Bản án số 282/2025/HC-PT ngày 21/04/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 282/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 282/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 282/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 282/2025/HC-PT ngày 21/04/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 282/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Ngày 24/04/2012, Chủ tịch UBND huyện V đã chỉ đạo, tổ chức cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình ông T tại địa bàn xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên để giao cho Công ty cổ phần Tập đoàn E làm dự án xây dựng. Hành vi chỉ đạo tổ chức cưỡng chế thu hồi đất nêu trên của Chủ tịch UBND huyện V đã vi phạm các quy định của pháp luật đất đai, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 282/2025/HC-PT
Ngày: 21 - 4 - 2025
V/v: “Khiếu kiện hành vi hành
chính trong quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Ngô Quang Dũng
Các Thẩm phán: Ông Hoàng Mạnh Hùng
Ông Nguyễn Hải Thanh
- Thư ký phiên tòa: Ông Đỗ Ngọc Chuyền- Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
-
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Bà Vi Thị Tuyết Minh- Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 21 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hành chính thụ lý số
58/2025/TLPT-HC ngày 15 tháng 01 năm 2025 do có kháng cáo của người khởi
kiện đối với Bản án số 39/2024/HC-ST ngày 08 tháng 7 năm 2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Hưng Yên.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4009/2025/QĐ-PT ngày 03 tháng
4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Đàm Văn T, sinh năm 1963; Địa chỉ: T4, xã X,
huyện V, tỉnh Hưng Yên (Có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Mai N, sinh năm 1979; Địa chỉ:
Tổ 18 phường N, quận L, TP Hà Nội (Vắng mặt).
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc C; Chức vụ: Phó Chủ
tịch UBND huyện V (Xin vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên.
2
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T - Chức vụ: Chủ tịch
UBND huyện V (Vắng mặt).
2. Ủy ban nhân dân xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Mạnh T- Chức vụ: Chủ tịch
UBND xã X (Xin vắng mặt).
3. Công ty Cổ phần Tập đoàn E, địa chỉ: Khu đô thị Thương mại và Du
lịch V - xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Công H - Phó Tổng Giám
đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn E (Xin vắng mặt).
4. Các thành viên hộ gia đình người khởi kiện, gồm các ông bà: Vũ Thị
T1, sinh năm 1969, anh Đàm Văn T2, sinh năm 1989, cùng địa chỉ: T4, xã X,
huyện V, tỉnh Hưng Yên (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai, người khởi kiện, người đại diện
theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Theo Biên bản giao đất cho các hộ gia đình năm 1998 thể hiện, các thành
viên hộ gia đình ông Đàm Văn T được nhà nước giao đất nông nghiệp để phục
vụ sản xuất và hộ gia đình ông T sử dụng đất ổn định, đúng mục đích.
Ngày 24/04/2012, Chủ tịch UBND huyện V đã chỉ đạo, tổ chức cưỡng chế
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình ông T tại địa bàn xã X, huyện V, tỉnh
Hưng Yên để giao cho Công ty cổ phần Tập đoàn E làm dự án xây dựng. Hành
vi chỉ đạo tổ chức cưỡng chế thu hồi đất nêu trên của Chủ tịch UBND huyện V
đã vi phạm các quy định của pháp luật đất đai, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của gia đình ông T bởi các lý do sau đây:
- Dự án E không chứng minh được lý do thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định tại Điều 39
của Luật Đất đai 2003.
- Tại thời điểm cưỡng chế thu hồi đất, Chủ tịch UBND huyện V chưa có đủ
căn cứ pháp lý về văn bản phê duyệt, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp
có thẩm quyền, không có Thông báo thu hồi đất, không ra quyết định thu hồi đất
hoặc quyết định cưỡng chế thu hồi đất; không xây dựng phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư. UBND xã không niêm yết quyết định cưỡng chế thu hồi đất
tại trụ sở UBND xã theo quy định.
- Chủ tịch UBND huyện V chỉ đạo tổ chức cưỡng chế thu hồi đất mà
không bàn bạc với các hộ có đất bị thu hồi và Hội đồng nhân dân các cấp là trái
pháp luật.
3
Ông Đàm Văn T yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi cưỡng chế thu hồi đất
của Chủ tịch UBND huyện V là trái pháp luật; yêu cầu Công ty cổ phần Tập
đoàn E ngừng ngay hoạt động thi công và hoàn trả tài sản đất đai đã được bàn
giao do hành vi cưỡng chế ngày 24/4/2002 của Chủ tịch UBND huyện V, tỉnh
Hưng Yên.
Người bị kiện trình bày:
- Về chủ trương đầu tư.
Dự án Khu đô thị thương mại và du lịch V được triển khai theo Quyết định
số 742/QĐ-TTg ngày 30/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu hồi
5.540.712m
2
đất tại các xã X, P, C, L, T, thị trấn V thuộc huyện V; các xã H, Y,
Y thuộc huyện Y và các xã Đ, T, D thuộc huyện K, tỉnh Hưng Yên; giao toàn bộ
diện tích đất thu hồi cho Chủ đầu tư để thực hiện dự án xây dựng tuyến đường
từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên đoạn từ huyện V đến xã D, huyện K, tỉnh
Hưng Yên theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ
tầng.
Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đã ban hành Quyết định 2549/QĐ-UB và
Quyết định số 2550/QĐ-UB ngày 21/10/2004 để thực hiện việc thu hồi đất theo
Quyết định nói trên của Chính phủ; ban hành Quyết định số 2006/QĐ-UB ngày
8/6/2005 về việc phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu
hồi đất, giao đất cho Công ty Cổ phần đầu tư và Phát triển đô thị V, để xây dựng
hạ tầng kỹ thuật khu Đô thị - Thương mại - Du lịch V, địa phận xã X, huyện V.
- Về công tác giải phóng mặt bằng.
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện V đã tiến hành kiểm kê,
lập phương án trình UBND huyện V ban hành quyết định phê duyệt; tổ chức
niêm yết công khai phương án bồi thường để người dân được biết và kiểm tra;
tổ chức chi trả cho các hộ tự nguyện nhận tiền và bàn giao mặt bằng; chuyển
tiền vào Ngân hàng đối với các hộ chưa nhận tiền.
Tổng số hộ gia đình đã nhận tiền bồi thường giải phóng mặt bằng và bàn
giao mặt bằng tính đến trước thời điểm thực hiện việc cưỡng chế là 1560
hộ/1720 hộ; tổng số hộ gia đình còn lại không nhận tiền bồi thường giải phóng
mặt bằng và không bàn giao mặt bằng tính đến trước thời điểm thực hiện cưỡng
chế là 160 hộ, diện tích phải cưỡng chế khoảng 5,86 ha.
(Tính đến thời điểm hiện nay, số hộ gia đình đã nhận tiền bồi thường, hỗ
trợ là 1623 hộ/1720 hộ; số hộ gia đình chưa nhận tiền là 97 hộ).
Do một số hộ dân bị thu hồi đất không thực hiện quyết định thu hồi đất của
cơ quan có thẩm quyền, cố tình không nhận tiền bồi thường giải phóng mặt
bằng, không di chuyển tài sản, cây cối hoa màu để bàn giao đất và không ký
4
biên bản bàn giao đất nên UBND xã X đã lập biên bản vi phạm hành chính và
đề nghị UBND huyện V xử phạt vi phạm hành chính.
Ngày 13/12/2011, Chủ tịch UBND huyện V đã ban hành các quyết định xử
phạt vi phạm hành chính đối với các hộ gia đình có vi phạm theo quy định tại
Điều 39, Điều 40 của Luật Đất đai 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 17
của Nghị định số 105/2009/NĐ - CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Ngày 05/4/2012, Chủ tịch UBND huyện V đã ban hành Quyết định về
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp cưỡng chế khác để thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với các
hộ dân không chấp hành quyết định xử phạt, trong đó có hộ gia đình người khởi
kiện. Biện pháp cưỡng chế là: Giải tỏa mặt bằng trên thực địa để bàn giao đất
theo các Quyết định và Thông báo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thời
gian thực hiện cưỡng chế: Từ ngày 20/4/2012.
Ngày 24/4/2012, UBND huyện V tổ chức thực hiện cưỡng chế ngoài thực
địa; kết quả cưỡng chế được lập thành biên bản và gửi cho hộ gia đình nhưng hộ
gia đình không hợp tác.
Căn cứ các quy định của pháp luật về việc cưỡng chế thi hành quyết định
xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai; sau khi rà soát, đối chiếu với các văn
bản thuộc hồ sơ cưỡng chế và trình tự các bước thực hiện cưỡng chế nêu trên,
Chủ tịch UBND huyện tổ chức cưỡng chế thu hồi đất ngày 24/4/2012 đối với
người khởi kiện là đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Hưng Yên bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- UBND huyện V, tỉnh Hưng Yên thống nhất quan điểm, đề nghị của người
bị kiện Chủ tịch UBND huyện V và không bổ sung nội dung gì khác.
- UBND xã X, huyện V có quan điểm xác định việc cưỡng chế thu hồi đất
của Chủ tịch UBND huyện V đối với hộ gia đình người khởi kiện đã bảo đảm
đúng trình tự, tủ tục theo quy định pháp luật nên đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện.
- Công ty Cổ phẩn Tập đoàn E trình bày: Toàn bộ dự án của Công ty được
nhà nước giao đất là đúng quy định của pháp luật, do đó không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện.
- Các thành viên hộ gia đình có đất bị thu hồi đều thống nhất với yêu cầu
của người khởi kiện.

5
Tại Bản án số 39/2024/HC-ST ngày 08/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên đã quyết định:
Căn cứ Điều 30, Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 206 của Luật Tố
tụng hành chính; Điều 39, Điều 44 của Luật Đất đai năm 2003; Điều 66, Điều
67 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đàm Văn T về việc yêu
cầu Tòa án: Tuyên hành vi tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế bằng các biện pháp khác ngày 24/4/2012 của Chủ tịch UBND huyện
V đối với hộ gia đình ông (bà) là trái pháp luật.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí sơ thẩm và thông báo
quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/7/2024, ông Đàm Văn T là người khởi kiện kháng cáo đề nghị
hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, buộc Công ty cổ phần tập đoàn E hoàn trả lại toàn
bộ diện tích đất cho gia đình.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện là ông Đàm Văn T không
rút đơn khởi kiện, không rút kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ
thẩm vì quyết đinh của Thủ tướng Chính phủ không có dấu, thanh tra
chính phủ có văn bản kết luận phải trả đất cho dân 25 ha.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan
điểm: - Về tố tụng: Hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội, của Hội đồng xét xử phúc thẩm (viết tắt: HĐXXPT), Thư
ký đúng quy định của pháp luật; người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đơn kháng cáo của người khởi kiện làm trong hạn luật định là hợp lệ đủ
điều kiện xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
- Về nội dung: Đề nghị HĐXXPT áp dụng khoản 1 Điều 241 của Luật
Tố tụng hành chính năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của người khởi
kiện và giữ nguyên quyết định của Bản án số 39/2024/HC-ST ngày 08 tháng
7 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; nghe
đương sự trình bày, tranh luận; nghe đại diện VKSND cấp cao tại Hà Nội phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án tại phiên tòa, các quy định của pháp luật,
HĐXXPT nhận định như sau:

6
[1] Ngày 12/7/2024, người khởi kiện Đàm Văn T nộp đơn kháng cáo đối
với Bản án sơ thẩm, thực hiện trong thời hạn luật định được Tòa án chấp nhận
xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm lần 2, vắng mặt người bị kiện, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan nhưng có đơn xét xử vắng mặt nên Hội đồng tiến hành
xét xử vụ án theo đúng Điều 225 của Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về thời hiệu, thẩm quyền giải quyết và đối tượng khởi kiện:
Ông Đàm Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi tổ chức
cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện V ngày 24/4/2012 đối với hộ gia đình
ông xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên là trái pháp luật. Tòa án nhân dân tỉnh Hưng
Yên đã xác định đúng đối tượng khởi kiện và thụ lý giải quyết là đúng thẩm
quyền, trong thời hiệu khởi kiện, quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 3, khoản 1
Điều 30 và khoản 3, khoản 4 Điều 32, Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính.
[3] Xét kháng cáo của người khởi kiện:
[3.1] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất cho Chủ đầu
tư:
Việc thu hồi đất và giao đất cho Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần tập đoàn
E (trước đây là Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển Đô thị V) để thực hiện Dự
án Khu đô thị và thương mại dịch vụ V được thực hiện theo phương thức sử
dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tại Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 30/6/2004 của Thủ tướng Chính
phủ có nội dung: Thu hồi 5.540.712m
2
đất tại các xã X, P, C, L, T, thị trấn V
thuộc huyện V; các xã H, Y, Y thuộc huyện Y và các xã Đ, T, D thuộc huyện K,
tỉnh Hưng Yên; giao toàn bộ diện tích đất thu hồi cho Chủ đầu tư để thực hiện
dự án xây dựng tuyến đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên đoạn từ
huyện V đến xã D, huyện K, tỉnh Hưng Yên theo phương thức sử dụng quỹ đất
để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong đó, diện tích đất giao cho Chủ đầu tư
đã bỏ vốn xây dựng đường là 4.990.706m
2
/tổng số 5.540.712m2. Chủ đầu tư sử
dụng diện tích đất được giao trên theo đúng quy hoạch và dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Vị trí, ranh giới của diện tích đất giao cho Chủ đầu tư
(trong đó đã bao gồm 1.292.618 m2 tại xã X) được xác định theo các tờ bản đồ
địa chính do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên lập năm 2004.
Thực hiện Quyết định số 742/QĐ-TTg, ngày 21/10/2004, UBND tỉnh
Hưng Yên ban hành Quyết định số 2549/QĐ-UB về việc thu hồi 4.990.706m2
đất tại các xã X, C, P và thị trấn V; giao toàn bộ diện tích đất cho Công ty cổ
phần đầu tư và phát triển đô thị V để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật Khu đô thị Thương mại dịch vụ và du lịch V, tỉnh Hưng Yên theo
7
phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng (phần diện tích
thu hồi tại xã X 1.219.348 m2). Đồng thời, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành
Quyết định số 2550/QĐ-UB về việc thu hồi 550.006m2 đất tại các xã X, C, P và
thị trấn V; giao 541.133m2 đất cho Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị
V để xây dựng đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên đoạn từ huyện V
đến xã D, huyện K và 8.873m2 đất để làm mương thủy lợi mới theo phương
thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
Ngày 8/6/2005, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 2006/QĐ-
UB về việc phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất,
giao đất cho Công ty Cổ phần đầu tư và Phát triển đô thị V, để xây dựng hạ tầng
kỹ thuật khu Đô thị - thương mại- du lịch V, địa phận xã X, huyện V. Trong đó
có nội dung bồi thường đất nông nghiệp cho các hộ dân là 466.605,82m2 x
43.425đ/m2.
Theo quy định tại Điều 23 của Luật đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung
năm 2001 và quy định tại khoản 2 Điều 1 của Nghị định số 66/NĐ-CP ngày
28/9/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 04/NĐ-
CP ngày 11/2/2000 thì Chính phủ có thẩm quyền thu hồi đất, giao đất theo
phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Do đó, ngày
30/6/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 742/QĐ-TTg có nội
dung thu hồi 5.540.712m
2
đất tại một số xã của huyện V, trong đó có xã X và
giao cho chủ đầu tư thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng trên địa bàn huyện V, tỉnh Hưng Yên là đúng thẩm
quyền và phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 44 của Luật đất đai năm 2003, UBND cấp tỉnh và
UBND cấp huyện đều có thẩm quyền thu hồi đất. Do đó, ngày 21/10/2004,
UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 2549/QĐ-UB có nội dung thu
hồi đất tại một số xã, thị trấn của huyện V và giao cho Công ty cổ phần đầu tư
và phát triển đô thị V để thực hiện các dự án tại huyện V là đúng thẩm quyền,
phù hợp với quy định của Luật đất đai năm 2003 và Quyết định số 742/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 6/8/2007, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 1331/QĐ
– UB về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
tại xã X, huyện V để xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Thương mại-Du lịch
V (đợt 5). Tổng cộng có 141 hộ được nhận tiền bồi thường.
Ngày 29/9/2008, UBND huyện V ban hành Quyết định số 2788/QĐ -
UBND, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với các hộ thuộc diện kiểm
kê bắt buộc khi Nhà nước thu hồi đất tại xã X, huyện V, để thực hiện dự án Xây
dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị thương mại du lịch V. Diện tích đất bị thu hồi
8
được xác định theo quyết định này là 194.416,31m2; tổng số hộ có đất thu hồi
được bồi thường là 304 hộ.
Sau đó, UBND xã X tổ chức niêm yết công khai phương án bồi thường để
người dân được biết và kiểm tra; tổ chức chi trả cho các hộ tự nguyện nhận tiền
và bàn giao mặt bằng; chuyển tiền vào Ngân hàng đối với các hộ chưa nhận
tiền. Kết quả thực hiện giải phóng mặt bằng thể hiện, số hộ gia đình đã nhận
tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng là 1623 hộ/1720 hộ, số hộ gia đình không
nhận tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng là 97 hộ.
Như vậy, UBND tỉnh Hưng Yên, UBND huyện V và UBND xã X đã thực
hiện đúng quy định của pháp luật đất đai về thẩm quyền, trình tự, thủ tục phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và tổ chức chi trả
tiền bồi thường cho các hộ dân có đất bị thu hồi tại xã X, huyện V theo đúng
quy định của pháp luật đất đai.
[3.2] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ngày 13/12/2011 của Chủ tịch UBND
huyện V; Quyết định về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp
khác để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
ngày 5/4/2012 của Chủ tịch UBND huyện V; về hành vi tổ chức hỗ trợ thi công
và cưỡng chế bàn giao đất thuộc địa phận xã X, huyện V ngày 24/4/2012 của
Chủ tịch UBND huyện V để thực hiện Dự án Khu đô thị, thương mại- du lịch V.
Ngày 22/11/2011, UBND huyện V ban hành Kế hoạch số 34/KH-UBND
tổ chức bàn giao đất ngoài thực địa tại xã X để thực hiện dự án Khu đô thị,
thương mại – du lịch V. Ngày 23/11/2011, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư huyện V ban hành Thông báo số 34/TB-HĐBT về việc di chuyển cây
cối, hoa màu và các loại tài sản trên đất để thực hiện dự án. Các Thông báo này
được đọc trên hệ thống loa truyền thanh xã, được niêm yết tại trụ sở UBND xã
X và Nhà văn hóa các thôn, được chứng minh bằng Biên bản làm việc ngày
01/12/2011. Theo nội dung của Thông báo số 34/TB-HĐBT, đối với các hộ đã
nhận tiền bồi thường, đã cam kết bàn giao mặt bằng thì trong 30 ngày kể từ
ngày thông báo phải hoàn thành việc di chuyển cây cối, hoa màu; đối với những
hộ chưa nhận tiền bồi thường, thời gian tự nguyện di chuyển xong trước trước
ngày 05/12/2011.
Ngày 28/11/2011, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện V
ban hành Kế hoạch số 35/KH-HĐ về tổ chức thực hiện việc bàn giao đất ngoài
thực địa tại xã X để thực hiện dự án Khu đô thị, thương mại – du lịch V.
Ngày 05/12/2011, Tổ công tác của UBND xã X đề nghị các hộ gia đình
chưa nhận tiền bồi thường, chưa bàn giao đất ký biên bản bàn giao đất để thực
hiện dự án, trong đó có hộ gia đình ông T.
9
Do gia đình ông T không giao đất theo đúng thời hạn theo Thông báo số
34/TB-HĐBT nên ngày 12/12/2011, UBND xã X đã lập Biên bản vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông T do đã có hành vi vi phạm hành chính
là không bàn giao đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Ngày 13/12/2011, Chủ tịch UBND huyện V ban hành Quyết định số
5484/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông
Đàm Văn T do đã có hành vi vi phạm là không thực hiện việc giải tỏa tài sản
trên đất, bàn giao đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất và thông báo của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đã vi phạm quy định tại Điều 39, 40 của Luật
đất đai năm 2003, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 17 của Nghị định số
105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai. Theo các quyết định xử phạt vi phạm hành chính
này thì người vi phạm ngoài việc phải chịu hình thức xử phạt tiền, còn buộc
phải di chuyển cây cối, hoa màu, các loại tài sản khác trên đất để bàn giao đúng
thời hạn. Thời hạn người vi phạm thực hiện quyết định hành chính là 10 ngày,
kể từ ngày được giao quyết định, quá thời hạn mà không tự nguyện thi hành thì
bị cưỡng chế. Người vi phạm được tổ công tác của UBND xã X giao trực tiếp
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng không nhận.
Như vậy, việc người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hộ gia đình ông Đàm Văn T là
có căn cứ, đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định tại
các Điều 20, 55, 56 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Điều 39, 40 của
Luật đất đai năm 2003, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 17 của Nghị
định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Đối với yêu cầu của người khởi kiện về việc buộc Công ty Cổ phần Tập
đoàn E phải ngừng ngay việc thi công và trả lại quyền sử dụng đất cho người
khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm xác định không thuộc thẩm quyền giải quyết theo
quy định tại khoản 3 Điều 3 và khoản 1 Điều 30 của Luật tố tụng hành chính và
không xem xét, giải quyết là đúng pháp luật.
[3.3] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của hành vi hành chính: Chủ tịch
UBND huyện V ban hành quyết định cưỡng chế và tổ chức việc cưỡng chế thi
hành là đúng về thẩm quyền theo quy định tại Điều 39 của Luật Đất đai 2003;
Điều 4 và Điều 7 của Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính
phủ. Sau khi ban hành, quyết định đã được giao cho các cá nhân, hộ gia đình có
liên quan, đối với các trường hợp không ký nhận văn bản thì được niêm yết
công khai, thông báo trên các phương tiện truyền thanh của địa phương hoặc cử

10
người đại diện của chính quyền cơ sở đến gặp để vận động, thuyết phục. Do đó,
trình tự và thủ tục thực hiện hành vi cưỡng chế hành chính là đảm bảo quy định
của pháp luật theo Điều 6 của Nghị định số 37/2002/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của
Chính phủ.
Quyết định số 5484/QĐ-XPHC ngày 13/12/2011 về việc xử phạt vi phạm
hành chính và Quyết định số 619/QĐ-CCK ngày 05/4/2012 về việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế của Chủ tịch UBND huyện V là các quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, do đó việc tổ chức cưỡng chế vào ngày 24/4/2012 là trong thời
hạn quy định tại Điều 9 của Nghị định số 37/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính
phủ.
Hành vi cưỡng chế hành chính để thu hồi đất vào mục đích lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng của Chủ tịch UBND huyện V là đúng các quy định tại
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ, hành vi này được
thực hiện sau khi đã tổ chức hội nghị họp dân, đối thoại để tuyên truyền, vận
động, giải thích, thuyết phục các hộ dân ủng hộ dự án; phổ biến chính sách bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng cùng các khoản hỗ trợ của Chủ đầu tư nhằm
đảm bảo lợi ích cho người có đất bị thu hồi, nhưng cá nhân, hộ gia đình ông T
không chấp hành, không hợp tác. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông Đàm Văn T
về việc tuyên hành vi cưỡng chế của Chủ tịch UBND huyện V trái pháp luật là
không có căn cứ chấp nhận.
[4] Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ
thẩm đã thụ lý giải quyết vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của ông Đàm
Văn T là đúng thẩm quyền, đã tiến hành thu thập chứng cứ đúng quy định của
Luật tố tụng hành chính, không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đã xem
xét, đánh giá yêu cầu khởi kiện và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
người khởi kiện Đàm Văn T là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm,
người khởi kiện Đàm Văn T không có chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ
án nên không chấp nhận kháng cáo của ông Đàm Văn T và giữ nguyên bản án
sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp các quy
định của pháp luật.
[5] Về án phí phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của ông Đàm Văn T không
được chấp nhận nhưng ông T là người cao tuổi nên được miễn án phí hành
chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
11
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính; Điểm đ khoản 1
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện là ông Đàm Văn T và giữ nguyên
quyết định của Bản án số 39/2024/HC-ST ngày 08 tháng 7 năm 2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Hưng Yên.
2. Về án phí phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí hành chính phúc thẩm cho
ông Đàm Văn T.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 21/4/2025.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND cấp cao tại Hà Nội; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND-VKSND-Cục THADS
thành phố Hưng Yên;
- Các đương sự, (theo địa chỉ); (Đã ký)
- Lưu: HSVA, Phòng HCTP.
Ngô Quang Dũng
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm