Bản án số 606/2023/HS-PT ngày 15-12-2023 của TAND cấp cao về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 606/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 606/2023/HS-PT ngày 15-12-2023 của TAND cấp cao về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
Tội danh: 349.Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 606/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Trần Đình N và đồng phạm tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Nguyễn Tấn Long
Các Thẩm phán:
ông Phạm Việt Cường
ông Nguyễn Văn Tào
- Thư phiên tòa: Dương Thị Tuyết Trinh - Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵngtham gia phiên
tòa: ông Quách Đức Dũng - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 12 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với Đ cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân
dân tỉnh Gia Lai, xét xphúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ số
538/2023/HS-PT ngày 27 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Trần Đình N cùng
03 bị cáo khác về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”.
Do kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình s thẩm số
94/2023/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Trần Đình N; sinh ngày 19/8/1995, tại tỉnh Nghệ An.
Nơi cư trú: xã Đ, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở: xóm Đ, Đ, huyện Q,
tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình đhọc vấn: 9/12; dân tộc:
Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình
P Phan Thị H; bị cáo chưa vợ, con; tiền án: không, tiền sự: không; Bị
cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/02/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại
Trại tạm giam công an tỉnh G; có mặt.
2. Mai Hữu T; sinh ngày 30/10/1979, tại Cà mau.
Nơi trú: khóm B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Mau; (nơi đã trú:
267/11/6/16 L, phường T, quận B, thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: lao
động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo:
không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Hữu T1 Nguyễn Thị M; vợ
Phan Thị K, 01 con chung với vợ sinh năm 2008 01 con riêng của vợ
sinh năm 2003; tiền án: không, tiền sự: không; bị cáo đầu thú ngày 10/02/2023
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 606/2023/HS-PT
Ngày: 15 - 12 - 2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại
Trại tạm giam công an tỉnh G; có mặt.
3. Nguyễn Văn P1; sinh ngày 01/01/1985, tại Campuchia.
Nơi trú: ấp B, T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: chạy xe
ôm; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L Đinh Thị Đ1; vợ
Nguyễn Thị H1 (đã ly hôn), có 02 con sinh năm 2004 và sinh năm 2008; tiền án:
không, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/02/2023 đến nay,
hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh G; có mặt.
4. Võ Hoàng V; sinh ngày 01/01/1979, tại tỉnh Đồng Tháp.
Nơi trú: khóm A, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Tháp; nghề
nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam;
tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn S và bà Hồ Thị
S1; vợ Nguyễn Thị Q, 01 con sinh năm 2003; tiền án: không, tiền sự:
không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/02/2023 đến nay, hiện đang bị
tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh G; có mặt.
Ngoài ra, vụ án còn 01 bị cáo khác nhưng không kháng cáo, kháng
nghị nên không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2020, Trần Đình N Nguyễn Văn N1 quen biết với nhau do
cùng đi cách ly y tế tại Doanh trại Quân đội tại Nghệ An, đến khoảng tháng
02/2022, N xuất cảnh sang Thái Lan và quen biết Siu Cheo, sau đó về nước. Đến
khoảng tháng 06/2022, N tiếp tục xuất cảnh sang Thái Lan qua cửa khẩu C1 -
Thái Lan và quen biết với một người Campuchia tên “Boi”. Sau khi quen biết
với nhau, Trần Đình N, Siu C Nguyễn Văn N1 đã tổ chức cho người khác
trốn đi nước ngoài và ở lại nước ngoài trái phép như sau:
I. Về hành vi phạm tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài của
Trần Đình N, (Nguyễn Văn N1 Siu C):
Từ tháng 7/2022 đến tháng 01/2023 các bị can đã tổ chức 09 đợt/32 người
trốn đi nước ngoài. Cụ thể:
Lần 1: Vào ngày 28/7/2022, N1 và N tổ chức cho 02 người dân tộc thiểu
số Gia Lai vượt biên sang Campuchia rồi qua Thái Lan. N1 gửi cho N số điện
thoại của người đi (đến nay N không còn nhớ) và 02 số điện thoại 0367936094;
0982625973 của người đóntại Hồng Ngự, Đồng Tháp đN liên lạc đón đưa
người vượt biên sang Campuchia bằng đường tiểu ngạch. N liên lạc với Mai
Hữu T đón 02 người này tại bến xe miền T mua xe khách, T đi cùng cho
02 người nàyđến thành phố H, tỉnh Đồng Tháp đgiao cho người đón, dẫn qua
biên giới Campuchia bằng đường tiểu ngạch rồi đưa sang Campuchia cho Boi”
nhận dẫn sang Thái Lan giao cho N. Sau khi đưa được 02 người này sang
3
Thái Lan, N1 chuyển cho N 10.000.000 đồng, trong đó chi phí dẫn đường
6.000.000 đồng, N hưởng lợi 4.000.000 đồng.
Lần 2: Vào ngày 22/8/2022, Nam cùngNgọc tổ chức đưa 04 người trong
gia đình gồm: Siu Huin (sinh năm 1983), Siu T2 (sinh ngày 26/12/2016), Siu D
(sinh ngày 27/10/2008), Siu T3 (inh ngày 08/5/2006) trốn sang Thái Lan bằng
đường tiểu ngạch. Sau khi tổ chức cho 04 người này đến Thái Lan, N1 chuyển
khoản cho N 16.000.000 đồng, trong đó chi phí dẫn đường là 10.000.000 đồng,
N hưởng lợi 6.000.000 đồng. Sau khi sang được Thái Lan đến ngày 31/10/2022,
04 mẹ con Siu Hui về Việt Nam.
Lần 3: Vào ngày 28/8/2022, N1 N tổ chức cho hai vợ chồng Rah Lan
D1 Siu H2 trú tại làng T, thị trấn C, C, Gia Lai trốn sang Thái Lan bằng
đường tiểu ngạch với số tiền 46.000.000 đồng. Sau đó, N liên lạc để Mai Hữu
T đón mua vé xe khách đi từ bến xe M đến huyệnHồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
để người của N1 đón dẫn qua Campuchia. N liên hvới “Boi” đón dẫn 02
người này sang Thái Lan. Sau khi tổ chức thành công, N1 chuyển cho N
10.500.000 đồng, trong đó chi phí dẫn đường 6.500.000 đồng, còn lại N
hưởng lợi 4.000.000 đồng.
Lần 4: Vào ngày 02/10/2022, Nam ng N tổ chức đưa 01 người đàn ông
(không họ tên, địa chỉ;sử dụng số điện thoại 0835290514) 02 vchồng
cùng 01 trẻ em 05 tuổi (số điện thoại liên hệ 0394141670) trốn sang Thái
Lan. N liên lạc đểMai Hữu Trung đón những người này mua vé xe đi từ bến
xe M đến huyệnHồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp để người của N1 đón dẫn qua biên
giới sangCampuchia bằng đường tiểu ngạch. Sau đó, N liên hệ với “Boi” đưa04
người này sang Thái Lan. Sau khi tổ chức thành công đến ngày03/10/2022Nam
chuyển khoản cho N chi phí trả cho “Boi” 15.000 Bath (khoảng 9.000.000
đồng), tiền công của N là 6.000.000 đồng.
Lần 5: o ngày 22/11/2022,N1 N tổ chức đưa 02 mcon R H’Liu
vàRmah Thap, cùng trú tại thôn B, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai trốn sang Thái
Lan. N liên lạc vớiMai Hữu Trung đón 02 người này và mua vé xe khách cho họ
đi từ bến xe M đến huyệnHồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp để người của N1 đón, dẫn
sangCampuchia bằng đường tiểu ngạch đưa đến thành phố P, Campuchia.
Sau đó, N liên hệ với “Boi” đón 02 người này sang Thái Lan. Sau khi tổ chức
thành công N1 chuyển cho N 5.000.000 đồng, trong đó tiền của Boi” là
3.000.000 đồng, N hưởng lợi 2.000.000 đồng.
Lần 6: Vào ngày 31/12/2022, Nam vàNgọc tổ chức cho 01 người lớn
02 trẻ em tỉnh Gia Lai trốn sang Thái Lan bằng đường tiểu ngạch. N liên lạc
với Mai Hữu T đón 03 người này và mua vé xe khách cho họ đi từ bến xe M đến
huyện H, tỉnh Đồng Tháp, rồi sang Campuchia bằng đường tiểu ngạch. Sau đó N
liên hệ với “Boi” đón 03 người này sang Thái Lan. Sau khi tổ chức cho 03 người
này đến T. N1 trả cho N 10.000.000 đồng, trong đó chi phí dẫn đường
6.000.000 đồng, N hưởng lợi 4.000.000 đồng.
Lần 7: Vào ngày 04/01/2023, N1 N tổ chức cho S2 03 trẻ em trốn
sang Thái Lan. N báo Đ2 đón và mua vé xe khách cho họ đi từ bến xe M đến Hồ
4
N, tỉnh Đồng Tháp rồi người của N1 đón qua Campuchia bằng đường tiểu
ngạch. Sau đó, N liên hvới “Boi” đưa 04 người này sang Thái Lan. Sau khi tổ
chức cho 04 người sang Thái Lan thành công, đến ngày 09/02/2023, N1 chuyển
khoản cho N 13.000.000 đồng, trong đó chi phí dẫn đường là 8.000.000 đồng, N
hưởng lợi 5.000.000 đồng.
Lần 8: Vào ngày 05/02/2023, Siu C N tchức đưaKsor NonvàKsor H3
đi sang Campuchia rồi qua Thái Lan. N liên lạc vớiMai Hữu Trung đón, dẫn 02
người này đi mua xe khách đi từ bến xe M đến thành phố H, tỉnh Đồng Tháp
đưa cho mỗi người 50.000 đồng tiền ăn đ02 người này xuống thành phố H
sẽ có người đón, dẫn sang Campuchia bằng đường tiểu ngạch.
Đến khoảng16 giờ cùng ngày, khi Ksor N2 Ksor H4 đến điểm hẹn thì
Nguyễn Văn P1 Hoàng đ; Pháp chở Ksor N2 chạy trước theohướng
khu vực biên giới “Bơm Điện Cả Cát” (thuộc ấp B, T, huyện H, tỉnh Đồng
Tháp)rồi dẫn Ksor N2 xuống xuồng giao cho một người tên Hai” đưa sang
Campuchia quay về nhà, còn V chở Ksor H4 đi sau đến điểm hẹn nhưng
không thấy P1 nên chở Ksor H4 vquay về phường A, thành phố H, tỉnh Đồng
Tháp thì bị lực lượng an ninh tỉnh Gia Lai phát hiện và bắt giữ.
Đến ngày 06/02/2023, Siu C sử dụng tài khoản ngân hàng số 1016561180,
tên chủ tài khoản Siu H5, chuyển số tiền 35.000.000 đồng cho N qua số tài
khoản 99997888899999, trong đó 2.000.000 đồng tiền công dẫn đường cho
Ksor N2; 33.000.000 đồng tiền chi phí N nhận làm thBạc cho 05 người dân
tộc thiểu số ở Thái Lan.
Ngoài việc tổ chức cho Ksor H4 Ksor N2 thì từ cuối tháng 01 đến đầu
tháng 02 năm 2023, đối tượng “Hai” còn liên lạc với P1 chở 15 người dân đi t
thành phố H, tỉnh Đồng Tháp đến khu vực “Bơm Điện Cả Cát” (thuộc ấp B,
T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp) giao người cho “Hai” với giá tiền công 100.000
đồng/người, sau đó P1 gọi thêm Hoàng V, Bùi Văn N3 Nguyễn Hoàng
N4 (đều hành nghề xe ôm) chở 15 người giao cho “Hai” với stiền 100.000
đồng/người. Tuy nhiên quá trình điều tra quan An ninh điều tra không xác
định được những người Nguyễn Văn P1, Hoàng V, Bùi Văn N3
Nguyễn Hoàng N4 chở là ai.
Lần 9: Vào ngày 10/02/2023, Siu C cùng N tổ chức đưa Siu P2 03
người dân tộc thiểu số đi qua Campuchia rồi sang Thái Lan. N liên lạc để Mai
Hữu T đến bến xe A đón mua xe cho những người này, tuy nhiên do hết
đi về thành phố H, tỉnh Đồng Tháp nên N liên lạc với Siu P3 đón xe buýt số
151 đi về bến xe M, đồng thời N liên hệ với T đến bến xe miền T đón, mua vé
xe khách, đưa tiền ăn để những người này đi đến thành phố H. Khi gia đình Siu
P3 đến bến xe M thì lực lượng an ninh tỉnh Gia Lai phát hiện 09 người dân tộc
thiểu số (04 người gia đình Siu P3; 04 người gia đình Siu P4 01 người con
của R H’Thai, cùng trú tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai). Biết việc tổ chức
cho người khác trốn đi nước ngoài bị phát hiện nên Mai Hữu T đến Cơ quan An
ninh điều tra Công an tỉnh G để đầu thú về hành vi phạm tội của mình.
5
Đến ngày 11/02/2023, khi Trần Đình N di chuyển trên chuyến bay từ
thành phố V vào thành phố Hồ Chí Minh, quan An ninh điều tra đã phối hợp
với Cục Q1, Bộ C2 bắt tại sân bay T.
Ngoài ra, vàongày 25/7/2022, N4 gửi qua “Messenger” cho N ảnh Căn
cước công dân của Rmah P5 Kpă B ảnh 01 tờ trong sổ hộ khẩu tên Kpă
T4. Tuy nhiên, ngày hôm sau, N4 không liên lạc được với 03 người này nên N4
N không tổ chức cho họ đi nữa. Đến ngày 30/12/2022, Nam gửi qua
“Messenger” cho N hình ảnh của 02 trẻ emtrú tại tỉnh Gia Lai muốn trốn sang
Thái Lan bằng đường tiểu ngạch nhưng không cha mẹ đi cùng, do tổ chức
cho trẻ em nên Boi” báo giá 25.000 Bath (khoảng 15.000.000 đồng), giá
cao nên N4 N không tổ chức cho 02 trẻ em này trốn ra nước ngoài.
Mặt khác trong thời gian từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 02 năm 2023 khi
Chính phủ Thái Lan chủ trương làm thẻ Bạc (thẻ lao động cho người nước
ngoài tại Thái Lan, thời hạn 02 năm) tTrần Đình N Siu C n 08 lần
làm thẻ bạc cho 74 người dân tộc thiểu số (tuy nhiên không xác định được nhân
thân của những người dân tộc thiểu số này) hưởng lợi 144.300.000 đồng Siu
C còn 02 lần nhờ N đặt mua máy bay khứ hồi cho 07 người dân tộc thiểu số
đi từ Việt Nam sang Thái Lan du lịch.
II. Về hành vi phạm tội tổ chức cho người khác lại nước ngoài trái
phép của Siu H5 và S:
Từ đầu tháng 8/2022 đến ngày 12/02/2023, Siu C Siu H5 tổ chức 03
đợt/06 người dân tộc thiểu số đến Sân bay Quốc tế T làm thủ tục xuất cảnh
trốn ở lại Thái Lan.
Ngoài ra vào ngày 17/12/2022, Siu C liên lạc với Siu H5 đdẫn 04 người
tỉnh Gia Lai đến sân bay T làm thtục xuất cảnh đi Thái Lan. Tuy nhiên, do
Siu H5 bận việc nên không đồng ý, còn Siu C nhờ ai thì Siu H5 không biết.
Cũng trong thời gian trên, Siu Cheo nhờ SiuH’Bẽo nhận 06 hộ chiếu của
các trường hợp Siu C dự định sẽ tổ chức cho họ xuất cảnh sang Thái Lan,
sau đó trốn lại, gồm Kpuih H6 (sinh năm 1966), Kpuih R1 (sinh năm 1990),
Kpuih J (sinh năm 1983), Rah Lan L1 (sinh năm 1960), Kpuih G (sinh năm
1958), cùng t tại: Làng T, I, huyện C, tỉnh Gia Lai, Kpă B1 (sinh năm
1959; trú tại: thôn T, I, huyện C, tỉnh Gia Lai). Tuy nhiên do vào đầu tháng
02/2023, Siu H5 xuất cảnh đi Thái Lan nên đã nhờ bạn cùng dãy trọ Ksor
H7 (sinh năm 1998; trú tại Buôn P, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai) nhận giúp 06
hộ chiếu này. Đến ngày 08/02/2023, SiuH’Bẽo nhập cảnh về Việt Nam nhận
được 06 hộ chiếu chụp hình 06 Hộ chiếu gửi qua Messenger cho SiuCheo
biết.
Mặt khác vào tối ngày 09/02/2023, Siu C liên lạc nhờ Siu H5 đặt 02
phòng khách sạn để 02 gia đình của Siu P3 gia đình của Siu P4 đến ở. Tuy
nhiên sau đó Siu C cho biết đã thuê được nnghỉ tỉnh Bình ơng nên Siu
H5 không thuê khách sạn nữa. vậy Siu H5 không thực hiện hành vi giúp sức
cho Siu C Trần Đình N tổ chức cho những người trên trốn sang Thái Lan vào
6
ngày 10/02/2023, sau đó 09 người trong 02 gia đình này được lực lượng An ninh
đưa về Gia Lai.
[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 94/2023/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Trần Đình N, Mai Hữu T, Nguyễn Văn P1
Võ Hoàng V phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”;
Về điều luật áp dụng và hình phạt:
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 349; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g
khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Trần Đình N 09
(chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/02/2023
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 349; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Mai Hữu
T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/02/2023.
- Áp dụng khoản 1 Điều 349; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật
hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P1 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày 06/02/2023
Xử phạt bcáo Hoàng V 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày 06/02/2023
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo
khác, biện pháp tư pháp, phần xử lý vật chứng, án phí theo quy định pháp luật.
[3] Kháng cáo:
Ngày 18-9-2023 bị cáo Võ Hoàng V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 19-9-2023 bị cáo Mai Hữu T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 20-9-2023 bị cáo Nguyễn Văn P1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt.
Ngày 21-9-2023 bị cáo Trần Đình N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các Bị cáo T, Pháp, V giữ nguyên kháng cáo, thống nhất về tội danh, không
tranh luận, trình bày do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đi làm thuê, chỉ thực
hiện hành vi chở xe thồ thuê lấy tiền công nên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ về
hình phạt.
Bị cáo Ngọc giữ nguyên kháng cáo, bị cáo cũng chỉ thực hiện một khâu trong
hành vi phạm tội được hưởng tiền công; cung cấp một số tài liệu chứng cứ
mới và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: tại
giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, những người tiến hành tố tụng
và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Về nội dung: đối với các kháng cáo của bị cáo Mai Hữu T , Nguyễn Văn P1,
7
Hoàng V do không có tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo; đối với kháng cáo của bị cáo Trần Đình N do có tình tiết
giảm nhẹ mới nên đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị o, sửa Bản án nh sự
thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo N, nhưng hình phạt của bị cáo
vẫn phải cao hơn các bị cáo khác trong vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: các hoạt động của các cơ quan và người tiến hành t
tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm vụ án đã tuân thủ
đúng quy định của pháp luật tố tụng hiện hành; các tài liệu, chứng cứ thu thập
được có tại hồ sơ vụ án là đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Từ tháng 7 năm 2022 đến tháng 02 năm 2023 Nguyễn Văn N1, S, Trần
Đình N, Mai Hữu Trung liên l, tổ chức thành nhiều đợt, cho nhiều người dân tộc
thiểu số địa bàn Gia Lai trốn qua Campuchia sang Thái Lan bằng đường
tiểu ngạch để thu lợi.
Trần Đình N đã liên hệ với Nguyễn Văn N1 Siu C tổ chức 09 đợt với
32 người trốn ra nước ngoài thu lợi bất chính 33.000.000 đồng; Trong đó: Mai
Hữu T giúp sức trong việc đón đưa 07 đợt với 18 người từ bến xe M - Thành
phố Hồ Chí Minh đến thành phố H, tỉnh Đồng Tháp để người của N1 C đưa
qua Campuchia bằng đường tiểu ngạch.
Nguyễn Văn P1, Hoàng V, hành vi giúp sức cho N1, Siu C, N chở
Ksor N2 Ksor H4 từ bến xe khách thành phố H đưa đến khu vực “Bơm Điện
Cả Cát” giao cho người đàn ông tên H8 để H8 lái đò đưa người trái phép qua
sôngsang Campuchia.
Ngoài ra, Siu C còn làm hộ chiếu online cho những người dân tộc thiểu số
liên lạc với em gái mình Siu H5 giúp sức đưa 06 người chia làm 03 đợt để
những người này xuất cảnh sang Thái Lan bằng đường hàng không trốn lại
Thái Lan làm ăn, sinh sống trái phép.
Do đó, Bản án thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định
các bcáo Trần Đình N, Mai Hữu T phạm tội Tổ chức cho người khác trốn đi
nước ngoàivới tình tiết định khung Đối với 11 người trở lêntheo điểm a
khoản 3 Điều 349 Bộ luật Hình sự; bị o Nguyễn Văn P1, Hoàng V phạm
tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại khoản 1 Điều
349 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, pháp luật.
Các đối tượng Nguyễn Văn N1, Siu C chủ mưu trong vụ án hiện chưa
bắt được, nên đã được tách riêng xử lý sau.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo:
Hành vi phạm tội của các bị cáo N, T rất nghiêm trọng, hành vi của các
bị cáo P1 V nghiêm trọng. Các bị cáo đều nhận thức được việc lén lút đưa
8
người khác xuất, nhập cảnh trái phép vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ thu
lợi bất chính nên thực hiện, đã xâm phạm trật tự quản nh chính trong lĩnh
vực xuất nhập cảnh, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
Trong vụ án này các đối tượng chủ mưu, tổ chức là Nguyễn Văn N1
Siu C chưa bắt được. Các bị cáo bị xét xử trong vụ án này đều là người giúp sức
với vai trò thực hành và được Nam tính trả tiền công chi phí đi lại. Trong đó
bị cáo N phạm tội với vai trò là người thực hành tích cực, bị cáo T là người giúp
sức, bị cáo P1 V 01 lần tổ chức cho bị cáo N nên tính chất, mức độ hành vi
phạm tội mỗi bị cáo có mc độ khác nhau.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo thành khẩn khai báo,
ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo
T đầu thú và đã thực hiện xong nghĩa vụ quân sự, gia đình cha mẹ được Nhà
nước tặng thưởng nhiều Huy chương kháng chiến huân chương chiến sỹ giải
phóng nên được áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Các bị cáo Nguyễn Văn P1, Hoàng V không bị áp dụng tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo Mai Hữu T, Trần Đình N bị áp dụng tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên, quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Các bị cáo đều đã được Bản án thẩm xem xét, đánh giá đúng vai trò
đồng phạm, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đều quyết định
hình phạt trong khung hình phạt truy tố, xét xử đảm bảo tính nghiêm minh,
răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Sau khi xét xử thẩm, bị cáo Trần Đình N cung cấp thêm tình tiết giảm
nhẹ mới như cứu một cháu bé đang bị nước lũ cuốn trôi, ủng hộ lương thực thực
phẩm khu cách ly dịch bệnh xác nhận của Chính quyền địa phương, nộp
đủ số tiền khắc phục hậu quả 33.000.000 đồng; do đó xem xét chấp nhận kháng
cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Các bị cáo Mai Hữu T, Nguyễn Văn
P1, Võ Hoàng V đều đã được quyết định mức hình phạt phù hợp và tại phiên tòa
phúc thẩm không tình tiết giảm nhẹ mới, nên không sở chấp nhận
kháng cáo.
[4] Những quyết định còn lại của bản án hình sự thẩm không kháng
cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét giải quyết theo
thủ tục phúc thẩm. Đối với số tiền 33.000.000 đồng 200.000 đồng bị cáo
N nộp theo Biên lai thu số 0001168 0001169 cùng ngày 19-9-2023 của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Gia lai được thanh toán khấu trừ khi thi hành án.
[5] Về án phí: các bcáo Mai Hữu T, Nguyễn Văn P1, Hoàng V phải
chịu án phí hình sự phúc thẩm mỗi bị cáo 200.000 đồng. Bị cáo Trần Đình N
không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ
luật Tố tụng hình sự;
9
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Mai Hữu T, Nguyễn Văn P1,
Hoàng V; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đình N, sửa một phần của
Bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Trần Đình N.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 349; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g
khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình s2015; xphạt bcáo Trần Đình N 07
(bảy) năm 06 (sáu) tháng về tội Tổ chức cho người khác trốn đi nước
ngoài”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/02/2023.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 349; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo Mai Hữu
T 07 (bảy) năm về Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”; thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/02/2023.
- Áp dụng khoản 1 Điều 349; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật
nh sự 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P1 15 (mười lăm) tháng về tội Tổ chức
cho người khác trốn đi nước ngoài”; thời hạn chấp hành hình phạt tính từ
ngày 06/02/2023.
Xử phạt bị cáo Hoàng V 12 (mười hai) tháng về tội Tổ chức cho
người khác trốn đi nước ngoài”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày
06/02/2023.
3. Các quyết định còn lại của bản án hình sthẩm không kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị,
việc thi hành án theo quyết định của bản án sơ thẩm.
Về án phí hình sự phúc thẩm Bị cáo Mai Hữu T, Nguyễn Văn P1,
Hoàng V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng. Bị cáo
Trần Đình N không phải chịu án phí phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ Giám đốc kiểm tra I - TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Gia Lai;
- Cơ quan CSĐT-Công an tỉnh Gia Lai;
- Phòng HSNV-Công an tỉnh Gia Lai;
- Cơ quan CSTHAHS-CAtỉnh Gia Lai;
- Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai;
- Cục THADS tỉnh Gia Lai;
- Trại tạm giam công an tỉnh Gia Lai;
- Người tham gia tố tụng khác;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Tấn Long
Tải về
Bản án 606/2023/HS-PT Bản án 606/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 606/2023/HS-PT Bản án 606/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất