Bản án số 870/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 870/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 870/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 870/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận. Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về thực hiện nghĩa vụ thanh toán, không chấp nhận yêu cầu về việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, sửa 1 phần bản án sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện giảm nghĩa vụ thanh toán
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 870/2024/DS - PT
Ngày: 26-9-2024
V/v “Tranh chấp về hợp đồng đặt
cọc; hợp đồng ủy quyền; hợp đồng
mua bán nhà chuyển nhượng
quyền sử dụng đất yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất; về yêu cầu tuyên
bố văn bản công chứng hiệu
giải quyết hậu quả của việc tuyên
bố văn bản công chứng vô hiệu”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Võ Thị Kim Thương
Các Thẩm phán: 1. Bà Nguyễn Thị Thu
2. Bà Nguyễn Thị Lan Hương
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Thủy, Thư Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên
tòa: Ông Phạm Duy Tuấn Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 594/2024/TLPT-DS ngày 30
tháng 07 m 2024 vviệc “Tranh chấp vhợp đồng đặt cọc; hợp đồng y quyền;
hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất; về yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và giải quyết hậu quả của
việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”.
Do bản án dân sự thẩm số 213/2024/DS-ST ngày 12 tháng 06 năm 2024
của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
2
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4407/2024/QĐ - PT ngày
06 tháng 08 năm 2024 quyết định hoãn phiên tòa số 13366/2024/QĐ-PT ngày
05/9/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Diễm H, sinh năm 1953.
Địa chỉ: B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1996.
Địa chỉ liên hệ: Phòng 7.07, Tòa nhà T, số A H, phường P, Quận G, Thành phố
Hồ Chí Minh và/hoặc ông Văn M, sinh năm 1964. Địa chỉ: G Â, Phường A,
Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1969.
Địa chỉ: 3 T, phường C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
1. Bà Đoàn Thị Phương D, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Số F đường A, khu nhà H, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Bà Nguyễn Thị Xuân T1, sinh năm 1982.
Địa chỉ: 3 T, phường C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật Lâm Quang Q -
Văn phòng L1Đoàn luật sư Thành phố H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Đào Trí N, sinh năm 1996.
Địa chỉ: 3 T, phường C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền của ông N:
1.1. Bà Đoàn Thị Phương D, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Số F đường A, khu nhà H, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
1.2. Bà Nguyễn Thị Xuân T1, sinh năm 1982.
Địa chỉ: 3 T, phường C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Lâm Quang Q - Văn phòng
L1Đoàn luật sư Thành phố H.
2. Ông Đào Văn K, sinh năm 1967.
Địa chỉ: 3 T, phường C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
3
Đại diện theo ủy quyền của ông K:
Đoàn Thị Phương D, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Số F đường A, khu nhà H, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp : Luật sư Lâm Quang Q- Văn phòng L1
Đoàn luật sư Thành phố H.
3. Văn phòng C.
Địa chỉ: C L, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trưởng văn phòng: Ông Nguyễn Quang V.
4. Ngân hàng TMCP Đ.
Địa chỉ: T, A T, phường L, quận H, thành phố Hà Nội.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng Nguyễn Hoàng M1.
Địa chỉ liên hệ : B Chi nhánh B1 Tòa nhà văn phòng L2, khu S, quốc lộ E,
xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ông Khương Bảo T2, sinh năm 1986;
6. Bà Phạm Thị Thanh X, sinh năm 1984;
7. Trẻ Khương Bảo Thanh T3, sinh năm 2009;
8. Trẻ Khương Bảo Thanh T4, sinh năm 2012;
9. Trẻ Khương Bảo T5, sinh năm 2015.
Cùng địa chỉ: B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Ông T2, bà X đồng thời là đại diện cho các trẻ T3, T, T5).
10. Bà Khương Bảo T6, sinh năm 1984;
11. Trẻ Nguyễn Diệp Bảo Q1, sinh năm 2012 (do bà T6 đại diện).
Cùng địa chỉ: B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Công ty TNHH D1.
Địa chỉ: D C, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị N1.
13. Phòng C1 Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: I - I N, Phường G, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Huỳnh Vũ P.
4
Do kháng cáo của nguyên đơn Phạm Thị Diễm H bị đơn -
Nguyễn Thị Bích T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 17/12/2022; Đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2022;
Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đề ngày 31/7/2023; Đơn khởi kiện bổ sung đề
ngày 13/11/2023; Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện (lần 2) đề ngày 13/11/2023;
Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 18/01/2024; Đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện
bổ sung đề ngày 29/02/2024 và tại phiên tòa, Nguyên đơn Phạm Thị Diễm H,
Người đại diện hợp pháp của Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H1 trình bày:
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 17/12/2022 và Đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2022:
Ngày 12/8/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ban
hành bản án số 293/2020/DS-PT (sau đây gọi tắt bản án hoặc bản án số 293),
theo đó xác định nhà và đất tọa lạc tại B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh (sau đây gọi tắt căn nhà) tài sản chung, gọi di sản thừa kế chia di
sản thừa kế theo pháp luật và di chúc, cho được toàn quyền sử dụng di sản thừa
kế sau khi thanh toán phần giá trị di sản thừa kế cho các đồng thừa kế, trị giá
312.202.359.643 đồng.
Do không đủ tiền để thanh toán cho các đồng thừa kế, đã Hợp đồng đặt
cọc ngày 19/12/2020 với Bị đơn Nguyễn Thị Bích T, theo đó sau khi đứng tên
chủ sở hữu duy nhất của căn nhà thì sẽ chuyển nhượng căn nhà cho T với
giá 612.500.000.000 đồng; thanh toán thành 4 đợt, đợt 1 thanh toán
314.745.185.840 đồng vào tài khoản của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ
Chí Minh để thực hiện nghĩa vụ thi hành án của bà, đây khoản tiền cọc của
T, đợt 2 thanh toán 200.000.000.000 đồng trong thời hạn 30 ngày từ thời điểm
được cấp giấy chứng nhận chủ sở hữu duy nhất của căn nhà, đợt 3 thanh toán
77.754.814.160 đồng sau khi bà T hoàn thành thủ tục cập nhật để T hoặc người
được bà T chỉ định nhận chuyển nhượng là chủ sở hữu duy nhất của căn nhà.
Cùng ngày 19/12/2020, đã Hợp đồng ủy quyền nội dung chính
ủy quyền cho T, ông Đào Trí N (con ruột T): Thanh toán tất cả các khoản
phải thi hành án để hoàn tất nghĩa vụ thi hành án theo Thông báo thi hành án,
được giải tỏa các biện pháp ngăn chặn đối với tài sản, nhận lại bản chính Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở, hồ giải tỏa các biện
pháp ngăn chặn và toàn bộ bản chính giấy tờ liên quan đến tài sản, nộp và nhận hồ
xóa biện pháp ngăn chặn theo luật định. Thay mặt nhân danh bên y quyền
đo vẽ, duyệt nội nghiệp, chỉnh sửa bản vẽ,…đăng bộ, đăng đất đai, tài sản gắn
liền với đất; được toàn quyền quản lý, sử dụng, cho thuê, cho mượn, cho nhờ,
nhận đặt cọc, bán, chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn, thế chấp, đăng ký xóa đăng
ký giao dịch bảo đảm, nhận tiền đền bù (nếu có) đối với toàn bộ tài sản, được thực
hiện tất cả các quyền trên kể cả trước sau khi xây dựng, trước sau khi cấp
đổi Giấy chứng nhận theo quy định pháp luật. Được nhận lãnh tất cả các khoản
tiền có được từ thực hiện các công việc được ủy quyền. Trong trường hợp đến hạn
5
thực hiện nghĩa vụ thi hành án mà các bên không thực hiện, hoặc thực hiện không
đúng thì người được ủy quyền được thay mặt người ủy quyền xử tài sản trong
phạm vi toàn bộ các quyền quyết định của người ủy quyền liên quan đến tài sản.
Người được ủy quyền được thay mặt người ủy quyền tham gia tố tụng tại tòa án,
quan thi hành án, tổ chức bán đấu giá tài sản, các quan chức năng cho
đến khi bán xong tài sản, làm thủ tục nộp các khoản thuế, lệ phí khi thực hiện
công việc nêu trên.
Căn cứ hợp đồng đặt cọc T đã thay mặt nộp số tiền 316.685.281.434
đồng vào Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, thanh toán cho
10.000.000.000 đồng vào ngày 15/04/2021 và 10.000.000.000 đồng vào ngày
30/10/2021.
Sau thời gian dài không nhận được thông tin của bà T về quá trình thực hiện
các thủ tục để cập nhật thành chủ sở hữu duy nhất của căn nhà cũng như thực
hiện các công việc tiếp theo của hợp đồng đặt cọc, liên hệ với Văn phòng đăng
Đăng đất đai Thành phố H Chi nhánh Q2, ngày 29/4/2022 được biết
căn nhà đã được chuyển nhượng cho T chồng T ông Đào Văn K trong
khi các đợt thanh toán lần 2 và lần 3 của hợp đồng đặt cọc chưa được thực hiện.
Như vậy, T người được ủy quyền cũng chính người mua căn
nhà của bà, nên giao dịch chuyển nhượng căn nhà vi phạm quy định tại khoản 3
Điều 141 Bộ luật dân sự, không đủ điều kiện có hiệu lực theo điểm c khoản 1 Điều
117 Bộ luật dân sự.
Song song đó, đối tượng của hợp đồng đặt cọc là bà chuyển nhượng căn nhà
cho T; đối tượng của hợp đồng ủy quyền ủy quyền cho T xác lập các
giao dịch liên quan đến căn nhà, trong đó bán, chuyển nhượng, tặng cho. Như
vậy, 02 hợp đồng này bị trùng 01 phần, dẫn đến 02 khả năng; khả năng thứ nhất là
T chuyển nhượng căn nhà cho chính mình; khả năng thứ hai T
chuyển nhượng cho bất kỳ bên thứ ba nào, trường hợp này xung đột quyền
nghĩa vụ với hợp đồng đặt cọc vì bà đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà T, hợp
đồng đặt cọc đã thực hiện một phần chưa văn bản, thỏa thuận nào chấm dứt
việc thực hiện hợp đồng đặt cọc.
Như vậy, hợp đồng đặt cọc một phần của đối tượng trong hợp đồng ủy
quyền không thể thực hiện được thuộc trường hợp quy định tại điều 408 Bộ
luật dân sự. Sau khi hợp đồng đặt cọc hợp đồng ủy quyền, bà T đã nhận
chuyển nhượng căn nhà mình đã nhận ủy quyền, chiếm dụng của
177.783.000.000 đồng giá chuyển nhượng theo hợp đồng đặt cọc
612.500.000.000 đồng, T đã thanh toán 336.685.281.434 đồng, còn giá theo
hợp đồng chuyển nhượng là 434.717.000.000 đồng.
Do vậy, bà yêu cầu Tòa án:
- Tuyên bố Mục 1 của hợp đồng ủy quyền vô hiệu;
- Tuyên bố không hiệu lực pháp đối với các giao dịch liên quan đến
phần hợp đồng ủy quyền bị hiệu các giấy tờ, chứng nhận kết quả của nội
dung ủy quyền không có giá trị, gồm:
6
+ Tuyên bố hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số 007240/HĐGD ngày 12/6/2021 ký tại Văn phòng C là vô hiệu;
+ Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà đối
với căn nhà cấp cho T và ông Đào Văn K.
- Yêu cầu bà T tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc.
Tại đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đề ngày 31/7/2023:
Sau khi hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, đã bàn giao bản chính
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00028 và các giấy tờ liên quan để T
thực hiện thủ tục thi hành án, đăng bộ sang tên bà trên giấy chứng nhận.
Năm 2021, T thỏa thuận lại, Phụ lục hợp đồng đặt cọc, theo đó
chỉ chuyển nhượng cho T 1000 m
2
nhà, đất tại B N với giá 470.000.000
đồng/m2, thành tiền là 470.000.000.000 đồng, còn diện tích 303,8 m
2
thì bà giữ lại
không chuyển nhượng. Bản chính của phụ lục này T giữ, không giữ bản
chính hay bản photo nào.
Sau thời gian không thấy T thông báo, tự liên hquan chức năng
thì được biết T đã thực hiện xong thủ tục thi hành án, thủ tục cập nhật giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sang tên đã không thông báo tự ý hợp
đồng chuyển nhượng toàn bộ căn nhà cho ông Đào Văn K theo Hợp đồng mua bán
nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 007240/HĐGD (sau
đây gọi tắt hợp đồng chuyển nhượng) tại Văn phòng C với giá rất thấp
434.717.000.000 đồng.
Ông K T đã được cấp mới 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số CH01733 đối với 1000 m
2
đất thuộc thửa số 401, tờ bản đồ số 45
(sau đây gọi tắt giấy chứng nhận số CH01733) Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH01734 (sau đây
gọi tắt là giấy chứng nhận số CH01734) đối với phần 303,8 m
2
đất.
Đối với số tiền thanh toán 1000 m
2
đất chuyển nhượng cho T, đến
nay bà T chỉ thanh toán 422.315.956.000 đồng, trong đó ngày 16/5/2023, T đưa
cho Ủy nhiệm chi thể hiện T chuyển vào tài khoản của số tiền
85.630.737.832 đồng, tự ý ghi nội dung “thanh toan khoan tiên con lai (dot cuoi)”.
Số tiền T phải thanh toán cho 47.684.043.738 đồng. Do T chưa thanh
toán đủ tiền mua căn nhà n chưa bàn giao phần căn nhà chuyển nhượng cho
T. Hiện, bà vẫn đang trực tiếp cư trú, quản lý, sử dụng toàn bộ căn nhà.
Đối với phần 303,8 m
2
, đã nhiều lần yêu cầu T sang tên nhưng T
lảng tránh.
Do đó, bà yêu cầu Tòa án:
- Hủy toàn bộ Hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020;
- Hủy hợp đồng ủy quyền số công chứng 018389 ngày 19/12/2020;
7
- Hủy hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 007240 ngày 12/6/2021;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số CH01733 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền
sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CH01734 do U cấp cho ông Đào
Văn K và bà Nguyễn Thị Bích T ngày 31/8/2022;
- Buộc bà Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Trí N, ông Đào Văn K trả lại cho bà
toàn bộ bản chính giấy tờ liên quan đến căn nhà.
Tại đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 13 tháng 11 năm 2023; Đơn sửa đổi, bổ
sung đơn khởi kiện (lần 2) đề ngày 13/11/2023:
chủ sở hữu duy nhất của căn nhà từ ngày 11/6/2021. Tuy nhiên, sau
khi cập nhật sang tên xong thì T vẫn không thanh toán tiền mua nhà còn
thiếu theo hợp đồng đặt cọc 285.814.781.566 đồng. T, ông N, ông K đã cố
tình thông đồng với nhau để chuyển nhượng căn nhà sang tên ông K, T rồi đem
thế chấp ngân hàng, che giấu các thông tin thi hành án, thông tin cập nhật giấy tờ
nhà đất, thông tin hợp đồng chuyển nhượng công chứng để trốn tránh nghĩa vụ
thanh toán tiền mua căn nhà còn thiếu.
Do đó, giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện đã được Tòa án thụ bổ
sung thêm các yêu cầu sau:
Trường hợp Tòa án không chấp nhận các yêu cầu về hủy hợp đồng đặt cọc,
hợp đồng ủy quyền, hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ở, hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01733 và CH01734 thì bà
yêu cầu Tòa án buộc T, ông K, ông N liên đới thanh toán số tiền còn thiếu
190.184.043.734 đồng số tiền lãi chậm thanh toán cho đến khi thanh toán đủ,
tính đến ngày 15/11/2023 là 69.378.601.772 đồng.
Tại Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 18 tháng 01 năm 2024:
Cùng với việc giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung
trước đây, bà bổ sung các yêu cầu sau:
- Tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng thế chấp bất động sản số:
014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022 (sau đây gọi tắt là hợp đồng thế chấp)
giữa Bên thế chấp ông Đào Văn K Nguyễn Thị Bích T với Bên nhận thế
chấp Ngân hàng TMCP Đ (B) được Phòng C1 công chứng số 02084, quyển số
01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD;
- Tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm số:
015/2022/9165554/HĐUQ ngày 26/01/2022 giữa Bên ủy quyền là ông Đào Văn K
và bà Nguyễn Thị Bích T với Bên được ủy quyền là Ngân hàng TMCP Đ (B) được
Phòng C1 công chứng số 02085, quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD;
- Tuyên bố hiệu đối với Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số
014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022, số 69/2022/9165554/VBSDBSHĐTC
8
- Tuyên bố hiệu đối với Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số
015/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022, số 69/2022/9165554/VBSDBSHĐTC
ngày 26/01/2022, số 69/2022/9165554/VBSDBSHĐTC ngày 21/4/2022 giữa Bên
nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ với Bên thế chấp ông Đào Văn K,
Nguyễn Thị Bích T được Phòng C1 công chứng số 08392, quyển số 04/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Tuyên bố hiệu đối với Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số
015/2022/9165554/HĐTC ngày26/01/2022,số 179/2022/9165554/VBSĐBSHĐTC
ngày 20 tháng 10 năm 2022 giữa Bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ với
Bên thế chấp ông Đào Văn K, Nguyễn Thị Bích T được Phòng C1 công
chứng số 22084, quyển số 10/2022 TP/CC-SCC/HĐGD;
- Hủy toàn bộ nội dung cập nhật biến động tại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN:
CH01733 đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh, do U cấp cho ông Đào Văn K, Nguyễn Thị Bích T ngày
31/8/2022;
- Hủy toàn bộ nội dung cập nhật biến động tại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN:
CH01734 đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh, do U cấp cho ông Đào Văn K, Nguyễn Thị Bích T ngày
31/8/2022;
- Hủy phần cập nhật biến động sang tên các ông bà Đào Văn K, Nguyễn Thị
Bích T tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số CH00028 do U cấp ngày 30/01/2013;
- Buộc ông Đào Văn K, ông Đào Trí N, Nguyễn Thị Bích T những
người đang trú tại nhà, đất số B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh phải ra khỏi nhà, đất, giao trả lại toàn bộ nhà, đất số B N, phường Đ, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Phạm Thị Diễm H;
- Phạm Thị Diễm H được quyền liên hệ với các quan thẩm quyền
để thực hiện thủ tục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất đối với toàn bộ nhà , đất tại địa chỉ B N,
phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện bổ sung đề ngày 29 tháng 02 năm
2024:
rút yêu cầu về hủy phần cập nhật biến động sang tên các ông Đào
Văn K, Nguyễn Thị Bích T tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số CH00028 do U cấp ngày 30/01/2013 do
đây là yêu cầu không cần thiết.
Tại phiên tòa ngày 30 tháng 5 năm 2024, ông Nguyễn Văn H1 trình bày:
Nguyên đơn xác định có các yêu cầu đối với Bị đơn như sau:
9
- Hủy hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng; hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01733 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CH01734; buộc Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Văn K trả lại cho
Phạm Thị Diễm H bản chính các giấy tờ liên quan đến căn nhà. Trong trường hợp
Tòa án không chấp nhận yêu cầu trên thì yêu cầu Tòa án: Buộc Nguyễn Thị
Bích T, ông Đào Văn K, ông Đào Trí N liên đới thanh toán cho bà Phạm Thị Diễm
H số tiền mua nhà, đất còn thiếu theo hợp đồng đặt cọc 190.184.043.734 đồng
(Một trăm chín mươi tỷ Một trăm tám mươi bốn triệu Không trăm bốn mươi ba
nghìn Bảy trăm ba mươi bốn đồng) tiền lãi chậm thanh toán theo hợp đồng đặt
cọc cho đến khi thanh toán đủ, tạm tính đến ngày 30/5/2024 84.804.769.435
đồng.
- Tuyên bố hiệu đối với hợp đồng thế chấp các văn bản sửa đổi, bổ
sung hợp đồng thế chấp , hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm; hủy toàn bộ
nội dung cập nhật biến động tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01733
và tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01734; buộc ông Đào Văn K, Đào
Trí N, Nguyễn Thị Bích T những người đang trú tại căn nhà phải dọn ra
khỏi giao trả lại toàn bộ căn nhà cho H. H được quyền liên hệ với các
quan thẩm quyền để thực hiện thủ tục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất đối với toàn bộ nhà,
đất tại địa chỉ B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ cho yêu cầu khởi kiện:
- Ngày 11/6/2021, T đã thực hiện xong thủ tục đăng bộ sang tên H trên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không thông báo cho H biết, không
thanh toán tiền đợt 2 như thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc. Ngày 30/6/2021, bà T
ông K được cập nhật biến động sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nhưng T không thông báo cho H biết, không thanh toán tiền đợt 3 cho bà
H như thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc. Tính đến nay T chỉ thanh toán tổng
cộng 422.315.956.262 đồng tiền theo hợp đồng đặt cọc, còn thiếu 190.184.043.734
đồng. Như vậy, T đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng
đặt cọc, đồng thời T tự ý để ông N sử dụng hợp đồng ủy quyền để kết hợp
đồng chuyển nhượng toàn bộ căn nhà cho ông K với giá rất thấp, khiến cho H
không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng đặt cọc, đẩy H vào tình
thế vừa mất nhà, vừa mất tiền. Do đó, căn cứ Điều 423 Bộ luật Dân sự, H
quyền yêu cầu Tòa án tuyên hủy bỏ hợp đồng đặt cọc chấp nhận các yêu cầu
còn lại.
Nguyên đơn không đồng ý với các khoản tiền mà bà T đã tự thực hiện, không
thông qua, không thông báo cho H, hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng đặt
cọc như tiền lãi chậm thi hành án, nộp tạm ứng chờ xử lý tại thi hành án, tất cả các
khoản thuế, phí trước bạ, phí công chứng, tiền sử dụng đất ở, chậm nộp điều tiết
10
ngân sách địa phương, các khoản chi phí tự thuê dịch vụ xin tháo dỡ nhà, giấy
phép xây dựng và các khoản chi phí khác.
Nguyên đơn cho rằng sau khi hợp đồng đặt cọc, Nguyên đơn gia đình
đã dọn ra khỏi căn nhà 219 Nguyễn Văn T7 nhưng do Bị đơn không yêu cầu bàn
giao nhà nên Nguyên đơn chưa bàn giao do căn nhà tài sản giá trị lớn tại
trung tâm của Thành phố, không thể không người quản nên sau đó Nguyên
đơn và gia đình đã dọn về lại căn nhà.
Nguyên đơn xác nhận:
- Hiện căn nhà do Nguyên đơn Bị đơn mỗi bên chiếm hữu 01 phần, phần
của Nguyên đơn khoảng 303,8 m
2
theo giấy chứng nhận số CH 01734, phần của B
đơn khoảng 1000 m
2
theo giấy chứng nhận số CH01733. Trong trường hợp phải
bàn giao nhà cho Bị đơn thì Nguyên đơn gia đình sẽ dọn ra khỏi căn nhà, bàn
giao toàn bộ phần diện tích nhà đang chiếm hữu, quản cho Bị đơn để Bị đơn
toàn quyền chiếm hữu, quản lý, sử dụng tài sản trên.
- Bị đơn gửi các thông báo yêu cầu giao nhà nhưng Nguyên đơn không
thực hiện Bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán các thông báo này được gửi
sau khi Nguyên đơn đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân Quận 1 nên Nguyên đơn
phải chờ kết quả giải quyết của Tòa án.
Tại Đơn yêu cầu phản tố đề ngày 04 tháng 8 năm 2023, Đơn phản tố (không
đề ngày, chỉ đề tháng 10 năm 2023), Văn bản tự khai đề ngày 18 tháng 8 năm
2023, Văn bản bổ sung đối với yêu cầu phản tố đề ngày 29 tháng 9 năm 2023, Văn
bản trình bày ý kiến đề ngày 29 tháng 9 năm 2023, Đơn yêu cầu phản tố bổ sung
đề ngày 19 tháng 10 năm 2023, Văn bản trình bày ý kiến đề ngày 12 tháng 3 năm
2024 tại phiên tòa, Bị đơn Nguyễn Thị Bích T, Người đại diện hợp pháp của Bị
đơn là bà Đoàn Thị Phương D, bà Nguyễn Thị L trình bày:
Bị đơn thừa nhận đã kết hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền đúng như
Nguyên đơn trình bày. Bị đơn đã thực hiện hoàn tất các nghĩa vụ của hợp đồng đặt
cọc, hợp đồng ủy quyền để Nguyên đơn được đứng tên sở hữu toàn bộ căn nhà
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số BN 013662, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH00028 do Ủy ban
nhân dân Quận U cấp ngày 30/01/2013, đăng ký biến động ngày 11/6/2021.
Ngày 12/6/2021, tại Văn phòng C, căn cứ hợp đồng y quyền, ông Đào Trí N
đã kết Hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
007240/HĐGD (sau đây gọi tắt là hợp đồng chuyển nhượng) với ông Đào Văn K
chồng của T, theo đó Phạm Thị Diễm H chuyển nhượng căn nhà cho ông K
với giá chuyển nhượng 434.717.000.000 đồng, thanh toán thành hai đợt: đợt 1
thanh toán số tiền 349.086.262.168 đồng (đã được thanh toán đúng tiến độ, thông
11
qua việc T thanh toán cho H thanh toán thay cho H các khoản phải thi
hành án thuế khi H nhận thừa hưởng tài sản căn nhà theo bản án phúc
thẩm s 293/2020/DS PT ngày 12/8/2020); đợt 2 thanh toán số tiền
85.630.737.832 đồng (đã thanh toán vào ngày 15/6/2023).
Theo thỏa thuận của hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng, Nguyên
đơn phải thực hiện nghĩa vụ bàn giao toàn bộ căn nhà cho Bị đơn, nhưng đến nay
Nguyên đơn vẫn không thực hiện hoàn tất nghĩa vụ bàn giao nhà theo thỏa thuận
của hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng, hiện Nguyên đơn gia đình
đang chiếm hữu, sử dụng một phần căn nhà diện tích khoảng 303, 8 m
2
tương
đương với phần diện tích thể hiện trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số 781370 do Ủy ban nhân dân
Quận U cấp ngày 31/8/2022, số vào sổ cấp GCN CH 01734 (sau đây gọi tắt là giấy
chứng nhận CH 01734).
Đối với các yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của Nguyên đơn đã được
xác định trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, Bị đơn có ý kiến như sau:
- Không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, vì:
Hợp đồng được giao kết đúng hình thức, phù hợp với ý định thỏa thuận
chuyển nhượng căn nhà của các bên, được xác thực công nhận bởi các nhân,
tổ chức quan thẩm quyền liên quan khác, khi kết sự chứng kiến
của con trai con dâu H ông Khương Bảo T2 Phạm Thị Thanh X.
T đã hoàn tất các nghĩa vụ của mình dù bà H đã vi phạm thỏa thuận, chậm trễ trong
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đặt cọc.
Theo khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự, hợp đồng chỉ thể bị sửa đổi hoặc
hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.Tuy nhiên,
hợp đồng không điều khoản hủy bỏ cũng không cho phép H tự ý hủy hợp
đồng, nếu H đơn phương hủy hợp đồng thì phải chịu hậu quả pháp lý. Cụ thể,
Điều V. (c) của hợp đồng quy định: “Nếu Bên A (Bà H) huỷ hợp đồng chuyển
nhượng hoặc bất kỳ hành nào cản trở việc hoàn tất chuyển nhượng Tài Sản
Chuyển Nhượng theo hợp đồng thì phải trả cho Bên B (Bà T) số tiền gấp ba lần
toàn bộ giá trị Bên B (T) đã thanh toán cho THA đã thanh toán cho Bên A
(Bà H) cũng như toàn bộ các chi phí khác phát sinh.”. Hợp đồng cũng không
thuộc bất kỳ trường hợp phải bị huỷ bỏ nào theo quy định tại Điều 413, Điều 416,
điểm b khoản 1 Điều 423, Điều 424, Điều 425, Điều 427 Bộ luật Dân sự.
Do đó, H không quyền không bất kỳ sở nào đơn phương hủy
bỏ hợp đồng đặt cọc. Thực tế, trong đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2022, H vẫn
thừa nhận và đề nghị Tòa án giải quyết việc tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc.
- Không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền, vì:
12
Hợp đồng ủy quyền được các bên tự nguyện giao kết; đúng hình thức; thể
hiện sự đồng thuận, phù hợp với ý định thỏa thuận về phạm vi các công việc
ủy quyền liên quan đến căn nhà của các bên; được Văn phòng C công chứng theo
đúng quy định của pháp luật; được xác thực công nhận bởi các nhân, tổ chức
các quan thẩm quyền liên quan như quan thi hành án dân sự, Sở Tư
pháp, Văn phòng Đăng ký đất đai, cơ quan thuế, Ủy ban nhân dân phường, Ủy ban
nhân dân quận các quan hữu quan khác bao gồm nhưng không giới hạn Văn
phòng công chứng, quan thi hành án, Sở Pháp, Văn phòng đăng đất đai,
Cơ quan thuế, UBND phường, UBND quận và các cơ quan hữu quan khác.
Người được uỷ quyền theo hợp đồng ủy quyền đã thực hiện đúng phạm vi
nghĩa vụ được ủy quyền, đó là thay mặt bà H thực hiện các quyền nghĩa vụ liên
quan bao gồm nhưng không giới hạn việc được toàn quyền bán, chuyển nhượng
căn nhà. Do vậy, việc thực hiện hợp đồng ủy quyền tuân thủ quy định về phạm vi
đại diện theo Điều 141 Bộ luật Dân sự.
Các bên không thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ hợp đồng ủy quyền; hợp
đồng ủy quyền cũng không thuộc bất kỳ trường hợp nào phải bị hủy bỏ quy định
tại các Điều 413, 418, điểm b khoản 1 Điều 423, các Điều 424, 425 427 của Bộ
luật Dân s2015; do đó, H không quyền đơn phương hủy bỏ hợp đồng ủy
quyền. Thực tế, hợp đồng ủy quyền thực hiện với sự đồng thuận của H trong
suốt quá trình thi hành án và các thủ tục khác.
- Không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng, vì:
Hợp đồng chuyển nhượng được các bên tự nguyện giao kết bằng văn bản; phù
hợp với ý định thỏa thuận mua bán nhà của các bên; được Văn phòng C công
chứng theo quy định pháp luật; được công nhận bởi các nhân, tổ chức các
quan có thẩm quyền có liên quan khác bao gồm nhưng không giới hạn như cơ quan
thuế, văn phòng Đ, ủy ban nhân dâU cấp liên quan; việc ông Đào Trí N thay mặt
H ký kết hợp đồng là đúng với thỏa thuận tại hợp đồng ủy quyền.
Hợp đồng chuyển nhượng không thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ hợp đồng
nên bà H không có quyền đơn phương hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng
chuyển nhượng cũng không thuộc bất kỳ trường hợp nào phải bị hủy bỏ theo quy
định tại các Điều 413, 418, điểm b khoản 1 Điều 423, các Điều 424, 425 427
của Bộ luật Dân sự. Thực tế, T đã hoàn tất nghĩa vụ của mình theo hợp đồng
chuyển nhượng dù bà H vẫn còn vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.
Do yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển
nhượng không sở nên Bị đơn cũng không chấp nhận yêu cầu của Nguyên
đơn về việc buộc Bị đơn giao trả lại bản chính các giấy tờ liên quan đến căn nhà.
- Không chấp nhận yêu cầu hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì:
13
Việc chuyển nhượng căn nhà đã hoàn tất; mọi nghĩa vụ thanh toán thuế, lệ phí
phí đã được thực hiện đầy đủ; vợ chồng T đã được quan nhà nước
thẩm quyền công nhận chủ sở hữu toàn bộ căn nhà; do đó, H không có quyền
yêu cầu hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho vợ chồng bà T.
Các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Chi nhánh Văn phòng Đ Ủy
ban nhân dân Quận U xem xét, thẩm định cấp cho vợ chồng T đúng quy
định, trình tự pháp luật, hồ sơ cấp giấy chứng nhận được trình nộp đầy đủ, phù hợp
với quy định của pháp luật.
Việc H cho rằng T không thông báo về thủ tục thi hành án để tiến
hành cập nhật biến động giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm sang tên chủ sở
hữu đối với căn nhà là không đúng sự thật, không đúng với thực tế khách quan, vì:
Thứ nhất, theo Đơn đề nghị về việc giải toả ngăn chặn chuyển dịch tài sản
do H gửi đến Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh liên quan
đến yêu cầu quan này giải toả ngăn chặn chuyển dịch tài sản theo văn bản số
425/CTHADS về việc ngăn chặn chuyển dịch đối với căn nhà, H đã trình bày
rằng dựa trên việc các bên được thi hành án đã đồng ý choH nộp số tiền mà các
thừa kể được hưởng theo quyết định của Bản án phúc thẩm số 293/2020/DS-PT
ngày 12/8/2020 Quyết định thi hành án số 01/QĐ-CTHADS ngày 01/10/2020,
H đã uỷ quyền cho T thay mặt H nộp đủ số tiền theo Thông báo của Cục
Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để thanh toán kỷ phần cho những
người thừa kế theo bản án quyết định thi hành án này; từ đó, H khẳng định
rằng mình đã thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án đề nghị quan thi hành án
giải toả ngăn chặn đối với căn nhà.
Thứ hai, theo Đơn xin xác nhận gửi đến Ủy ban nhân dân phường U, H đã
nêu việc mình nộp hồ đăng thay đổi chủ sở hữu căn nhà, theo đó vào
ngày 24/5/2021, Chi nhánh Văn phòng Đ phối hợp với UBND phường U đã
biên bản số 440/BBLV-CNQ1 ghi nhận hiện trạng nhà phát sinh khác so với giấy
chứng nhận. Tại đơn này, H đã yêu cầu UBND phường U xác nhận việc H
đã tháo dỡ, khắc phục toàn bộ phần diện tích hiện trạng khác so với Giấy chứng
nhận số CH00028 ngày 30/1/2013 của UBND quận U cấp nhằm mục đích thực
hiện thủ tục thay đổi chủ sở hữu nhà. Đơn xin xác nhận này được chính H
tên hợp lệ, đề cập ràng tới việc H đang thực hiện thủ tục thay đổi chủ sở hữu
nhà đất vào thời điểm ông Đào Trí N thay mặt H kết hợp đồng chuyển
nhượng với ông K. Tiếp đó, T, trên cơ sở được uỷ quyền bởi H theo hợp
đồng ủy quyền thực hiện các thủ tục nhằm thay đổi chủ sở hữu căn nhà từ H
sang ông K.
14
- Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố hiệu các hợp đồng thế chấp các
văn bản sửa đổi, hợp đồng ủy quyền xử lý tài sản bảo đảm, vì:
Các hợp đồng thế chấp, hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm, các văn
bản sửa đổi, bổ sung đầy đủ các điều kiện để giao dịch dân sự hiệu lực theo
quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự; được công chứng theo quy định tại các
Điều 319, 502 Bộ luật Dân sự và Điều 54 Luật Công chứng; được xác nhận bởi các
quan nhà nước thẩm quyền; không thuộc các trường hợp bị hiệu theo quy
định tại các Điều 122, 123, 124, 125, 126, 127, 128, 129, 408 của Bộ luật Dân sự
cũng như quy định pháp luật khác có liên quan.
- Không chấp nhận các yêu cầu thanh toán, vì:
Theo hợp đồng đặt cọc, 612.500.000.000 đồng là tổng giá trị giao dịch đối với
cả 2 loại giao dịch gồm: (i) giao dịch chuyển nhượng căn nhà, giá trị
434.717.000.000 đồng, giá trị căn nhà được xác định trong bản án phúc thẩm
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh được các bên quy
định tại thời điểm hợp đồng đặt cọc hợp đồng ủy quyền; (ii) giao dịch xin
các giấy phép tháo dỡ biệt thự, xin phép quy hoạch, xây dựng cao tối thiểu 60m
với 15 tầng cao hệ số sử dụng đất tối thiểu 8 lần; giá trị 177.783.000.000 đồng,
giá trị còn lại giữa tổng giá trị giao dịch quy định trong hợp đồng đặt cọc giá
trị giao dịch chuyển nhượng căn nhà.
Thực tế, T đã thanh toán xong các nghĩa vụ theo hợp đồng đặt cọc, cụ thể:
(i) thanh toán đầy đủ toàn bộ cho giao dịch chuyển nhượng căn nhà với số tiền
434.717.000.000 đồng như nêu tại hợp đồng chuyển nhượng thông qua việc
thanh toán trực tiếp cho H thanh toán thay cho các nghĩa vụ của H, được
chia thành các đợt thanh toán như tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án; (ii) bà
T đã thanh toán số tiền còn lại 31.529.154.521 đồng cho giao dịch xin các giấy
phép tháo dỡ biệt thự, xin phép quy hoạch, xây dựng mặc dù H không thực hiện
bất kỳ nghĩa vụ nào của bà H đối với phần này.
Như vậy, T đã thanh toán tổng số tiền 466.246.154.521 đồng thông qua
việc thanh toán trực tiếp cho H thanh toán thay cho nghĩa vụ của H theo
hợp đồng đặt cọc thành nhiều đợt thanh toán.
T không nghĩa vụ thanh toán cho H khoản chênh lệch do H chưa
hoàn thành nghĩa vụ tương ứng của bà H theo hợp đồng đặt cọc. Vì vậy, khoản tiền
này T không phát sinh nghĩa vụ thanh toán. T chỉ thực hiện việc thanh toán
số tiền còn lại nếu theo hợp đồng đặt cọc khi: (i) H hoàn thành mọi nghĩa vụ
của H theo hợp đồng đặt cọc bao gồm nhưng không giới hạn việc bàn giao toàn
bộ phần còn lại của căn nhà trong tình trạng trống, xin giấy phép tháo dỡ nhà biệt
thự, xin chấp thuận quy hoạch giấy phép xây dựng cao tầng tối thiểu 60m với
15
15 tầng cao và hệ số xây dựng là hơn 8 lần và sau khi (ii) đã cấn trừ các khoản tiền
thiệt hại mà bà H phải trả cho bà T.
H không có cơ sở và cũng không đưa ra được tài liệu chứng minh bà T còn
phải trả số tiền còn thiếu theo hợp đồng đặt cọc là 190.184.043.734 đồng.
H cũng không sở đòi thanh toán tiền lãi chậm trả của hợp đồng đặt
cọc T đã thanh toán đầy đủ đúng hạn các khoản phải thanh toán theo thỏa
thuận của các bên, hợp đồng đặt cọc không thỏa thuận việc T phải thanh toán
tiền i hoặc bất kỳ chế tài nào, bà H cũng không sở không đưa ra tài
liệu, chứng minh việc bà T phải trả lãi theo hợp đồng đặt cọc.
Về yêu cầu phản tố, Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố với các căn cứ sau:
+ Bị đơn quyền yêu cầu Tòa án buộc H những người liên quan
khác giao cho T phần căn nhà H những người này đang chiếm dụng
bất hợp pháp, vì:
Căn cứ Điều III.1(d) của hợp đồng đặt cọc, H nghĩa vphải bàn giao
toàn bộ căn nhà trong tình trạng trống cho T trong 05 ngày từ ngày ký hợp đồng
đặt cọc, chậm nhất là ngày 24/12/2020. Việc H không bàn giao phần nhà còn lại
là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đã thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc.
Căn cứ Điều 3 của hợp đồng chuyển nhượng, bà H nghĩa vụ phải bàn giao
toàn bcăn nhà cho T chậm nhất vào ngày 12/11/2021, 5 tháng từ ngày
hợp đồng chuyển nhượng. Việc bà H không bàn giao phần còn lại của căn nhà là vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của H đã được quy định ràng tại chuyển
nhượng.
Việc H những người liên quan đang sử dụng một phần căn nhà
không được sự đồng ý của T - chsở hữu hợp pháp theo giấy chứng nhận số
CH 01733 và CH 01734 - được xem sử dụng trái phép vi phạm quyền sở hữu
của chủ sở hữu tài sản. Do vậy, căn cứ Điều 185 của Bộ luật Dân sự, bà H phải
giao phần còn lại của căn nhà cho bà T.
+ T quyền yêu cầu Tòa án buộc H phải trả số tiền
944.235.557.520 đồng, vì :
Theo Điều III.1.(d) của hợp đồng đặt cọc “Trong vòng 05 ngày kể từ ngày
Hợp Đồng Đ, Bên A (Bà H) thanh toán mọi khoản tiền liên quan đến Tài Sản C,
giải phóng mọi người ngụ tại Tài Sản C, để Tài Sản C trong tình trạng trống
bàn giao toàn bộ Tài Sản Chuyển Nhượng trong tình trạng trống cho Người Được
Chỉ Định.”. Cho đến nay, đã qhạn 39 tháng H vẫn chưa bàn giao toàn bộ
căn nhà cho bà T là đã và đang vi phạm Điều III.1.(d) của hợp đồng đặt cọc.
16
Theo Điều III.6 của hợp đồng đặt cọc “Các nghĩa vụ của Bên A (Bà H) phát
sinh ngay lập tức kể từ thời điểm Hợp Đồng Đ, trong trường hợp Bên A (Bà H)
vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào quy định trong Hợp Đồng Đ, không thực hiện, từ chối
thực hiện hoặc chậm trễ thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào, hoặc từ chối kỳ kết hợp
đồng hoặc hứa bản cho bất kỳ bên thứ ba nào thì Bên A (Bà H) sẽ phải bồi thường
gấp ba lần Khoản Phải THA. Đồng thời, Tài Sản Chuyển Nhượng cũng sẽ không
được chuyển giao cho bất kỳ bên thứ ba nào.”.Tại Điều III.2. (b).i của hợp đồng
đặt cọc quy định khoản phải thi hành án số tiền 314.745.185.840 đồng. Do vậy,
số tiền H phải trả cho T do chậm bàn giao căn nhà 944.235.557.520
đồng (= 314.745.185.840 x 3.944.235.557.520 đồng).
+ Bị đơn quyền yêu cầu Tòa án buộc Nguyên đơn trả số tiền
2.400.000.000 đồng vì các lý do sau:
Nguyên đơn chiếm giữ bất hợp pháp một phần căn nhà dẫn đến Bị đơn chủ
sở hữu hợp pháp nhưng khai thác được tài sản, nên Nguyên đơn phải bồi thường
cho Bị đơn các lợi tức mà lẽ ra Bị đơn được hưởng. Số tiền 2.400.000.000 đồng
khoản thiệt hại tạm tính dựa trên số tiền 100.000.000 đồng/tháng x 24 tháng tính từ
ngày 12/11/2021 đến ngày 19/10/2023 là 2.400.000.000 đồng.
Đối với việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ các giao dịch, tuyên bố văn
bản công chứng vô hiệu, Bị đơn có ý kiến như sau:
Trong trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về hủy bỏ các
giao dịch và tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, hủy các giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thì ngoài việc không chấp nhận yêu cầu thanh toán của Nguyên đơn,
Bị đơn yêu cầu Tòa án:
+ Buộc Nguyên đơn trả cho Bị đơn số tiền 944.235.557.520 đồng do
Nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng đặt cọc với các cơ sở pháp lý cho
yêu cầu phản tố của Bị đơn như đã nêu.
+ Buộc Nguyên đơn trả cho Bị đơn số tiền 2.400.000.000 đồng khoản
tiền thiệt hại do Nguyên đơn chiếm giữ bất hợp pháp một phần căn nhà dẫn đến
việc Bị đơn chủ sở hữu hợp pháp căn nhà nhưng không khai thác được tài sản
với các căn cứ như đã nêu.
+ Buộc Nguyên đơn hoàn trả cho Bị đơn số tiền Bị đơn đã thực tế phải trả liên
quan đến giao dịch chuyển nhượng căn nhà là 466.246.154.521 đồng.
+ Buộc Nguyên đơn trả cho Bị đơn số tiền 1.398.738.463.563 đồng vì: Theo
Điều V.(c) của Hợp Đồng Đặt Cọc "Nếu Bên A (Bà H) huỷ hợp đồng chuyển
nhượng hoặc bất kỳ hành vi nào cản trở việc hoàn tất chuyển nhượng Tài Sản
Chuyển Nhượng theo hợp đồng thì phải trả cho Bên B (Bà T8) số tiền gấp ba lần
17
toàn bộ giá trị Bên B (T) đã thanh toán cho THA đã thanh toán cho Bên A
(Bà H) cũng như toàn bộ các chi phí khác phát sinh.”. Số tiền tạm tính hiện nay
466.246.154.521 đồng. Do vậy, Nguyên đơn phải bồi thường khoản tiền gấp ba lần
khoản phải thi hành án, các chi phí đã thanh toán cho Nguyên đơn các chi phí
khác Bị đơn phải thanh toán liên quan đến căn nhà, nghĩa ít nhất số tiền
466.246.154.521 đồng như nêu trên x 3 = 1.398.738.463.563 đồng.
Bị đơn xin rút lại khoản tiền 3.500.000.000 đồng trong khoản tiền Bị đơn
đã thanh toán đợt 4 cho Nguyên đơn. Đây khoản tiền Công ty H2 do ông
Đào Văn K là chủ sở hữu đã thanh toán chi phí cho việc xin phân loại biệt thự.
Tại Văn bản ý kiến đề ngày 04 tháng 8 năm 2023, Văn bản tự khai đề ngày 18
tháng 8 năm 2023, Văn bản ý kiến đề ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại phiên tòa,
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đào Văn K Người đại diện hợp pháp
Đoàn Thị Phương D, bà Nguyễn Thị L trình bày:
Ông Đào Văn K thống nhất và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến, yêu
cầu Bị đơn Nguyễn Thị Bích T đã trình bày về: việc kết thực hiện hợp
đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng; ý kiến đối với yêu
cầu khởi kiện của Nguyên đơn; yêu cầu phản tố.
Tại Bản tự khai đề ngày 18 tháng 8 năm 2023 tại phiên tòa, Đoàn Thị
Phương D, Nguyễn Thị L Người đại diện hợp pháp của Người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Đào Trí N trình bày:
Ông Đào Trí N thống nhất đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến, yêu
cầu Bị đơn Nguyễn Thị Bích T đã trình bày về: việc kết thực hiện hợp
đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng; ý kiến đối với yêu
cầu khởi kiện của Nguyên đơn; yêu cầu phản tố.
Tại Văn bản trình bày đề ngày 21/8/2023, Đơn xin vắng mặt đề ngày
09/10/2023, Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C Người đại
diện theo pháp luật là ông Nguyễn Quang VTrưởng Văn phòng, trình bày:
Ngày 19/12/2020, bà H, bà T, ông N đã đến Văn phòng C ký kết hợp đồng ủy
quyền nội dung đúng như các đương sự đã trình bày đã được công chứng số
01839, quyển số 12/2020/HĐGD - CCBN. Các bên kết hợp đồng đã xuất trình
giấy tờ hợp lệ về nhân thân, các giấy tờ hợp pháp liên quan đến căn nhà cùng các
giấy tờ liên quan khác theo quy định của pháp luật về công chứng. Công chứng
viên đã kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ của các bên và hệ quả
của việc ủy quyền. Quá trình kết sự chứng kiến của công chứng viên; quy
trình công chứng đúng quy định của pháp luật; nội dung hợp đồng ủy quyền không
trái quy định của pháp luật; không dấu hiệu các bên bị đe dọa, cưỡng ép hay
nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự.
18
Ngày 12/6/2021, ông N, dựa trên hợp đồng ủy quyền, ông K đã đến Văn
phòng C kết hợp đồng chuyển nhượng căn nhà với giá mua bán
434.717.000.000 đồng. Việc kết hợp đồng chuyển nhượng không vi phạm
Điều 141 Bộ luật Dân sự. Các bên kết đã xuất trình, công chứng viên đã kiểm
tra các hồ về nhân thân, quyền sở hữu n nhà; việc ng chứng đúng thẩm
quyền, trình tự pháp luật quy định; hợp đồng được kết tự nguyện, không
dấu hiệu bị đe dọa hay cưỡng ép hay sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự
của các bên; hình thức và nội dung hợp đồng không trái quy định của pháp luật.
Do đó, Văn phòng C đề nghị không chấp nhận yêu cầu tuyên hiệu đối với
hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng.
Văn phòng C xin vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc, phiên hòa giải,
phiên tòa xét xử vụ án.
Tại Văn bản số 616/BIDV.BIH-QLRR ngày 17/10/2023, Văn bản số
131A/BIDV.BIH-QLRR ngày 19/3/2024 và tại phiên tòa, Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ (B) Người đại diện hợp
pháp là ông Phùng Nguyễn Hoàng M1 trình bày:
Ông Đào Văn K được B phê duyệt cấp tín dụng với số tiền giải ngân ban đầu
là 200.000.000.000 đồng, tài sản đảm bảo là bất động sản tại thửa đất số 53, tờ bản
đồ số 45, địa chỉ B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu
của ông K và bà Nguyễn Thị Bích T theo hợp đồng chuyển nhượng và Giấy chứng
nhận số BN013662 số vào sổ CH00028 cấp ngày 30/01/2013, cập nhật biến động
chủ sở hữu vào ngày 30/6/2021. Hợp đồng thế chấp đã được công chứng, đăng
biện pháp bảo đảm, phát sinh hiệu lực theo quy định của pháp luật. Hợp đồng ủy
quyền xử tài sản bảo đảm văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp được
kết đúng theo quy định của pháp luật. B bên ngay tình nên đnghị Hội đồng
xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của Nguyên đơn.
Trường hợp Tòa án tuyên hiệu hợp đồng thế chấp, hợp đồng ủy quyền xử tài
sản bảo đảm văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp thì đề nghị buộc
nhân, tổ chức, đơn vị có lỗi phải liên đới bồi thường thiệt hại cho B.
Tại Bản khai đề ngày 05 tháng 2 năm 2024, trong quá trình tố tụng tại
phiên tòa, Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Khương Bảo T2, Phạm
Thị Thanh X, đồng thời đại diện cho các trẻ trình bày:
Ông các con hiện đang trú tại căn nhà số B N, phường Đ, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn Phạm Thị Diễm H, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bị đơn. Ngoài
ra, chúng tôi không có yêu cầu nào khác.
19
Tại Bản khai đề ngày 05 tháng 2 năm 2024, trong quá trình tố tụng tại
phiên tòa, Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Khương Bảo T6, đồng thời
đại diện cho con trình bày:
con hiện đang trú tại căn nhà số B N, phường Đ, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Phạm Thị Diễm H, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bị đơn. Ngoài ra,
chúng tôi không có yêu cầu nào khác.
Tại Đơn trình bày ý kiến yêu cầu đề ngày 21/3/2024, Đơn đề nghị Tòa án
tiến hành xét xử vắng mặt đề ngày 21/3/2024, Người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Phòng C1 Người đại diện hợp pháp ông Huỳnh Phương V1 trình
bày:
Tại thời điểm công chứng, các hồ hợp đồng thế chấp số công chứng:
02084 ngày 26/01/2022, hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng thế chấp số công
chứng: 08392 ngày 21/4/2022, hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng thế chấp số
công chứng: 22084 ngày 20/10/2022 giữa các bên không vi pham điều cấm của
pháp luật. Văn phòng C2 công chứng, chứng thực các hồ nêu trên đúng trình
tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Phòng C1 đề nghị vắng mặt trong suốt quá
trình tố tụng trong các phiên xét xcủa Tòa án các cấp, đề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Văn bản trình bày số 09/2024/ANVN VBYK đề ngày 01/2/2024, Người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH D1 Người đại diện theo pháp
luật là bà Trần Thị N1 trình bày:
Ngày 21/6/2023, Công ty Nguyễn Thị Bích T kết Hợp đồng dịch vụ
bảo vệ số 048/HĐDV ANVN/2023/219 Nguyễn Văn T7 để cung cấp dịch vụ bảo
vệ tài sản tại B N, Phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm
kết, Công ty đã kiểm tra các giấy tờ liên quan T chủ sở hữu hợp pháp của
tài sản. Ktừ khi kết hợp đồng cho đến nay, Công ty T10, điều phối nhân sự
trực thuộc đủ điều kiện theo quy định của pháp luật luân phiên thực hiện công tác
bảo vệ, quản tài sản theo thỏa thuận tại hợp đồng. Công ty không tranh chấp
với đương sự nào trong vụ án xin vắng mặt tại các phiên họp, phiên làm việc,
phiên xét xử toàn bộ các thủ tục tố tụng khác. Công ty đồng ý với mọi quyết
định, bản án của Tòa án về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Bị đơn Nguyễn Thị Bích T
của những Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đào Trí N, Đào Văn K Luật
Lâm Quang Q trình bày:
Tòa án nhân dân Quận 1 đã thụ lý, giải quyết vụ án; tổ chức các phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải theo đúng quy
20
định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đương sự
được tự thương lượng, tìm phương án hòa giải, được tiếp cận hồ vụ án đã được
số hóa.
Căn cứ hồ vụ án đã được Tòa án công bố qua các phiên họp cũng như qua
kiểm tra, tranh tụng tại phiên tòa, đủ sở thấy rằng tất cả yêu cầu khởi kiện,
khởi kiện bổ sung của Nguyên đơn đều không căn cứ, không đúng pháp luật,
không đúng sự thật khách quan của vụ án nên đều không có cơ sở chấp nhận.
Hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng được các
bên tự nguyện kết bằng văn bản, hoàn toàn không bị ai lừa dối, đe dọa hay ép
buộc; hình thức phù hợp với quy định pháp luật; các bên giao kết hợp đồng
đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự; nội dung của các hợp
đồng không trái quy định của pháp luật; nên các hợp đồng nêu trên có đủ điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự. Bị đơn
đã đặt cọc thực hiện hoàn tất mọi nghĩa vụ theo hợp đồng đặt cọc. Bị đơn
ông Đào Trí N đã thực hiện đúng nội dung công việc được ủy quyền. Ông Đào
Văn K đã thực hiện đúng hợp đồng chuyển nhượng. Trong suốt quá trình thực hiện
việc chuyển nhượng căn nhà, Nguyên đơn không phản đối, khiếu nại hay ngăn
chặn việc chuyển nhượng, đồng thời vẫn nhận đầy đủ các khoản tiền theo thỏa
thuận cho thấy ý chí đồng thuận, thống nhất Nguyên đơn. Tại phiên tòa hôm nay
Nguyên đơn không đưa ra được bất kỳ căn cứ nào cho thấy việc công chứng hợp
đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng vi phạm pháp luật. Do vậy, yêu cầu
của Nguyên đơn về việc hủy các hợp đồng nêu trên không căn cứ, đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhận. Do không chấp nhận các yêu cầu này của
Nguyên đơn, đồng thời do việc cấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc
kết, công chứng hợp đồng thế chấp, hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm,
các văn bản sửa đổi hợp đồng thế chấp, đăng giao dịch bảo đảm hợp pháp,
đúng quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận các
yêu cầu của Nguyên đơn về việc buộc Bị đơn phải trả lại bản chính giấy tờ căn
nhà, hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tuyên hiệu đối với hợp đồng
thế chấp, hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm, các văn bản sửa đổi hợp đồng
thế chấp.
Theo khoản 2, Mục II của hợp đồng đặt cọc, “Hợp đồng chuyển nhượng đối
với toàn bộ Tài Sản C được xác nhận bởi phòng công chứng thẩm quyền sẽ ghi
đầy đủ toàn bộ Tổng giá mua. Đồng thời, T9 giá mua chỉ được thanh toán phụ
thuộc o việc thỏa mãn c điều kiện đáp ứng được các yêu cầu của n B”. Tại
khoản 4, mục III của hợp đồng đặt cọc, “…để tránh nhầm lẫn, Bên B và/hoặc
Người được chỉ định được quyền tự mình đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng
được công chứng hoặc chỉ định bất kỳ tổ chức và/hoặc cá nhân nào khác đứng tên
21
trên hợp đồng nhận chuyển nhượng được công chứng (“Bên Chỉ Định Nhận
Chuyển Nhượng”) Bên Chỉ Định Nhận Chuyển Nhượng đó, được coi đã
thanh toán đủ cho n A toàn bộ các khoản tiền do Bên B thanh toán như thể Bên
Chỉ Định Nhận Chuyển Nhượng đó chính Bên B”. rất nhiều điều kiện được
thỏa thuận trong Hợp đồng Đặt cọc, nhưng Nguyên đơn không đáp ứng được.
vậy, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán số tiền làm tròn 190 tỷ đồng, tiền
mua bán nhà mà Bị đơn chưa thanh toán và lãi suất chậm thanh toán được làm tròn
hơn 60 tỷ đồng, trong trường hợp các yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn không
được tòa án chấp nhận, là hoàn toàn không có căn cứ.
Bị đơn đã được công nhận quyền sở hữu hợp pháp căn nhà; việc Nguyên đơn
chiếm hữu, sử dụng phần diện tích khoảng 300m
2
của căn nhà bất hợp pháp, vi
phạm nghĩa vụ bàn giao tài sản, gây thiệt hại cho Bị đơn. Tham khảo giá thuê mặt
bằng tại khu vực Đ ước tính 100.000.000đ/tháng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận yêu cầu của Bị đơn, buộc Nguyên đơn và những người đang chiếm hữu,
sử dụng căn nhà phải dọn ra bàn giao căn nhà cho Bị đơn buộc Nguyên đơn
phải bồi thường cho Bị đơn số tiền là 2.400.000.000 đồng.
Theo thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc, khoản 6, mục III của hợp đồng đặt cọc,
“Bên A vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào quy định trong hợp đồng này, không thực
hiện, từ chối thực hiện, hoặc chậm trễ thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào…thì Bên A
phải bồi thường gấp 3 lần Khoản phải trả Thi hành án…”; điểm c, mục V Nếu
Bên A hủy Hợp đồng chuyển nhượng hoặc bất kỳ hành vi nào cản trở hoàn tất
chuyển nhượng Tài Sản Chuyển Nhượng theo Hợp đồng y thì phải trả cho Bên
B số tiền gấp 3 lần toàn bộ giá trị đã thanh toán cho THA đã thanh toán cho
Bên A cũng như toàn bộ các chi phí khác phát sinh của Bên A”. Thỏa thuận nêu
trên phù hơp quy định tại Điều 418 BLDS Thỏa thuận phạt vi phạm. Đến thời
điểm này, Nguyên đơn vẫn chưa thực hiện hoàn tất nghĩa vụ bàn giao tài sản cho
Bị đơn, bên vi phạm lỗi. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu của Bị đơn, buộc Nguyên đơn trả cho Bị đơn số tiền 944.235.557.520 đồng.
Tại bản án dân sự thẩm số 213/2024/DS-ST ngày 12 tháng 06 năm 2024
của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
1. Không chấp nhận các yêu cầu sau của Nguyên đơn Phạm Thị Diễm H:
- Yêu cầu hủy Hợp đồng đặt cọc lập ngày 19/12/2020 giữa bà Phạm Thị Diễm
H và bà Nguyễn Thị Bích T;
- Yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền lập ngày 19/12/2020 tại Văn phòng C giữa
Phạm Thị Diễm H với bà Nguyễn Thị Bích T ông Đào Trí N, số công chứng
018389, quyển số 12/2020/HĐGD CCBN;
22
- Yêu cầu hủy Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(toàn bộ) số 007240/HĐGD lập ngày 12/6/2021 tại Văn phòng C giữa bà Phạm Thị
Diễm H ông Đào Văn K, số công chứng 007240, quyển số 06/2021/HĐGD
CCBN;
- Yêu cầu tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng thế chấp bất động sản số:
014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022 giữa Bên thế chấp ông Đào Văn K
Nguyễn Thị Bích T với Bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ (B) được
Phòng C1, Thành phố Hồ C Minh ng chứng số 02084, quyến số 01/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với Hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm
số: 015/2022/9165554/HĐUQ ngày 26/01/2022 giữa Bên ủy quyền ông Đào
Văn K Nguyễn Thị Bích T với Bên được ủy quyền Ngân hàng TMCP Đ,
được Phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh công chứng số 02085, quyến số 01/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Yêu cầu tuyên bố hiệu đối với Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế
chấp số 014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022, số
69/2022/9165554/VBSDBSHĐTC ngày 26/01/2022, số
69/2022/9165554/VBSDBSHĐTC ngày 21/4/2022 giữa Bên nhận thế chấp
Ngân hàng TMCP Đ với Bên thế chấp ông Đào Văn K, Nguyễn Thị Bích T,
được Phòng C1, Thành phHồ Chí Minh công chứng số 08392, quyền s04/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Yêu cầu tuyên bố hiệu đối với Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế
chấp số 014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022, Số:
179/2022/9165554/VBSĐBSHĐTC ngày 20/10/2022 giữa Bên nhận thế chấp
Ngân hàng TMCP Đ với Bên thế chấp ông Đào Văn K, Nguyễn Thị Bích T,
được Phòng C1, Thành phHồ Chí Minh công chứng số 22084, quyền s10/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Yêu cầu hủy nội dung cập nhật biến động tại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN:
CH 01733 đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh, do Ủy ban nhân dân Quận U cấp cho ông Đào Văn K,
Nguyễn Thị Bích T ngày 31/8/2022;
- Yêu cầu hủy toàn bộ nội dung cập nhật biến động tại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số vào số
cấp GCN: CH 01734 đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh, do Ủy ban nhân dân Quận U cấp cho ông Đào Văn K,
Nguyễn Thị Bích T ngày 31/8/2022;
23
- Yêu cầu Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Văn K, ông Đào Trí N trả lại cho
Phạm Thị Diễm H bản chính giấy tờ liên quan đến toàn bộ nhà đất tại B N,
Phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh;
- Yêu cầu Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Văn K, ông Đào Trí N những
người đang trú tại nhà, đất số B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh phải ra khỏi nhà, đất, giao trả lại toàn bộ nhà, đất số B N, phường Đ, Quận
A. Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Phạm Thị Diễm H;
- Yêu cầu buộc Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Văn K, ông Đào Trí N
trách nhiệm thanh toán tiền gốc của hợp đồng đặt cọc tiền lãi do chậm thanh
toán là 152.234.967.169 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn:
Buộc Nguyễn Thị Bích T trách nhiệm thanh toán cho Phạm Thị
Diễm H số tiền là 122.753.846.000 đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Bị đơn:
Buộc Phạm Thị Diễm H trả cho Nguyễn Thị Bích T số tiền phạt do vi
phạm hợp đồng đặt cọc lập ngày 19/12/2020 là 944.235.557.520 đồng.
Buộc Phạm Thị Diễm H các ông Khương Bảo T6, Khương Bảo T2,
Phạm Thị Thanh X các trẻ Khương Bảo Thanh T3, Khương Bảo Thanh T4,
Nguyễn Diệp Bảo Q1, Khương Bảo T5 phải dọn ra bàn giao phần nhà đất
đang chiếm hữu, sử dụng tại địa chỉ B N, Phường Đ, Quận A. Thành phố Hồ Chí
Minh cho bà Nguyễn Thị Bích T.
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Bà Nguyễn Thị Bích T về việc yêu
cầu Phạm Thị Diễm H bồi thường số tiền 2.400.000.000 đồng do chiếm dụng
căn nhà B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ktừ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
6. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Nguyên đơn Phạm Thị Diễm H về việc
yêu cầu hủy phần cập nhật biến động sang tên các ông Đào Văn K, Nguyễn Thị
Bích T tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CH 00028 do U cấp ngày 30/01/2013.
7. Án phí dân sự thẩm: Phạm Thị Diễm H được miễn án phí dân sự
thẩm.
24
Nguyễn Thị Bích T phải chịu án phí dân sự thẩm 310.753.846 đồng
nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai thu tạm ứng án
phí của Chi Cục thi hành án dân sự Quận 1 gồm biên lai số 0043903 ngày 4/8/2023
300.000 đồng biên lai số 0044787 ngày 23/10/2023 527.317.779 đồng.
T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại số tiền chênh lệch
216.863.933 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền kháng cáo quy định về thi hành án
cho các bên đương sự.
- Ngày 24/6/2024 nguyên đơn đơn kháng cáo hủy toàn bộ bản án thẩm
hoặc sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn không chấp nhận toàn bộ các yêu cầu phản tố các yêu cầu khác
của bị đơn;
- Ngày 25/6/2024, bị đơn đơn kháng cáo một phần bản án thẩm buộc
nguyên đơn bồi thường thiệt hại cho bị đơn với số tiền 2.400.000.000 đồng do
việc nguyên đơn chiếm giữ bất hợp pháp tài sản một phần nhà, đất tại B N,
phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh bị đơn được công nhận quyền sở
hữu hợp pháp.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; Người kháng cáo không rút đơn kháng
cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: nguyên đơn xác định yêu
cầu kháng cáo như sau: sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện, khởi kiện bổ sung của nguyên đơn đồng thời không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu phản tố của bị đơn. Trường hợp không sửa án được thì đề nghị cấp phúc thẩm
xem xét hủy án sơ thẩm do cấp sơ thẩm xét xử không đúng quy định.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Bị đơn giữ nguyên nội dung yêu
cầu kháng cáo đồng thời không đồng ý toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
về việc sửa án hay hủy án bản án thẩm đã xét xử đúng quy định pháp luật.
Đối với số tiền phạt 944.235.557.520 đồng, đây là phạt vi phạm nghĩa vụ phát sinh
từ hợp đồng chuyển nhượng theo Điều 418 Bộ luật dân sự (vì hợp đồng đặt cọc
quy định hai khoản phạt theo Điều 328 Điều 418 Bộ luật dân sự). Khoản phạt
tiền này phạt theo Điều 418 Bộ luật dân sự độc lập hoàn toàn không phải phạt
cọc. Tuy nhiên, đối với số tiền phạt mà cấp sơ thẩm tuyên buộc nguyên đơn trả cho
bị đơn số tiền phạt quá lớn, nguyên đơn không khả năng thực hiện. Bị đơn tự
nguyện giảm số tiền này xuống, ngang bằng với số tiền mà bản án sơ thẩm đã buộc
bị đơn tiếp tục thanh toán cho nguyên đơn (122.753.846.000 đồng) đề nghị Tòa
cho phép bị đơn được trừ nghĩa vụ với nguyên đơn. Như vậy, nguyên đơn và b
đơn không ai phải nghĩa vụ thanh toán tiền cho nhau; Nguyên đơn những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có trách nhiệm bàn giao nhà, đất đó cho
25
bị đơn. Đối với yêu cầu phản tố đòi bồi thường thiệt hại 2.400.000.000 đồng đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định.
Phần tranh luận:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: trường hợp Tòa án không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc: hủy hợp đồng đặt cọc ngày
19/12/2020; hợp đồng ủy quyền ngày 19/12/2020; hợp đồng mua bán nhà
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (toàn bộ) ngày 12/6/2021; hủy GCN số vào sổ
CH 01733, CH 01734 do U cấp ngày 31/8/2022 thì yêu cầu Tòa án giải quyết:
Buộc T, ông K, ông N liên đới thanh toán cho bà H số tiền mua nhà, đất còn
thiếu theo hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020 190.184.043.734 đồng số tiền
lãi chậm thanh toán theo hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020 cho đến khi thanh toán
đủ, tạm tính đến ngày 30/5/2024 84.804.769.435 đồng. Tổng cộng tiền gốc
lãi là 274.988.813.169 đồng.
Ngoài ra, nguyên đơn còn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng thế chấp bất động sản số:
014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022 giữa Bên thế chấp ông K T
với Bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ (B) được Phòng C1, Thành phố H
Chí Minh công chứng số 02084, quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD;
- Tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm số:
015/2022/9165554/HĐUQ ngày 26/01/2022 giữa Bên ủy quyền ông K T
với Bên được ủy quyền Ngân hàng TMCP Đ, được Phòng C1, Thành phố H
Chí Minh công chứng số 02085, quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD;
- Tuyên bố hiệu đối với văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số
014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022, số 69/2022/9165554/VBSĐBSHĐTC
ngày 21/4/2022 giữa Bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ với Bên thế chấp
ông K, bà T được Phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh công chứng số 08392,
quyền số 04/2022 TP/CC-SCC/HĐGD;
- Tuyên bố hiệu đối với văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số
014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022; số 179/2022/9165554 ngày
20/10/2022 giữa Bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ với Bên thế chấp
ông K, T được Phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh công chứng số 22084,
quyền số 10/2022 TP/CC-SCC/HĐGD;
- Hủy toàn bộ nội dung cập nhật biến động tại GCN số CH 01733, số CH
01734 đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận A, Thành phố
Hồ Chí Minh do U cấp cho ông K, bà T ngày 31/8/2022;
- Buộc ông K, T, ông N những người đang trú tại nhà, đất số B N,
phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh phải ra khỏi nhà, đất, giao trả lại toàn
bộ nhà, đất số B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho bà H;
26
- H được quyền liên hệ với quan thẩm quyền để thực hiện thủ tục
xin cấp lại Giấy chứng nhận đối với toàn bộ nhà, đất tại địa chỉ B N, phường Đ,
Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra nguyên đơn không đồng ý với các khoản tiền T đã giao nộp
tài liệu cho Tòa án (gồm các khoản tiền lãi chậm thi hành án, nộp tạm ứng chờ xử
tại thi hành án, tất cả các khoản thuế, các khoản phí trước bạ, phí ng chứng,
tiền sử dụng đất ở, chậm nộp điều tiết ngân sách địa phương, các khoản chi phí
T tự thuê dịch vụ để xin phép tháo dnhà, giấy phép xây dựng, các khoản chi
phí khác bị đơn giao nộp tài liệu). các khoản tiền trên (nếu có) là các khoản
tiền do phía T tự ý thực hiện, không thông qua, không thông báo cho bà H, hoặc
không thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020. Do đó, đối với các
khoản tiền theo các tài liệu T cung cấp, thì nguyên đơn đề nghị Tòa án xem xét
không xác định đây là các khoản tiền bà T đã thanh toán cho bà H, nghĩa vụ thanh
toán số tiền còn lại theo hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020 của T không được
cấn trừ các khoản tiền nêu trên.
Đối với các yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu Tòa án buộc H trả
cho T 944.235.557.520 đồng do vi phạm nghĩa vụ bàn giao nhà, phải chịu phạt
gấp 3 lần tiền cọc là không có cơ sở, vì: bà T chưa từng yêu cầu bà H bàn giao nhà
cho T. Do đó H không vi phạm nghĩa vụ bàn giao nhà, không vi phạm thời
hạn giao nhà. Phía T tự kết hợp đồng chuyển nhượng công chứng không
đúng với thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc giữa H với T. Phía ông K, T tự
thực hiện các thủ tục nộp thuế, phí, đăng bộ sang tên căn nhà cho ông K, T
không thông báo cho bà H biết, không được sự đồng ý của bà H. Do đó, không thể
nào ràng buộc trách nhiệm của H với các nghĩa vụ được ghi trong hợp đồng
chuyển nhượng do ông N với ông K. Trong quá trình giải quyết tranh chấp,
T không thừa nhận rằng tháng 4/2021 giữa H đã thỏa thuận lại về việc H chỉ
bán 1.000 m
2
nhà đất cho T với giá 470.000.000.000 đồng, còn H giữ lại
303.8 m
2
nhưng cũng không giải thích được tại sao hợp đồng giữa ông N với ông
K lại ghi giá chuyển nhượng 434.717.000.000 đồng, việc T tự áp đặt số tiền
thanh toán theo giá 434.717.000.000 đồng, tự áp đặt số tiền còn lại phải thanh toán
hơn 85 tỷ đồng thể hiện sự vi phạm nghĩa vụ thanh toán, không thể nào buộc
H phải giao nhà trong khi các bên đã khởi kiện, tranh chấp tại Tòa án. Đối với
phần T yêu cầu H bồi thường thiệt hại 2,4 tỷ đồng, bản án thẩm không
chấp nhận sở. Tuy nhiên, nguyên đơn cho rằng bị đơn không chứng minh
được thiệt hại thực tế, mối quan hệ nhân quả nguyên đơn đã bị phạt 03 lần
khoản đặt cọc nên không chấp nhận yêu cầu này; nhận định nêu trên của bản án
thẩm là chưa phù hợp, chưa đầy đủ. Yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị đơn không
có cơ sở phát sinh từ việc bị đơn không yêu cầu bàn giao nhà, không đến nhận nhà
27
đồng thời bị đơn bên vi phạm nghĩa vụ tại hợp đồng đặt cọc dẫn đến việc phát
sinh tranh chấp giữa các bên. Đề nghị a án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc hủy bản án sơ thẩm.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho T, ông K, ông N trình bày:
ngày 19/12/2020, nguyên đơn và bị đơn cùng ký kết hợp đồng đặt cọc, nguyên đơn
bán toàn bộ căn nhà B N, phường Đ, Quận A cho bị đơn, việc đặt cọc phù hợp quy
định tại điều 328 BLDS về đặt cọc. Nội dung của hợp đồng đặt cọc không trái quy
định của pháp luật. Về hình thức hợp đồng đặt cọc được lập thành văn bản phù hợp
quy định tại điều 117 BLDS về điều kiện hiệu lực của giao dịch dân sự. Hợp
đồng ủy quyền được Văn phòng công chứng chứng nhận nên phát sinh hiệu lực và
thực tế bị đơn và người liên quan đã thực hiện hoàn tất các công việc được ủy
quyền, do đó không căn cứ pháp luật để tuyên bố hợp đồng ủy quyền này
hiệu. Căn cứ vào Hợp đồng ủy quyền, ông N đã nhân danh đại diện nguyên đơn
Hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông K
chồng của bị đơn, tại Văn phòng C. Việc giao kết các giao dịch này phù hợp quy
định tại Điều 117 BLDS về điều kiện hiệu lực của giao dịch dân sự đề nghị
không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng của nguyên đơn. Đối với các yêu cầu hủy
các Giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất liên quan đến nhà,
đất 219 Nguyễn Văn T7 bị đơn ông K đang đứng tên sử dụng, các giấy
chứng nhận này, đã được đăng cập nhật sang tên cấp đổi theo nội dung Hợp
đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/06/2021, bên
mua bị đơn đã hoàn tất thủ tục nộp lệ phí trước bạ đăng cập nhật sang tên
tại Văn phòng Đ thẩm quyền, việc mua bán đã hoàn tất đến nay chưa
quan có thẩm quyền nào phán quyết giao dịch này là vô hiệu, và trên thực tế bị đơn
đã nhiều lần giao dịch thế chấp toàn bộ nhà đất B N, phường Đ, quận A cho Ngân
hàng cho thấy các Giấy chứng nhận Quyền sử dụng nhà, đất 219 N của bị đơn
hoàn toàn hợp pháp, nên đề nghị không chấp nhận tất cả các yêu cầu hủy các giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất, các giao dịch thế chấp,
đăng ký thế chấp mà bị đơn và Ngân hàng đã giao dịch hợp lệ.
Bị đơn khẳng định, việc mua nhà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, đối với nhà đất 219 Nguyễn Văn T7, bị đơn đã hoàn tất nghĩa vụ thanh toán
theo giá mua bán do nguyên đơn bị đơn thỏa thuận trong Hợp đồng Đặt cọc, tại
khoản 2, Mục II: Tổng giá mua: nội dung “Hợp đồng chuyển nhượng đối với
toàn bộ Tài Sản Chuyển Nhượng được xác nhận bởi phòng công chứng thẩm
quyền sẽ ghi đầy đủ toàn bộ Tổng giá mua. Đồng thời, T9 giá mua chỉ được
thanh toán phụ thuộc vào việc thỏa mãn các điều kiện đáp ứng được các yêu cầu
của Bên B”, rất nhiều điều kiện được thỏa thuận trong Hợp đồng Đặt cọc,
nhưng Nguyên đơn không đáp ứng được;
tại khoản 4, mục III quy định: “…để tránh nhầm lẫn, Bên B và/hoặc
Người được chỉ định được quyền tự mình đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng
28
được công chứng hoặc chỉ định bất kỳ tổ chức và/hoặc nhân nào khác đứng tên
trên hợp đồng nhận chuyển nhượng được công chứng (“Bên Chỉ Định Nhận
Chuyển Nhượng”) Bên Chỉ Định Nhận Chuyển Nhượng đó, được coi đã
thanh toán đủ cho Bên A toàn bộ c khoản tiền do n B thanh toán nthể Bên
Chỉ Định Nhận Chuyển Nhượng đó chính là Bên B”.
Việc thỏa thuận về tổng giá mua bán của các bên, phù hợp quy định tại
khoản 1, Điều 433 Bộ luật Dân sự: Giá, phương thức thanh toán, do các bên thỏa
thuận.
Hơn nữa, việc Hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng
đất là do ông N đại diện và nhân danh nguyên đơn thực hiện, theo sự ủy quyền của
nguyên đơn, ông N đã xác nhận thanh toán đủ tiền mua bán nhà, nên trách nhiệm
liên quan đến việc thanh toán tiền mua bán nhà, đất 219 Nguyễn Văn T7, theo hợp
đồng mua bán, chuyển nhượng này không thuộc trách nhiệm của bị đơn. Nếu
nguyên đơn thấy rằng bị thiệt hại, thì nguyên đơn thể khởi kiện ông N, thì mới
đúng đối tượng.
vậy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền làm tròn 190 tỷ đồng,
tiền mua bán nhà mà bị đơn chưa thanh toán lãi suất chậm thanh toán được
làm tròn hơn 60 tỷ đồng, trong trường hợp các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
không được tòa án chấp nhận, hoàn toàn không căn cứ, đề nghị bác toàn bộ
yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, hiện tại bị đơn đã được quan nhà
nước thẩm quyền công nhận chủ sở hữu nhà quyền sử dụng đối với
toàn bộ nhà đất số 219 N, theo các Giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở, quyền sử
dụng đất số CH 01733 số CH 01734, nên bị đơn yêu cầu nguyên đơn tất cả
những người đang chiếm dụng bất hợp pháp nhà đất B N, phường Đ, quận A
đúng quy định, đề nghị xem xét chấp nhận;
Ngoài ra, việc nguyên đơn chiếm dụng bất hợp pháp nhà đất nêu trên có diện
tích tương đương 300 m
2
, xâm phạm đến quyền sử dụng của bị đơn được nhà nước
công nhận, vi phạm nghĩa vụ bàn giao nhà, đất 219 Nguyễn Văn T7 cho bị đơn
theo thỏa thuận của Hợp đồng đặt cọc Hợp đồng mua bán nhà chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, được đã gây ra thiệt hại cho bị đơn được tạm tính theo
căn cứ tham vấn giá thuê mặt bằng tại khu vực phường Đ (đã được Bị đơn cung
cấp cho quý tòa), ước tính 100.000.000đ/tháng, tính từ ngày vi phạm 12/11/2021
đến thời điểm xét xử thẩm 30/05/2024 tương đương 30 tháng, với tổng tiền
thiệt hại 3.000.000.000đ, do đó yêu cầu phản tố này của bị đơn cơ sở, phù
hợp Điều 360 BLDS Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ ;
29
Điều 361 BLDS - Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ, Điều 419 BLDS Thiệt hại được
bồi thường do vi phạm hợp đồng, nên đề nghị xem xét chấp nhận.
Bên cạnh đó, trong Hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020, cũng có quy định về
điều khoản phạt vi phạm, tại khoản 6, mục III “Bên A vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào
quy định trong hợp đồng này, không thực hiện, từ chối thực hiện, hoặc chậm trễ
thực hiện bất knghĩa vụ nào…thì Bên A phải bồi thường gấp 3 lần Khoản phải
trả Thi hành án…” được lặp lại tại điểm c, mục V Nếu Bên A hủy Hợp đồng
chuyển nhượng hoặc bất kỳ hành vi nào cản trở hoàn tất chuyển nhượng Tài
Sản Chuyển Nhượng theo Hợp đồng này thì phải trả cho Bên B số tiền gấp 3 lần
toàn bộ giá trđã thanh toán cho THA đã thanh toán cho Bên A ng như toàn
bộ các chi phí khác phát sinh của Bên A” việc thỏa thuận này, phù hợp quy định
tại Điều 418 BLDS Thỏa thuận phạt vi phạm.
Đến thời điểm này, Bên A vẫn chưa thực hiện hoàn tất nghĩa vụ bàn giao tài
sản cho bị đơn; Nguyên đơn chẳng những không đáp ứng, cũng không thực hiện
các điều kiện chuyển nhượng đã thỏa thuận, lại còn tranh chấp yêu cầu hủy việc
mua bán…Bên A bên vi phạm lỗi, nên phải chịu phạt theo quy định của
Hợp đồng đặt cọc với tổng số tiền 944.235.557.520 đồng, đề nghị xem xét chấp
nhận. Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày hôm nay, bị đơn đã thể hiện sự thiện chí hòa
giải, do số tiền phạt tòa án cấp thẩm đã tuyên quá lớn, nguyên đơn lại
là người cao tuổi, nên bị đơn tự nguyện giảm số tiền này xuống, ngang bằng với số
tiền bản án thẩm đã buộc bị đơn tiếp tục thanh toán cho nguyên đơn, như
vậy các bên bù trừ nghĩa vụ, nguyên đơn và bị đơn không ai phải có nghĩa vụ thanh
toán tiền cho bên kia. Sự tự nguyện này của bị đơn lợi cho nguyên đơn, nên đề
nghị HĐXX xem xét công nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét bác
toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, và chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị
đơn.
Đại din Vin kim sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án của Thm phán, Hi đng xét x, việc
chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét kháng cáo của nguyên đơn: nguyên đơn, căn cứ vào khoản 3 Điều 413
Bộ luật Dân sự 2015 để hủy hợp đồng đặt cọc cho rằng bị đơn vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ thanh toán - đó là còn thiếu 190.184.043.734 đồng theo hợp đồng đặt
cọc tiền lãi chậm thanh toán cho đến khi thanh toán đủ, tạm tính đến ngày
30/5/2024 là 84.804.769.435 đồng, tổng cộng là 274.988.813.169 đồng:
- Hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020, đôi bên xác nhận kết trên sở tự
nguyện, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
30
đức hội, việc xác lập hợp đồng đặt cọc để đảm bảo cho việc thực hiện chuyển
nhượng nhà đất. Hợp đồng đặt cọc đủ các điều kiện hiệu lực của giao dịch
dân sự quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015. Xét hợp đồng đặt cọc hiệu
lực pháp luật kể từ ngày được xác lập 19/12/2020, các bên tham gia hợp đồng,
nghĩa vụ thực hiện theo đúng những nội dung đã kết trong hợp đồng. Do vậy,
không có căn cứ hủy Hợp đồng đặt cọc như kháng cáo của nguyên đơn.
- Hợp đồng ủy quyền: Theo nội dung ủy quyền thể hiện: bị đơn và/hoặc ông
Đào Trí N thực hiện các công việc của liên quan đến nghĩa vụ thi nh án của
nguyên đơn phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 7a Luật Thi hành án
Dân sự: “Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án”; Nội dung
ủy quyền còn liên quan đến quyền, nghĩa vụ phát sinh sau khi nguyên đơn được
toàn quyền sở hữu tài sản nêu trên.
Mặt khác, hợp đồng ủy quyền phát sinh trên sở thỏa thuận giữa đôi bên
trong Hợp đồng đặt cọc được quy định tại Điều III.1 (a) “Vào ngày Hợp Đồng
này, Bên A sẽ cùng với Bên B và/hoặc nhân/đơn vị được Bên B chỉ định bằng
văn bản ("Người Được Chi Định") kết các hợp đồng ủy quyền tương ứng
được văn phòng công chứng có thẩm quyền xác nhận”
Xét thấy nội dung thỏa thuận của các đương sự tại hợp đồng ủy quyền không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức hội, phù hợp với quy định tại các
Điều 134, 135, 158 của Bộ luật Dân sự 2015, đủ điều kiện phát sinh hiệu lực theo
quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự. Nên, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của bị đơn về hủy Hợp đồng ủy quyền.
- Hợp đồng chuyển nhượng: Ngày 12/6/2021, ông Đào Trí N đại diện hợp
pháp theo Hợp đồng ủy quyền ngày 19/12/2020 đã Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông Đào Văn K (chồng của bị đơn) tự nguyện giao kết bằng
văn bản, được Văn phòng C công chứng theo đúng trình tự, thủ tục quy định; tại
thời điểm kết hợp đồng. Các bên kết đều năng lực pháp luật dân sự
năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập
Xét nội dung của Hợp đồng chuyển nhượng không vi phạm điều cấm của
luật, tại thời điểm này nguyên đơn đã được toàn quyền sở hữu, sử dụng tài sản
chuyển nhượng theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số CH 01733 CH 01734 ngày 31/8/2022 Ủy ban
nhân dân Quận U đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Đào Trí N đã thực hiện hành vi chuyển nhượng đúng
theo nội dung đã được ủy quyền tại hợp đồng ủy quyền ngày 19/12//2020. Như vậy,
hợp đồng chuyển nhượng đủ các điều kiện hiệu lực của giao dịch dân sự quy
định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự nên giao dịch dân sự hợp pháp, hiệu lực
pháp luật, nguyên đơn tranh chấp xuất phát từ việc thanh toán tiền theo hợp đồng
đặt cọc. Nên, không sở chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về hủy Hợp
đồng chuyển nhượng.
- Hủy cập nhật sang tên của ông K, bà T trên các giấy chứng nhận:
31
Sau khi nhận chuyển nhượng, ngày 31/8/2022 ông ông Đào Văn K, bà
Nguyễn Thị Bích T đã được cập nhật sang tên trên 02 giấy chứng nhận số CH
01733 CH 01734 ngày 31/8/2022 do Ủy ban nhân dân Quận U. Việc cập nhật
sang tên được thực hiện căn cứ vào các giao dịch dân sự hợp pháp hiệu lực pháp
luật. Nên, không chấp nhậnu cầu kháng cáo về việc hủy cập nhật buộc bị đơn,
ông Đào Trí N, ông Đào Văn K phải trả lại bản chính giấy tờ liên quan đến căn nhà.
- Hủy các văn bản liên quan đến việc ông K, T thế chấp nhà đất cho Ngân
hàng: Ông K T thực hiện quyền của chủ sở hữu để thế chấp tài sản cho Ngân
hàng đúng theo trình tự thủ tục quy định. Nên, không chấp nhận các yêu cầu của
nguyên đơn về: tuyên hiệu hợp đồng thế chấp, văn bản sửa đổi hợp đồng thế
chấp, hợp đồng ủy quyền xử lý tài sản bảo đảm.
- Đối với yêu cầu của bị đơn buộc nguyên đơn thanh toán số tiền gấp 3 lần
khoản phải thi hành án do chậm thực hiện nghĩa vụ giao nhà (diện tích 303,8m
2
):
Căn cứ thỏa thuận tại Điều III.1 (d) của hợp đồng đặt cọc Điều 3 của hợp
đồng chuyển nhượng, quy định: “Bên A bàn giao nhà quyền sử dụng đất quy
định tại Điều 1 nêu trên cho bên B trong vòng 5 (năm) tháng kể từ ngày hợp đồng
này được công chứng”.
Tại Điều III.6 của hợp đồng đặt cọc: “Các nghĩa vụ của Bên A phát sinh ngay
lập tức kể từ thời điểm Hợp Đồng này, trong trường hợp Bên A vi phạm bất kỳ
nghĩa vụ nào quy định trong Hợp Đồng này, không thực hiện, từ chối thực hiện
hoặc chậm trễ thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào, hoặc từ chối kết hợp đồng hoặc
hứa bản cho bất kỳ bên thứ ba nào thì Bên A sẽ phải bồi thường gấp ba lần Khoản
Phải Trả THA. Đồng thời, Tài Sản Chuyển Nhượng cũng sẽ không được chuyển
giao cho bất kỳ bên thứ ba nào”.
Đến thời điểm hiện nay, nguyên đơn gia đình vẫn chiếm hữu, sử dụng 01
phần căn nhà (diện tích 303,8m
2
), nên đã vi phạm nghĩa vụ bàn giao tài sản chuyển
nhượng theo thỏa thuận tại Điều III.1 (d) của hợp đồng đặt cọc vi phạm Điều 3
của hợp đồng chuyển nhượng.
Đôi bên thỏa thuận về phạt cọc trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ trong
quá trình thực hiện việc chuyển nhượng tài sản. Tuy nhiên, yêu cầu phản tố bị đơn
chỉ buộc nguyên đơn phải bồi thường gấp 3 lần khoản tiền phải thi hành án là có căn
cứ và có lợi hơn cho nguyên đơn so với việc áp dụng chế tài quy định tại Điều V (c)
của hợp đồng đặt cọc.
Bản án thẩm căn cứ khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự, chấp nhận yêu cầu
của bị đơn buộc nguyên đơn bồi thường gấp 3 lần khoản phải thi hành án là có cơ sở
chấp nhận. Nên, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn: buộc nguyên đơn bồi thường thiệt hại do
nguyên đơn chiếm giữ một phần căn nhà 2.400.000.000 đồng: Bị đơn cho rằng
nguyên đơn không giao nhà dẫn đến việc bị đơn không sử dụng, khai thác được tài
sản. Nhưng, bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh thiệt hại
xảy ra. Hơn nữa, như phân tích nêu trên thì việc nguyên đơn chiếm giữ 01 phần
32
căn nhà vi phạm nghĩa vụ bàn giao tài sản đã bị chế tài bằng khoản phạt gấp 3
lần khoản tiền thực hiện nghĩa vụ thi hành án (314.745.185.840 x 3 =
944.235.557.520 đồng).
Ngoài ra qua đối chiếu với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng đặt cọc về
phương thức thanh toán, đối chiếu với số tiền bị đơn đã thanh toán nên xác định bị
đơn còn thiếu nguyên đơn số tiền chưa thanh toán 122.753.846.000 đồng, do đó
chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về số tiền bị đơn còn thiếu chưa
thanh toán.
Từ những phân tích trên xét bản án thẩm tuyên xử đúng quy định pháp
luật nên kháng cáo của nguyên đơn bị đơn không có sở chấp nhận. Đnghị
HĐXX: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bị đơn, giữ nguyên bản án
sơ thẩm số 213/2024/DS-ST ngày 12/6/2024 của Tòa án nhân dân Quận 1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Nguyên đơn, bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định. Đối với nguyên đơn
thuộc trường hợp miễn nộp tạm ứng án phí phúc thẩm; Đối với bị đơn đã tạm nộp
án phí phúc thẩm nên xác định là hợp lệ.
- Về sự vắng mặt của đương sự: Văn phòng C, Công ty TNHH D1, ông
Khương Bảo T2, ông Văn M được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Căn cứ
khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ
án theo quy định.
[2] Về nội dung: Theo Bản án dân sự phúc thẩm số 293/2020/DS PT ngày
12 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thì
nguyên đơn được toàn quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ B N,
Phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh sau khi đã thanh toán phần giá trị di
sản cho các đồng thừa kế.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn không chấp nhận toàn bộ các yêu cầu phản tố và các
yêu cầu khác của bị đơn:
[3.1] Đối với hợp đồng đặt cọc ngày 19/12/2020: nguyên đơn căn cứ vào
khoản 3 Điều 413 Bộ luật Dân sự 2015 để yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc vì cho rằng
bị đơn vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thanh toán, còn thiếu 190.184.043.734 đồng
theo hợp đồng đặt cọc tiền lãi chậm thanh toán tạm tính đến ngày 30/5/2024
84.804.769.435 đồng, tổng cộng là 274.988.813.169 đồng, nhận thấy:
- Hợp đồng đặt cọc được nguyên đơn bị đơn xác nhận kết trên sở tự
nguyện. Tại thời điểm kết hợp đồng, các bên đều đủ năng lực pháp luật dân
sự năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập hợp đồng đặt
cọc để “đảm bảo thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn
33
liền với đất”, trong đó tài sản hai bên thỏa thuận chuyển nhượng nhà
quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nội dung thỏa thuận của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức hội. Theo đó, nguyên đơn nghĩa vụ hoàn tất các công việc liên
quan đến việc bàn giao tài sản chuyển nhượng ủy quyền cho bị đơn và/hoặc
nhân/đơn vị được bị đơn chỉ định, như bàn giao tài sản chuyển nhượng trong tình
trạng trống, bàn giao bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phía bị đơn,
thanh toán các khoản phải thi hành án; Bị đơn nghĩa vụ thực hiện các công việc
theo ủy quyền của nguyên đơn, thanh toán các khoản tiền theo điều kiện
phương thức thanh toán đã thỏa thuận; sau khi hoàn tất việc cập nhật toàn quyền sở
hữu trên giấy chứng nhận, nguyên đơn phải hợp đồng chuyển nhượng được
công chứng cho bị đơn hoặc người được bị đơn chỉ định.
Như vậy, hợp đồng đặt cọc đủ các điều kiện hiệu lực của giao dịch dân
sự quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, hợp đồng đặt cọc
hiệu lực pháp luật kể từ ngày được xác lập phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia hợp đồng, nghĩa vụ thực hiện theo đúng những nội dung đã thỏa thuận
trong hợp đồng. Bản án thẩm đã đối chiếu với thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng đặt cọc về điều kiện, phương thức thanh toán, đối chiếu với số tiền bị đơn đã
thanh toán để xác định bị đơn còn thiếu số tiền chưa thanh toán 122.753.846.000
đồng, nên đã chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về số tiền bị đơn còn
thiếu chưa thanh toán sở. Do đó, không căn cứ hủy Hợp đồng đặt cọc
theo nội dung kháng cáo của nguyên đơn.
[3.2] Đối với hợp đồng ủy quyền ngày 19/12/2020, nhận thấy:
- Tại thời điểm ký hợp đồng ủy quyền, nguyên đơn là người đang có nghĩa vụ
phải thi hành án theo Thông báo về việc thi hành án số 485/TB-CTHADS ngày
16/10/2020 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, về nghĩa vụ
thanh toán cho các đồng thừa kế giá trị di sản thừa kế được chia nquyền
sử dụng đất tại địa chỉ B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi
thi hành án xong nguyên đơn sẽ thực hiện các thtục liên quan để cập nhật giấy
chứng nhận thể hiện nguyên đơn là chủ sở hữu, sử dụng duy nhất của căn nhà.
- Về hình thức: Hợp đồng ủy quyền được nguyên đơn, bị đơn và ông Đào Trí
N tự nguyện xác lập bằng văn bản, được Văn phòng C công chứng theo đúng trình
tự, thủ tục quy định. Tại thời điểm kết hợp đồng, các bên đều đủ năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác
lập.
- Về nội dung ủy quyền thể hiện: nguyên đơn ủy quyền cho bị đơn và/hoặc
ông Đào Trí N thực hiện các công việc liên quan đến nghĩa vụ thi hành án của
nguyên đơn phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 7a Luật Thi hành án
Dân sự: “Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án”. Nội dung ủy
quyền còn liên quan đến quyền, nghĩa vụ phát sinh sau khi nguyên đơn được toàn
34
quyền sở hữu tài sản nêu trên. Như vậy, nội dung thỏa thuận của các đương sự tại
hợp đồng ủy quyền không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
- Mặt khác, hợp đồng ủy quyền phát sinh trên sở thỏa thuận giữa đôi bên
trong Hợp đồng đặt cọc được quy định tại Điều III.1 (a) “Vào ngày Hợp Đồng
này, Bên A sẽ cùng với Bên B và/hoặc nhân/đơn vị được Bên B chỉ định bằng
văn bản ("Người Được Chỉ Định") kết các hợp đồng ủy quyền tương ứng
được văn phòng công chứng có thẩm quyền xác nhận”.
- Nguyên đơn cho rằng, hợp đồng ủy quyền hiệu do đối tượng không
thể thực hiện được hợp đồng đặt cọc hợp đồng ủy quyền bị trùng một phần
dẫn đến khả năng bị đơn chuyển nhượng căn nhà cho chính mình hoặc bị đơn ký
chuyển nhượng cho bất kỳ bên thứ ba nào khác làm cho xung đột quyền và nghĩa vụ
với hợp đồng đặt cọc. Trình bày của nguyên đơn không căn cứ, nội dung hợp
đồng chuyển nhượng thể hiện ý chí của nguyên đơn bị đơn về việc chuyển giao
tài sản thông qua giao dịch đặt cọc đđảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng vì thời điểm này nguyên đơn chưa phải là chủ sở hữu duy nhất tài sản này.
- Còn đối với hợp đồng ủy quyền thì bên nhận ủy quyền chỉ thực hiện công
việc, thực hiện hành vi theo yêu cầu của người ủy quyền phù hợp thỏa thuận của hai
bên tại hợp đồng đặt cọc. Nếu bị đơn người được ủy quyền hành vi chuyển
nhượng cho chính mình cũng không trái quy định của pháp luật bên chuyển
nhượng vẫn chính là nguyên đơn, nên bị đơn chỉ đại diện cho nguyên đơn thực hiện
hành vi chuyển nhượng theo nội dung đã được ủy quyền. Thực tế, thì bên đại diện
cho nguyên đơn chuyển nhượng nhà đất ông Đào Trí N cũng người được
nguyên đơn ủy quyền theo Hợp đồng ủy quyền ngày 19/12/2020.
Do vậy, nội dung thỏa thuận của các đương sự tại hợp đồng ủy quyền không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại các
Điều 134, 135, 158 của Bộ luật Dân sự 2015. Như vậy, hợp đồng ủy quyền đủ
các điều kiện hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 của Bộ luật
Dân sự. Các bên tham gia giao kết hợp đồng phải thực hiện đúng những nội dung
đã thỏa thuận trong hợp đồng. Ông Đào Trí N đã thực hiện đúng nghĩa vụ thỏa
thuận tại hợp đồng ủy quyền, cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn về hủy bỏ hợp đồng ủy quyền sở. Do đó, không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn về nội dung này.
[3.3] Đối với Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 12/6/2021, nhận thấy:
- Ngày 12/6/2021, ông Đào Trí N đại diện hợp pháp theo Hợp đồng ủy
quyền ngày 19/12//2020 đã Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Đào Văn K (chồng của bị đơn) tự nguyện giao kết bằng văn bản, được Văn
phòng C công chứng theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Tại thời điểm kết hợp
đồng các bên kết đều năng lực pháp luật dân sự năng lực hành vi dân sự
phù hợp với giao dịch được xác lập. Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng đủ các
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự
35
nên giao dịch dân sự hợp pháp, hiệu lực pháp luật, các bên tham gia giao dịch
phải thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận tại hợp đồng.
- Nội dung thỏa thuận tại hợp đồng chuyển nhượng không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức hội. Tại thời điểm này, nguyên đơn đã được toàn
quyền sở hữu, sử dụng tài sản chuyển nhượng theo giấy chứng nhận số BN013662,
số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH00028 do Ủy ban nhân dân Quận U cấp ngày
30/01/2013, đăng ký biến động ngày 11/6/2021.Ông Đào Trí N đã thực hiện hành vi
chuyển nhượng đúng theo nội dung đã được ủy quyền tại hợp đồng ủy quyền ngày
19/12/2020.
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng đủ các điều kiện hiệu lực của giao
dịch dân sự quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự nên giao dịch dân sự hợp
pháp, hiệu lực pháp luật, cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu hủy bỏ hợp
đồng chuyển nhượng căn cứ. Do đó, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn đối
với nội dung này không có cơ sở nên không được HĐXX chấp nhận.
[3.4] Về yêu cầu hủy cập nhật biến động tại các Giấy chứng nhận do U cấp
cho ông K, bà T ngày 31/8/2022, nhận thấy:
Sau khi nhận chuyển nhượng, ông Đào Văn K Nguyễn Thị Bích T đã
được cập nhật sang tên trên 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất, số vào sổ cấp GCN: CH01733 CH01734
do Ủy ban nhân dân Quận U cấp ngày 31/8/2022. Việc đăng ký biến động trên Giấy
chứng nhận quyền thủ tục hành chính căn cứ vào các giao dịch dân sự hợp pháp
hiệu lực pháp luật. Cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là có cơ sở. Do đó, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc
hủy cập nhật cùng yêu cầu buộc bị đơn, ông Đào Trí N, ông Đào Văn K phải trả lại
bản chính giấy tờ liên quan đến căn nhà.
[3.5] Đối với yêu cầu hủy các văn bản liên quan đến việc ông K, T thế
chấp nhà, đất cho Ngân hàng, nhận thấy:
Ông Đào Văn K và bà Nguyễn Thị Bích T thực hiện quyền của chủ sở hữu để
thế chấp tài sản cho Ngân hàng đúng theo trình tự thtục quy định. Cấp thẩm
không chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn về: tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp,
văn bản sửa đổi hợp đồng thế chấp, hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm
căn cứ; Do đó, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn đối với nội dung này không
cơ sở nên không được chấp nhận.
[3.6] Đối với yêu cầu của bị đơn buộc nguyên đơn thanh toán stiền gấp 3
lần khoản phải thi hành án do chậm thực hiện nghĩa vụ giao nhà (diện tích
303,8m
2
), nhận thấy:
Theo thỏa thuận tại Điều III.1 (d) của hợp đồng đặt cọc Điều 3 của hợp
đồng chuyển nhượng nội dung: “Bên A bàn giao nhà quyền sử dụng đất quy
định tại Điều 1 nêu trên cho bên B trong vòng 5 (năm) tháng kể từ ngày hợp đồng
này được công chứng”. theo thỏa thuận tại Điều III.6 của hợp đồng đặt cọc, thể
hiện: “Các nghĩa vụ của Bên A phát sinh ngay lập tức kể từ thời điểm ký Hợp Đồng
36
này, trong trường hợp Bên A vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào quy định trong Hợp
Đồng này, không thực hiện, từ chối thực hiện hoặc chậm trễ thực hiện bất kỳ nghĩa
vụ nào, hoặc từ chối kết hợp đồng hoặc hứa bán cho bất kỳ bên thứ ba nào thì
Bên A sẽ phải bồi thường gấp ba lần Khoản Phải Trả THA. Đồng thời, Tài Sản
Chuyển Nhượng cũng sẽ không được chuyển giao cho bất kỳ bên thứ ba nào”. Tại
phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn xác nhận cho đến thời điểm hiện nay, nguyên đơn
gia đình vẫn đang sử dụng 01 phần căn nhà (diện tích 303,8m
2
) đã vi phạm
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng theo điều 418 BLDS, cấp thẩm chấp nhận yêu
cầu phản tố của bị đơn buộc nguyên đơn chịu phạt gấp 3 lần khoản phải thi hành án
phù hợp theo thỏa thuận tại điều 3 của hợp đồng chuyển nhượng và nội dung thỏa
thuận tại hợp đồng đặt cọc, phù hợp theo quy định tại điều 418 Bộ luật dân sự.
Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình
bày: đối với số tiền phạt 944.235.557.520 đồng mà cấp sơ thẩm tuyên buộc nguyên
đơn trả cho bị đơn số tiền phạt quá lớn, nguyên đơn không khả năng thực
hiện. Bị đơn tự nguyện giảm số tiền này xuống, ngang bằng với số tiền bản án
thẩm đã buộc bị đơn tiếp tục thanh toán cho nguyên đơn (122.753.846.000
đồng) cho bị đơn được bù trừ nghĩa vụ với nguyên đơn. Như vậy, nguyên đơn và bị
đơn không ai phải có nghĩa vụ thanh toán tiền cho bên kia.
Xét thấy, đây sự tự nguyện của bị đơn sự tự nguyện này của bị đơn
lợi cho nguyên đơn được HĐXX ghi nhận. Nvậy, sau khi trừ số tiền phạt mà
bị đơn tự nguyện giảm xuống còn đúng bằng số tiền 122.753.846.000 đồng vào số
tiền 122.753.846.000 đồng bị đơn trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn
thì các bên đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho nhau: đối với bị đơn đã thực
hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn; ngược lại, nguyên đơn cũng đã
thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn.
Do đó, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn sửa một phần bản án
thẩm đối với nội dung này. Đây tình tiết mới tại phiên tòa, cấp thẩm không
có lỗi.
[3.7] Về yêu cầu buộc nguyên đơn những người liên quan bàn giao phần
căn nhà đang chiếm hữu, sử dụng: Đến nay, nguyên đơn gia đình vẫn đang
chiếm hữu, sử dụng một phần căn nhà, diện tích khoảng 303,8 m
2
là vi phạm nghĩa
vụ bàn giao tài sản theo Điều 3 của hợp đồng chuyển nhượng, xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của bị đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 434 Bộ luật Dân sự, cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu của bị đơn, buộc nguyên đơn những người trong gia đình
phải dọn ra bàn giao phần căn nhà đang chiếm hữu, sử dụng cho bị đơn
căn cứ. Đồng thời, căn cứ khoản 3 Điều 434 của Bộ luật Dân sự, cấp thẩm chấp
nhận 01 phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số
tiền 122.753.846.000 đồng; không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc
buộc bị đơn thanh toán phần chênh lệch 152.234.967.169 đồng sở. Do
37
đó, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc trường hợp Tòa án không hủy các
hợp đồng đề nghị bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền gốc 190.184.043.734 đồng
tiền lãi 84.804.769.435 đồng, tổng cộng 274.988.813.169 đồng không căn cứ
nên HĐXX không chấp nhận.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn: buộc nguyên đơn bồi thường thiệt hại
do nguyên đơn chiếm giữ một phần căn nhà 2.400.000.000 đồng: Bị đơn cho
rằng nguyên đơn không giao nhà dẫn đến việc bị đơn không sử dụng, khai thác
được tài sản. Như phân tích nêu trên thì việc nguyên đơn chiếm giữ 01 phần căn
nhà vi phạm nghĩa vụ bàn giao tài sản đã bị chế tài bằng khoản phạt gấp 3 lần
khoản tiền thực hiện nghĩa vụ thi hành án cho các thừa kế. Do đó, cấp thẩm
không chấp nhận yêu cầu này của bị đơn phù hợp nên không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của bị đơn.
[5] Đối với việc nguyên đơn rút yêu cầu hủy đăng biến động đối với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00028. Việc việc rút yêu cầu này của
nguyên đơn là tự nguyện, cấp sơ thẩm đã đình chỉ là đúng quy định của pháp luật.
[6] Từ những nhận định trên, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Tại phiên tòa, đại
diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn. Đề nghị của Viện kiểm sát căn cứ nhưng
do ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn về việc giảm một phần tiền phạt cho nguyên
đơn nên sửa một phần bản án sơ thẩm về nội dung này.
[7] Về án phí phúc thẩm: Do sửa án nên người kháng cáo không phải chịu án
phí.
Vì các lẽ trên,
QUYT ĐNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, 148, 296 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm
2015; các Điều 418, 328, 357, khoản 1 và khoản 3 Điều 434, Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 4 khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lệ phí
Tòa án; Luật Thi hành án Dân sự,
- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị Diễm H;
- Không chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bích T.
- Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 213/2024/DS-ST ngày 12 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh do ghi nhận sự tự
nguyện của bị đơn về việc giảm một phần tiền phạt cho nguyên đơn.
Tuyên xử:
38
1. Không chấp nhận các yêu cầu sau của Nguyên đơn Phạm Thị Diễm H:
- Yêu cầu hủy Hợp đồng đặt cọc lập ngày 19/12/2020 giữa bà Phạm Thị Diễm
H và bà Nguyễn Thị Bích T;
- Yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền lập ngày 19/12/2020 tại Văn phòng C giữa
Phạm Thị Diễm H với bà Nguyễn Thị Bích T ông Đào Trí N, số công chứng
018389, quyển số 12/2020/HĐGD CCBN;
- Yêu cầu hủy Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(toàn bộ) số 007240/HĐGD lập ngày 12/6/2021 tại Văn phòng C giữa bà Phạm Thị
Diễm H ông Đào Văn K, số công chứng 007240, quyển số 06/2021/HĐGD
CCBN;
- Yêu cầu tuyên bố hiệu đối với Hợp đồng thế chấp bất động sản số:
014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022 giữa Bên thế chấp ông Đào Văn K
Nguyễn Thị Bích T với Bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ (B) được
Phòng C1, Thành phố Hồ C Minh ng chứng số 02084, quyến số 01/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với Hợp đồng ủy quyền xử tài sản bảo đảm
số: 015/2022/9165554/HĐUQ ngày 26/01/2022 giữa Bên ủy quyền ông Đào
Văn K Nguyễn Thị Bích T với Bên được ủy quyền Ngân hàng TMCP Đ,
được Phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh công chứng số 02085, quyến số 01/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Yêu cầu tuyên bố hiệu đối với Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế
chấp số 014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022, số
69/2022/9165554/VBSDBSHĐTC ngày 26/01/2022, số
69/2022/9165554/VBSDBSHĐTC ngày 21/4/2022 giữa Bên nhận thế chấp
Ngân hàng TMCP Đ với Bên thể chấp ông Đào Văn K, Nguyễn Thị Bích T,
được Phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh công chứng số 08392, quyền số 04/2022
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Yêu cầu tuyên bố hiệu đối với Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế
chấp số 014/2022/9165554/HĐTC ngày 26/01/2022, Số:
179/2022/9165554/VBSĐBSHĐTC ngày 20/10/2022 giữa Bên nhận thế chấp
Ngân hàng TMCP Đ với Bên thế chấp ông Đào Văn K, Nguyễn Thị Bích T,
được Phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh công chứng số 22084, quyền số 10/2022
TP/CC-SCC/HĐGD,
- Yêu cầu hủy nội dung cập nhật biến động tại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN:
CH 01733 đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận A, Thành
39
phố Hồ Chí Minh, do Ủy ban nhân dân Quận U cấp cho ông Đào Văn K,
Nguyễn Thị Bích T ngày 31/8/2022;
- Yêu cầu hủy toàn bộ nội dung cập nhật biến động tại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số vào số
cấp GCN: CH 01734 đối với nhà, đất tại địa chỉ B (một phần) N, phường Đ, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh, do Ủy ban nhân dân Quận U cấp cho ông Đào Văn K,
Nguyễn Thị Bích T ngày 31/8/2022;
- Yêu cầu Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Văn K, ông Đào Trí N trả lại cho
Phạm Thị Diễm H bản chính giấy tờ liên quan đến toàn bộ nhà đất tại B N,
Phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh;
- Yêu cầu Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Văn K, ông Đào Trí N những
người đang trú tại nhà, đất số B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh phải ra khỏi nhà, đất, giao trả lại toàn bộ nhà, đất số B N, phường Đ, Quận
A. Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Phạm Thị Diễm H;
- Yêu cầu buộc Nguyễn Thị Bích T, ông Đào Văn K, ông Đào Trí N
trách nhiệm thanh toán tiền gốc của hợp đồng đặt cọc tiền lãi do chậm thanh
toán là 152.234.967.169 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn:
Buộc Nguyễn Thị Bích T trách nhiệm thanh toán cho Phạm Thị
Diễm H số tiền là 122.753.846.000 đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Bị đơn:
- Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn đồng ý giảm số tiền phạt 944.235.557.520
đồng xuống ngang bằng số tiền 122.753.846.000 đồng.
- Buộc nguyên đơn trả cho bị đơn số tiền phạt do chậm bàn giao nhà, đất
122.753.846.000 đồng.
- Bù trừ nghĩa vụ thanh toán của nguyên đơn và bị đơn tuyên tại (2) và (3) thì
các bên nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán đối với nhau;
không bên nào phải thanh toán cho nhau.
- Buộc Phạm Thị Diễm H các ông Khương Bảo T6, Khương Bảo
T2, Phạm Thị Thanh X các trẻ Khương Bảo Thanh T3, Khương Bảo Thanh T4,
Nguyễn Diệp Bảo Q1, Khương Bảo T5 phải dọn ra bàn giao phần nhà đất
đang chiếm hữu, sử dụng tại địa chỉ B N, phường Đ, Quận A. Thành phố Hồ Chí
Minh cho bà Nguyễn Thị Bích T.
40
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Bà Nguyễn Thị Bích T về việc yêu
cầu Phạm Thị Diễm H bồi thường số tiền 2.400.000.000 đồng do chiếm dụng
căn nhà B N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh
5. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Nguyên đơn Phạm Thị Diễm H về việc
yêu cầu hủy phần cập nhật biến động sang tên các ông Đào Văn K, Nguyễn Thị
Bích T tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CH 00028 do U cấp ngày 30/01/2013.
6. Án phí dân sự thẩm: Phạm Thị Diễm H được miễn án phí dân sự
thẩm.
Nguyễn Thị Bích T phải chịu án phí dân sự thẩm 310.753.846 đồng
nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai thu tạm ứng án
phí của Chi Cục thi hành án dân sự Quận 1 gồm biên lai số 0043903 ngày 4/8/2023
300.000 đồng biên lai số 0044787 ngày 23/10/2023 527.317.779 đồng.
T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại số tiền chênh lệch
216.863.933 đồng.
7. Về án phí phúc thẩm: - Phạm Thị Diễm H được miễn án phí phúc thẩm.
- H1 lại cho Nguyễn Thị Bích T án phí tạm nộp 300.000 đồng theo biên lai
thu số 0039536 ngày 03 tháng 7 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 1.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 , 7a, 7b 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án phúc thm có hiu lc pháp lut kể tngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Tối Cao;
- TAND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- Cục thi hành án dân sự TPHCM;
- Chi cục THADS Quận 1;
- TAND Quận 1;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Võ Thị Kim Thương
41
Tải về
Bản án số 870/2024/DS-PT Bản án số 870/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 870/2024/DS-PT Bản án số 870/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất