sau đó, T thường xuyên
liên lạc với Ng, giới thiệu mình quen biết với chủ xưởng may chủ xưởng sản
xuất đồ chơi trẻ em tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc đang nhu cầu tuyển lao
động, mức lương từ 2000 đến 3000 NDT/tháng, chủ bao ăn tại xưởng. Chi phí
xuất cảnh sang Trung Quốc lao động hết khoảng 2000 NDT/người bao gồm chi phí
ăn uống, đi lại thuê người đưa vượt biên. Hình thức đi sang Trung Quốc lao
động sẽ đi theo đường tiểu ngạch, vượt biên trái phép sang Trung Quốc. Do Ng
không tiền, nên T thỏa thuận s ứng trước cho Ng vay tiền đi, khi đi làm
lương Ng phải trả lại tiền cho T. Sau khi Ng nhờ T đưa sang Trung Quốc lao động,
thông qua mạng hội Wechat, T liên hệ với chủ xưởng sản xuất đồ chơi để bố trí
việc làm. Chiều ngày 19/7/2017, T hẹn Ng đến khu vực Ngã Gia Lễ, Đông
Mỹ, thành phố Thái Bình sau đó cả hai đi xe khách đến Bến xe Lạng Sơn. Chi phí
đi xe hết 200.000 đồng/người do T chi trả. Đến khoảng 04 giờ sáng ngày
20/7/2017, khi đến bến xe Lạng Sơn, T liên hệ với người phụ nữ Lạng Sơn để bố trí
vượt biên sang Trung Quốc. Người phụ nữ này đi xe ô tô đến đón T và Ng đưa đến
một ngôi nhà thuộc khu vực biên giới tỉnh Lạng Sơn để chuẩn bị vượt biên sang
Trung Quốc, đồng thời thu của T Ng mỗi người 1200 NDT. Đến trưa ngày
21/7/2017, khi đến San Thầu, Quảng Đông, Trung Quốc, T gọi taxi chở Ng về
xưởng sản xuất đồ chơi T đã liên hệ từ trước. Sau khi bàn giao Ng cho chủ
xưởng sản xuất, ngày 24/7/2017, T về xưởng may của mình để tiếp tục làm việc.
Khoảng tháng 8/2017, sau khi nhận tiền lương, Ng liên hệ trả cho T số tiền
2000NDT. Tháng 10/2017, T lại nhập cảnh trái phép về nước. Sau khi biết T về
3
nước, Ng nhờ T liên hệ để đưa về nước tT hướng dẫn Ng liên hệ với một s
người Việt Nam làm việc tại đây đưa giúp về nước. Đến khoảng tháng 11/2017 Ng
cũng về nước qua đường nhập cảnh trái phép.
Lần thứ hai: Thông qua Nguyễn Thị H, T quen biết với chị Th. Khi Ng
sang Trung Quốc lao động đã thông báo cho Tr biết, do đó tng 11 năm 2017, T
về nước gặp Tr, Tr nhờ T đưa mình sang Trung Quốc lao động. T vấn cho Tr về
việc xưởng may nơi T làm việc tại San Thầu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc đang
cần người lao động. Công việc may quần áo, mức lương từ 2000 đến 3000
NDT/tháng, chủ bao ăn, tại xưởng. Chi phí đi lao động hết khoảng 2000
NDT/người. Hình thức đi sang Trung Quốc lao động sẽ vượt biên trái phép sang
Trung Quốc, chỉ cần chuẩn bị quần áo, đồ dùng nhân ngoài ra không phải làm
thủ tục gì. Tr đồng ý nhờ T đưa sang Trung Quốc lao động. Do Tr không có tiền đi
nên T thỏa thuận sẽ ứng trước cho Tr vay tiền đi, khi đi làm có lương Tr phải trả lại
tiền cho T. Tr đồng ý nhờ T đưa Tr vượt biên trái phép sang Trung Quốc lao động.
Khoảng giữa tháng 11/2017, T dẫn Tr đến Bến xe thành phố Thái Bình đi
xe khách đến Bến xe Mỹ Đình, Hà Nội sau đó tiếp tục bắt xe đến bến xe Lạng Sơn.
Chi phí đi xe hết khoảng 200.000 đồng/người do T chi trả. Khi đến bến xe Lạng
Sơn, T tiếp tục liên hệ với người phụ nữ ở Lạng Sơnđược người này bố trí vượt
biên sang San Thầu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc với chi phí 1200 NDT/người
cũng với lộ trình như đưa Ng đi Trung Quốc. Sau khi đến San Thầu, tỉnh Quảng
Đông, Trung Quốc, T gọi taxi chở Tr về xưởng may và bàn giao Tr cho chủ xưởng
may để sắp xếp công việc, còn T đi làm việc nơi khác. Tr lại được 3 ngày thì
muốn trở về Việt Nam nhưng không liên lạc được với T nên đã nghĩ ra việc nhắn
về gia đình Việt Nam nói dối bị T lừa bán sang Trung Quốc với mục đích để
được giải cứu vViệt Nam. Sau đó, Công an Trung Quốc đến kiểm tra xưởng, Tr
bị bắt cùng một số người Việt Nam khác, đến tháng 01/2018 được trao trả về Việt
Nam qua cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh
Lạng Sơn. Sau khi về Việt Nam, Tr làm đơn tố cáo T về hành vi mua bán người. T
làm việc Trung Quốc đến tháng 4/2018 tvề Việt Nam. Sau khi về Việt Nam,
biết tin gia đình Tr tố cáo mình lừa bán Tr sang Trung Quốc, T tìm đến nhà Tr đ
giải thích việc Tr nhờ T đưa sang Trung Quốc lao động, không phải lừa bán Tr
sang Trung Quốc. Về số tiền T ứng trước cho Tr vượt biên sang Trung Quốc, T
không yêu cầu Tr trả lại tiền.
o trạng số 03/CT-VKSTB ngày 29/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Tháinh đã truy tố bị cáo Phạm Thị T về ti Tổ chức, môi giới cho người khác
trốn đi c ngi” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 Bluật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quyết định
truy tố đối với bcáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Thị T phạm
4
tội “Tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài áp dụng điểm b
khoản 2 Điều 349; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình
sự. Xử phạt bị cáo Phạm Thị T mức án t05năm đến 06 năm , không áp dụng
hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo, ngoài ra còn đề nghị buộc bị cáo phải
chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận, bị cáo Phạm Thị T không tranh luận với đại diện
Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp
nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đối với bị cáotiến nh
các thủ tục tố tụng khác trong vụ án, các quan và người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục;
không ai ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Tại phiên tòa, những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng đã đơn xin xét xử vắng mặt.
Căn cứ các Điều 293Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành
xét xử vụ án, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về nội dung:
[2.1] Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của những người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan; Công văn s 417/PA08 ngày 17/9/2021 452/PA08 ngày
08/10/2021 của Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Thái Bình; Công văn
số 2983 ngày 04/10/2021 của Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Lạng Sơn; Biên
bản làm việc hồi 7giờ ngày 21/9/2021 8 giờ 40 ngày 21/9/2021 do Cơ quan An
ninh điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập; Căn cư
́
vào diễn biến khách quan hành vi
của bị cáo các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác trong hồ vụ án, Hội
đồng xét xử đủ sở để kết luận: Trong tháng 7 tháng 11 năm 2017, Phạm
Thị T trực tiếp vấn, tchức cho chị Nguyễn Thị H và chị Th đi sang Trung
Quốc để lao động trái phép. Khi đi, T liên hệ, ứng tiền, bố trí người cùng T đưa chị
Ng và chị Tr xuất cảnh trái phép qua biên giới thuộc tỉnh Lạng Sơn sang San Thầu
thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc liên hệ đưa chị Ng chị Tr giao cho chủ
sử dụng lao động ở Trung Quốc.
Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Thị T đã phạm vào tội “Tổ chức, môi
giới cho người khác trốn đi nước ngoài với tình tiết định khung “Phạm tội 02 lần
trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 của Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái
5
Bình đã truy tcăn cứ, đúng người đúng pháp luật. Điều 349Bộ luật hình
sự quy định:
“1. Người nào tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc
lại nước ngoài trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 120 của
Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 05
năm đến 10 năm:
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
4. Người phạm tội còn thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
[2.2] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự
quản hành chính, ảnh hưởng xấu đến chính sách đối nội, đối ngoại, xuất nhập
cảnh của Nhà nước nguồn gốc dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác,
gây bất bình trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Do đó
cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, cách ly bcáo khỏi đời sống hội mới đủ cải
tạo, giáo dục bị cáo và tác dụng đấu tranh phòng chống, phòng ngừa tội phạm
nói chung.
[2.3]Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân
của bị cáo thì thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm nh sự
nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại
phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; bố mẹ đẻ người
công với cách mạng.Vì vậy Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng
tình tiết giảm nhẹ tch nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước
ngoài, ở lại nước ngoài lao động trái phép nhưng ứng trước tiền, cho họ vay tiền rồi
khi nào có lương họ trả bị cáo, chưa kiếm lời được từ việc phạm tội nên không cần
áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[3] Đối với người phụ nữ tại tỉnh Lạng Sơn và những người đàn ông Việt
Nam, Trung Quốc theo lời khai của bị cáo, chị Ngchị Tr thì những người này đã
thu tiền, để đưa bị cáo, chị Ng chị Tr vượt biên giới trái phép trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn sang Trung Quốc. Quá trình điều tra, xác minh,bị cáo, chị Ng chị Tr
đều không cung cấp được thông tin, địa chỉ cụ thể, nơi của những đối tượng này
nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là phù hợp.
Đối với hành vi xuất cảnh, nhập cảnh trái phép của chị Nguyễn Thị H và chị
Th. Do trước đó chị Ng, chị Tr chưa bị xử phạt hành chính về hành vi xuất cảnh
6
trái phép; đến nay đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính nên quan điều
tra không xử hành chính đối với chị Nguyễn Thị H, chị Th là đúng quy định
của pháp luật.
[4] Về án phí: Bcáo phải chịu án phình sự thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 349; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
50; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bcáo Phạm Thị T phạm tội“Tổ chức, môi giới
cho người khác trốn đi nước ngoài”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Thị T 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày 21/9/2021.
3. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự
thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày ktừ ngày tuyên án 06/4/2022. Những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND Cấp cao tại Hà Nội;
-VKSND tỉnh Thái Bình;
- Công an tỉnh Thái Bình;
- Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình
- Bị cáo;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Lưu:Hồ sơ vụ án, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Vũ Duy Luân
7
8
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Duy Luân
Tải về
Bản án số 15/2022/HS-ST Bản án số 15/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất