Bản án số 54/2021/HS-PT ngày 07/06/2021 của TAND tỉnh Nam Định về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án 54/2021/HS-PT Nam Định
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 54/2021/HS-PT Nam Định
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 54/2021/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 54/2021/HS-PT ngày 07/06/2021 của TAND tỉnh Nam Định về tội cố ý làm hư hỏng tài sản |
---|---|
Tội danh: | 178.Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Nam Định |
Số hiệu: | 54/2021/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/06/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Dương Thị T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
|
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 54/2021/HS-PT NGÀY 07/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 57/2021/TLPT-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Dương Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2021/HS-ST ngày 22/03/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ý Yên.
- Bị cáo có kháng cáo: Dương Thị T, sinh năm 1990; Giới tính: nữ; ĐKHKTT: Xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Tổ 1 thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con NLC 3, con bà Dương Thị Huế; gia đình có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; chồng: Phạm Quốc Doanh, sinh năm 1983; có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
- Bị hại: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1972. Vắng mặt Anh Nguyễn Viết D, sinh năm 1992. Vắng mặt Đều trú tại: Tổ 13 thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định.
- Người làm chứng:
1. NLC 1
2. NLC 2
3. NLC 3
4. NLC 4
5. NLC 5
6. NLC 6
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Dương Thị T là chị cùng cha khác mẹ với NLC 2, NLC 1 và NLC 6. Ngày 04/9/2020, NLC 2 đến nhà NLC 3 (là bố đẻ) chơi và biết việc T đăng bài viết chửi bà Bùi Thị H (là mẹ đẻ NLC 2) trên mạng xã hội Facebook nên NLC 2 sang nhà T ở cách nhà NLC 3 một nhà đứng trước cửa chửi bới. Thấy vậy, T đang ngồi trong nhà liền lấy bó hoa ném về phía NLC 2 và hai bên xông vào giằng co lẫn nhau. Lúc này NLC1 và NLC 6 ở trong nhà NLC 3 thấy vậy đã chạy ra cùng với NLC 2 dùng tay chân đấm đá T. Để chứng minh T đã đăng bài viết nói xấu mẹ mình, NLC 1 đi vào trong nhà T cầm 01 điện thoại Iphone 6 Plus đang để trên bàn đem đi và nói với T “Tôi cầm điện thoại, chị sang nhà nói chuyện” và đi về nhà NLC 3. Thấy vậy, T vào trong bếp lấy 01 dao phay đi đến trước cửa nhà NLC 3 chửi bới đồng thời dùng dao chém vào yên xe mô tô Honda BKS 18D1-30247 của anh Nguyễn Viết D (chồng NLC1) và chém và thân xe đạp điện BKS 18MĐ3-01367 của bà H đang dựng trước cửa. Sau đó T tiếp tục chửi bới và về nhà lấy 01 con dao phay và quay lại nhà NLC 3 dùng dao chém liên tiếp lên yên xe, hông xe 2 bên, quai xách xe, ốp mặt đồng hồ của xe đạp điện và xe mô tô. Do thấy T manh động nên gia đình bà H đã gọi điện báo Công an thị trấn Lâm đến giải quyết thì T mới dừng lại.
Hội đồng định giá tài sản của huyện Ý Yên kết luận: Giá trị thiệt hại 01 chiếc xe mô tô BKS 18D1-30247 là 3.860.000 đồng và 01 xe đạp điện BKS 18MĐ3-01367 là 900.000 đồng. Tổng thiệt hại là 4.760.000 đồng.
Đối với hành vi của NLC 2, NLC 1 dùng chân, tay tát Dương Thị T nhưng không gây thương tích cho T, không ai đi khám điều trị tại cơ sở y tế nên không xác định thương tích. Vì vậy, Công an huyện Ý Yên xử phạt hành chính đối với Dương Thị NLC 2, NLC 1 theo điểm a khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với NLC 1 có hành vi vào quán của T lấy 01 điện thoại Iphone 6 Plus của T để trên bàn, khi NLC 1 vào lấy điện thoại có NLC 4 (là khách hàng của T) ngồi tại đó; việc NLC 1 lấy điện thoại với mục đích yêu cầu T gỡ các bài đang nói xấu bà H; NLC 1 không có mục đích chiếm đoạt tài sản. Do vậy, cơ quan CSĐT Công an huyện Ý Yên không xem xét trách nhiệm hình sự đối với NLC 1.
Tại cơ quan điều tra, Dương Thị T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2021/HS-ST ngày 22-3-2021 của Toà án nhân dân huyện Ý Yên, đã quyết định:
1. Áp dụng: khoản 1 Điều 178; điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuyên Dương Thị T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Xử phạt Dương Thị T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
2. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo Dương Thị T phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Viết D số tiền 1.680.000 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên biện pháp đảm bảo thi hành án, quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25-3-2021, bị cáo Dương Thị T có kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.
Tại phiên toà:
- Bị cáo Dương Thị T giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị cấp phúc thẩm cho bị cáo được hưởng án treo, được cải tạo tại địa phương vì bị cáo là trụ cột gia đình, nuôi hai con còn nhỏ, chồng đi làm ăn xa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định kết luận về vụ án: Kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Dương Thị T về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và tuyên phạt bị cáo 09 tháng tù là đúng người, đúng tội, không oan, phù hợp với tính chất mức độ của hành vi phạm tội. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại và bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt nhưng chuyển cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách gấp đôi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về phần thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Dương Thị T làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét thấy: Khoảng 10 giờ ngày 14-9-2020, tại gia đình NLC 3 địa chỉ: tổ 1, thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, Dương Thị T đã có hành vi dùng dao chém nhiều nhát vào xe mô tô Honda BKS 18D1-30247 của anh Nguyễn Viết D và xe đạp điện BKS 18MĐ3-01367 của bà Bùi Thị H gây hư hỏng với tổng thiệt hại là: 4.760.000 đồng.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan điều tra thu thập, qua quá trình tranh tụng tại phiên toà. Xét thấy, cấp sơ thẩm đã xử bị cáo Dương Thị T về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định:
Cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là tương đối phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo đã thật sự ăn năn hối hận và đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại theo như quyết định của bản án sơ thẩm; bị hại là anh Nguyễn Viết D và bà Bùi Thị H đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có đơn đề nghị và được chính quyền địa phương xác nhận có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, là lao động chính trong gia đình, đang nuôi 02 con nhỏ; bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự và có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trên cơ sở xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy có đủ căn cứ pháp lý để áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Như vậy cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo T đã tự nguyện bồi thường xong cho bị hại Nguyễn Viết D số tiền 1.680.000 đồng. Ngày 24-3-2021, bị hại Nguyễn Viết D có đơn đề nghị, đơn có xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện bị hại Nguyễn Viết D đã nhận đủ số tiền 1.680.000 đồng như quyết định của bản án sơ thẩm từ bị cáo T.
[5] Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên, Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa bản án sơ thẩm.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ: khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố Dương Thị T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Xử phạt Dương Thị T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 07/6/2021.
Giao bị cáo Dương Thị T cho UBND thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo T đã tự nguyện bồi thường xong cho bị hại Nguyễn Viết D số tiền 1.680.000 đồng theo như quyết định của bản án sơ thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
|
|
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!