Bản án số 52/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 52/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 52/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 52/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 52/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Vĩnh Hưng (TAND tỉnh Long An) |
Số hiệu: | 52/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Th tranh chấp hụi với ông V, bà H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN VĨNH HƯNG
TỈNH LONG AN
Bản án số: 52/2024/DS-ST
Ngày: 24-9-2024
V/v“Tranh chấp về hụi”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Yến Linh.
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Phạm Thị Thúy Nga
Ông Huỳnh Hoàng Lam.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Trọng Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Vĩnh Hưng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Hồng Phương - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng,
tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai
vụ án dân sự thụ lý số: 95/2024/TLST-DS
ngày 28 tháng 5 năm 2024 về việc “Tranh chấp về hụi” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 55/2024/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 8 năm 2024 giữa các đương
sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Đình T, sinh năm 1980. Địa chỉ: Khu phố C, thị
trấn V, huyện V, tỉnh Long An. Có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V1, sinh năm 1978 và bà Phạm Thị H, sinh năm
1977. Cùng địa chỉ: Ấp X, xã V, huyện V, tỉnh Long An. Ông V1 có mặt; bà H
vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Phương Đ, sinh năm
1978. Địa chỉ: Khu phố C, thị trấn V, huyện V, tỉnh Long An. Có đơn xin vắng
mặt.
Người làm chứng:
1. Bà Đường Thị Ngọc T1, sinh năm 1971. Địa chỉ: Ấp X, xã V, huyện V,
tỉnh Long An. Xin vắng mặt.
2. Bà Bùi Thị T2, sinh năm 1974. Địa chỉ: Khu phố B, thị trấn V, huyện V,
tỉnh Long An. Xin vắng mặt.
2
3. Ông Võ Minh H1, sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp X, xã V, huyện V, tỉnh
Long An. Xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần
Thị Đình T trình bày:
Do quen biết, bà T có tham gia 03 dây hụi do bà H làm chủ thảo cụ thể như
sau:
1. Dây hụi vụ 10.000.000 đồng, 01 năm khui 02 lần (đông xuân khoảng
tháng 02 âm lịch và hè thu khoảng tháng 5, tháng 6 âm lịch), bắt đầu khui vụ hè
thu 2020 (khui ngày mùng 7 tháng 5 năm 2020), gồm có 12 phần, bà T tham gia
01 phần, tên trong danh sách là Anh Đ (bà H ghi tên chồng bà T) nhưng bà T là
người trực tiếp chơi hụi, trong sổ hụi bà H ghi tên là Anh Đ. Dây hụi này bà T
đóng hụi được 07 lần với số tiền 42.550.000 đồng, dây này bà H không đưa danh
sách hụi nên bà T chỉ đóng hụi theo thông báo của bà H, sau này bà H tự ý ngưng
hụi và bỏ đi thì bà T mới mượn sổ hụi của người chơi chung là bà Đường Thị
Ngọc T1 vì bà T1 ghi sổ theo dõi chính xác từng lần đóng hụi, cụ thể:
Lần 01 đóng vào vụ hè thu 2020 với số tiền 6.200.000 đồng; Lần 02 đóng
vào vụ đông xuân 2021 với số tiền 5.700.000 đồng; Lần 03 đóng vào vụ hè thu
2021 với số tiền 6.000.000 đồng; Lần 04 đóng vào vụ đông xuân 2022 với số tiền
6.700.000 đồng; Lần 05 đóng vào vụ hè thu 2022 với số tiền 5.600.000 đồng; Lần
06 đóng vào vụ đông xuân 2023 với số tiền 6.500.000 đồng; Lần 07 đóng vào vụ
hè thu 2023 với số tiền 5.850.000 đồng.
Do lúc khởi kiện bà T không nhớ chính xác số tiền đóng hụi nên chỉ ước
lượng khoảng 50.000.000 đồng. Nay bà T xác định lại chỉ yêu cầu bà H và ông
V1 liên đới trả cho bà số tiền vốn đã đóng của dây hụi này là 42.550.000 đồng.
Không yêu cầu tiền lãi.
2. Dây hụi 5.000.000 đồng (4 tháng khui 01 lần). Khui hụi ngày 15/4/2022
âm lịch, bà T tham gia dây 1, tên trong danh sách hụi là Chị T. Có 11 phần hụi.
Bà T đóng hụi được 04 lần, với số tiền đã đóng là 12.250.000 đồng, cụ thể:
Lần 1 đóng vào tháng 4/2022 với số tiền 3.200.000 đồng; Lần 2 đóng vào
tháng 8/2022 với số tiền 3.200.000 đồng; Lần 3 đóng vào tháng 12/2022 với số
tiền 3.050.000 đồng; Lần 4 đóng vào tháng 4/2023 với số tiền 2.800.000 đồng thì
bà H ngưng hụi không khui nữa.
Do bà H không đưa danh sách hụi nên trong đơn khởi kiện bà T yêu cầu trả
số tiền 24.500.000 đồng là không chính xác, dây hụi này chơi chung với ông Võ
Minh H1 (người đã khởi kiện bà H và ông V1), nên bà T có mượn danh sách hụi
và xác định lại số tiền đã đóng của dây hụi này là 12.250.000 đồng nên yêu cầu
bà H và ông V1 liên đới trả tiền vốn bà T đã đóng, không yêu cầu tiền lãi.
3. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, bắt đầu khui ngày 20/6/2022 dương dịch,
gồm có 22 phần, bà T tham gia 01 phần, tên trong danh sách hụi là Chị T, đóng
3
hụi được 15 lần với tổng số tiền 10.770.000 đồng thì bà H không khui hụi nữa, cụ
thể:
Lần 1 đóng vào tháng 6/2022 với số tiền 750.000 đồng; Lần 2 đóng vào
tháng 7/2022 với số tiền 800.000 đồng; Lần 3 đóng vào tháng 8/2022 với số tiền
750.000 đồng; Lần 4 đóng vào tháng 9/2022 với số tiền 750.000 đồng; Lần 5
đóng vào tháng 10/2022 với số tiền 780.000 đồng; Lần 6 đóng vào tháng 11/2022
với số tiền 780.000 đồng; Lần 7 đóng vào tháng 12/2022 với số tiền 750.000
đồng; Lần 8 đóng vào tháng 01/2023 với số tiền 750.000 đồng; Lần 9 đóng vào
tháng 02/2023 với số tiền 780.000 đồng; Lần 10 đóng vào tháng 3/2023 với số
tiền 840.000 đồng; Lần 11 đóng vào tháng 4/2023 với số tiền 790.000 đồng; Lần
12 đóng vào tháng 5/2023 với số tiền 750.000 đồng; Lần 13 đóng vào tháng
6/2023 với số tiền 750.000 đồng; Lần 14 đóng vào tháng 7/2023 với số tiền
750.000 đồng.
Do lúc đầu không có danh sách hụi nên bà T ghi số tiền đóng hụi
14.000.000 đồng là không chính xác, dây hụi này chơi chung với ông C (người đã
khởi kiện bà H và ông V1), bà T có mượn danh sách hụi và xác định lại số tiền đã
đóng của dây hụi này là 10.770.000 đồng nên yêu cầu bà H và ông V1 liên đới trả
tiền vốn bà T đã đóng, không yêu cầu tiền lãi. Dây hụi này bà T có chơi chung
với bà Bùi Thị T2, sinh năm 1974. Địa chỉ Khu phố B, thị trấn V, huyện V, là
người cùng khởi kiện với bà trong đợt này.
Tổng số tiền của 03 dây hụi bà T yêu cầu bà H và ông V1 có nghĩa vụ liên
đới trả cho bà là 65.570.000 đồng, không yêu cầu tiền lãi.
Ông Nguyễn Văn V1 trình bày: Ông V1 với bà H là vợ chồng hợp pháp.
Ông V1 biết bà H có mở nhiều dây hụi có nhiều người tham gia, bà H có sổ hụi
theo dõi các dây hụi và ông V1 đã nộp cho Tòa án trong quá trình các hụi viên
khởi kiện. Trước yêu cầu của bà T, ông V1 xác nhận bà T có tham gia 03 dây hụi
như bà T trình bày, ông V1 đồng ý liên đới cùng bà H trả lại cho bà T số tiền hụi
đã đóng 65.570.000 đồng.
Bà Phạm Thị H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không thể
hiện ý kiến trước yêu cầu theo đơn khởi kiện của bà T.
Ông Phan Phương Đ trình bày: Ông là chồng của bà T, ông biết bà T có
tham gia 03 dây hụi do bà H làm đầu thảo, bà T trực tiếp chơi hụi nhưng trong
danh sách hụi bà H có ghi tên ông. Tiền bà T đóng hụi là tài sản chung của vợ
chồng. Ông thống nhất với ý kiến của bà T và không có yêu cầu gì trong vụ án.
Bà Đường Thị Ngọc T1 trình bày: Bà T1 có tham gia nhiều dây hụi do bà
H làm đầu thảo. Bà T1 xác nhận bà T có tham gia 01 dây hụi vụ 10.000.000 đồng
chung với bà khui vào vụ hè thu năm 2020, hụi có 12 thành viên, số tiền bà T yêu
cầu 42.550.000 đồng là đúng với số tiền bà đã đóng.
Bà Bùi Thị T2 trình bày: Bà T2 có tham gia 02 dây hụi do bà H làm đầu
thảo. Bà T2 xác nhận bà T có tham gia 01 dây hụi tháng 1.000.000 đồng chung
4
với bà khui ngày 20/6/2022, hụi có 22 thành viên, số tiền bà T yêu cầu
10.770.000 đồng là đúng với số tiền bà đã đóng.
Ông Võ Minh H1 trình bày: Ông H1 có tham gia một vài dây hụi do bà H
làm đầu thảo. Ông H1 xác nhận bà T có tham gia 01 dây hụi 5.000.000 đồng
chung với ông khui ngày 15/4/2022 (dây số 1), hụi có 11 thành viên, số tiền bà T
yêu cầu 12.250.000 đồng là đúng với số tiền ông đã đóng.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng:
Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với đương sự: Nguyên đơn và bị đơn ông
Nguyễn Văn V1 đã chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 và 72 Bộ luật
Tố tụng dân sự. Bị đơn bà Phạm Thị H chưa chấp hành đúng quy định tại Điều
70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án:
Theo đơn khởi kiện ngày 27/4/2024, bà T yêu cầu ông Nguyễn Văn V1 và
bà Phạm Thị H trả số tiền hụi bà đã đóng cho 03 dây hụi là 88.500.000 đồng.
Không yêu cầu lãi suất. Tại biên bản ghi lời khai ngày 01/8/2024, bà T thay đổi
yêu cầu khởi kiện, bà yêu cầu ông Nguyễn Văn V1 và bà Phạm Thị H trả số tiền
hụi bà đã đóng cho 03 dây hụi là 65.570.000 đồng và không yêu cầu lãi suất.
Việc thay đổi yêu cầu này không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu
theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn ông Nguyễn Văn V1 đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn. Bị đơn
bà Phạm Thị H vắng mặt không lý do, không thể hiện ý kiến.
Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc ông V1, bà H trả tổng số tiền cho 03 dây
hụi là 65.570.000 đồng và cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu khởi kiện của mình là các danh sách hụi, số tiền hụi đã đóng từng lần mở hụi,
phù hợp với sổ hụi của bà H, phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan và người làm chứng. Cụ thể:
1. Dây hụi vụ 10.000.000 đồng, 01 năm khui 02 lần (đông xuân và hè thu),
bắt đầu khui vụ hè thu 2020 (khui ngày mùng 7 tháng 5 năm 2020), gồm có 12
phần, bà T tham gia 01 phần, tên trong danh sách là Anh Đ, (bà H ghi tên chồng
bà T) nhưng bà T là người trực tiếp chơi hụi, trong sổ hụi bà H ghi tên là Anh Đ.
Dây hụi bà T đóng hụi được 07 lần với số tiền 42.550.000 đồng;
2. Dây hụi 5.000.000 đồng (4 tháng khui 01 lần). Khui hụi ngày khui
15/4/2022 âm lịch (bà T tham gia dây 1) tên bà T trong danh sách hụi là Chị T.
Có 11 phần hụi. Bà T đóng hụi được 04 lần, với số tiền đã đóng là 12.250.000
đồng;
3. Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, bắt đầu khui ngày 20/6/2022 dương dịch,
gồm có 22 phần, bà T tham gia 01 phần, tên trong danh sách hại là Chị T, đóng
được 15 lần với tổng số tiền 10.770.000 đồng.
5
Theo lời trình bày của nguyên đơn thì cách thức tham gia hụi do bà Phạm
Thị H làm thảo hụi không lập thành văn bản, khi bỏ thăm hốt hụi, đóng hụi cũng
không có ký tên; bà H chỉ lập danh sách thành viên tham gia dây hụi và thông
báo đến các hụi viên về số lượng thành viên tham gia, số phần trong dây hụi, số
tiền cần đóng, các hụi viên không cần trực tiếp tham gia bỏ hụi với nhau mà tất
cả các thông tin đều do bà H điện thoại thông báo. Đối chiếu sổ hụi của bà H và
lời trình bày của những người làm chứng (bà T1, ông H1, C) cùng tham gia
chung các dây hụi với nguyên đơn nhận thấy lời trình bày của nguyên đơn là phù
hợp nên có căn cứ đề nghị chấp nhận yêu cầu nguyên đơn.
Về nghĩa vụ liên đới của ông Nguyễn Văn V1: Ông V1 là chồng bà H, thời
gian bà H làm chủ thảo hụi thì giữa ông V1 và bà H vẫn còn là hôn nhân hợp
pháp. Việc bà H làm thảo hụi ông V1 có biết và ông cũng biết bà T có tham gia
nhiều dây hụi do vợ ông làm đầu thảo. Trước yêu cầu của bà T, ông V1 đồng ý
cùng bà H trả nợ nên yêu cầu của nguyên đơn buộc ông V1 trả nợ cùng bà H là
có căn cứ chấp nhận.
Từ phân tích trên căn cứ Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản
1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 288, 471 của BLDS
năm 2015; Điều 27 Luật HNGĐ; Nghị đinh 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019
của Chính Phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường đề nghị: Chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn về tranh chấp hụi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thẩm quyền: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác
định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về hụi”. Bị đơn Nguyễn Văn V1 và bà
Phạm Thị H cư trú tại ấp X, xã V, huyện V nên căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân
dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Về việc xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bị đơn bà Phạm Thị H đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa
lần thứ hai không có lý do, ông Phan Phương Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt
nên căn cứ quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử
vắng mặt là đúng quy định của pháp luật.
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị Đình T
yêu cầu ông Nguyễn Văn V1 và bà Phạm Thị H có nghĩa vụ liên đới trả lại số
tiền hụi bà đã đóng của 03 dây hụi là 88.500.000 đồng. Không yêu cầu lãi suất.
Sau khi đối chiếu các tài liệu, chứng cứ khác bà T có thay đổi một phần yêu cầu
khởi kiện là yêu cầu ông V1, bà H liên đới trả cho bà T số tiền 65.570.000 đồng,
không yêu cầu tiền lãi. Xét thấy, việc bà T có thay đổi một phần yêu cầu khởi
kiện nhưng vẫn nằm trong giới hạn đơn khởi kiện ban đầu nên được chấp nhận.
6
[3.2] Nguyên đơn bà Trần Thị Đình T khởi kiện ông Nguyễn Văn V1 và
bà Phạm Thị H và cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi
kiện của mình gồm danh sách hụi, bảng kê số tiền hụi đã đóng, phù hợp với sổ
hụi của bà H, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng
cũng như sự thừa nhận của ông Nguyễn Văn V1. Theo đó thể hiện tổng số tiền
hụi bà Trần Thị Đình T đã đóng cho bà Phạm Thị H đối với 03 dây hụi là
65.570.000 đồng;
[3.3] Xét thấy, việc tổ chức chơi hụi chỉ theo tập quán ở địa phương và dựa
vào niềm tin, việc tham gia hụi, giao tiền đóng hụi không thể hiện bằng biên nhận
hay văn bản rõ ràng mà chỉ nói miệng với nhau hoặc tự ghi sổ theo dõi, tuy nhiên
số tiền hụi nguyên đơn đã đóng cho bà H là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ
khác có trong hồ sơ, bà H là đầu thảo tự ý ngưng khui hụi nên hụi viên yêu cầu
trả lại tiền hụi đã đóng là có căn cứ nên chấp nhận.
[3.4] Về thực hiện nghĩa vụ liên đới: Do bà H và ông V1 là vợ chồng hợp
pháp, có đăng ký kết hôn, quá trình bà H làm đầu thảo nhiều dây hụi thì ông V1
đều biết và bà H sử dụng tiền hoa hồng của chủ thảo để phục vụ nhu cầu thiết yếu
trong gia đình nên việc nguyên đơn yêu cầu ông V1 có nghĩa vụ liên đới cùng bà
H trả lại tiền hụi là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia
đình nên được chấp nhận.
[3.5] Về tiền lãi: Do bà T không yêu cầu về tiền lãi nên Hội đồng xét xử
không xem xét.
[4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của của
nguyên đơn là có căn cứ phù hợp với quy định tại các điều 471 Bộ luật Dân sự,
Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị Định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019
của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường; nên được chấp nhận toàn bộ.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị
đơn phải chịu án phí có giá ngạch đối với số tiền phải trả cho nguyên đơn.
Nguyên đơn được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng
xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, 228 và 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các
điều 357, 468 và 471 Bộ luật Dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị
Định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu,
phường; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án.

7
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Đình
T về việc Tranh chấp về hụi với bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Văn V1.
Buộc bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Văn V1 có nghĩa vụ liên đới trả cho
bà Trần Thị Đình T số tiền 65.570.000 đồng (sáu mươi lăm triệu năm trăm bảy
mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của nguyên đơn, nếu bị đơn chậm
trả tiền cho nguyên đơn thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh
do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự là 10%/năm.
2. Về án phí:
Buộc bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Văn V1 phải liên đới chịu 3.279.000
đồng (đã làm tròn số) tiền án phí dân sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
Hoàn trả cho bà Trần Thị Đình T 2.213.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã
nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng theo biên lai thu tiền số
0002629 ngày 28/5/2024.
Báo cho đương sự có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo Bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên
tòa thì có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND,VKSND Tỉnh Long An;
- VKSND huyện Vĩnh Hưng;
- Chi cục THADS/H Vĩnh Hưng;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thị Yến Linh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 96/2025/DS-PT ngày 17/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm