Bản án số 296/2025/HC-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 296/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 296/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 296/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 296/2025/HC-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 296/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Ngày 24/04/2012, Chủ tịch UBND huyện V đã chỉ đạo, tổ chức lực lượng cưỡng chế thu hồi 02 thửa đất nông nghiệp của hộ gia đình ông H tại xứ đồng Thì Đầm xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn E (trước đây là Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển đô thị V) là chủ đầu tư dự án E. Đối với các thửa đất tại xứ đồng Dặm và xứ đồng Đìa Giữa thì gia đình ông H đã di dời tài sản do bị cưỡng chế đợt 1 từ ngày 09/01/2009 nên các thửa đất này không nằm trong phạm vi bị cưỡng chế ngày 24/04/2012. Hành vi chỉ đạo tổ chức lực lượng cưỡng chế thu hồi đất ngày 24/04/2012 tại xã X của Chủ tịch UBND huyện V đã vi phạm các quy định của pháp luật đất đai, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 296/2025/HC-PT
Ngày: 23 - 4 - 2025
V/v: “Khiếu kiện hành vi hành
chính trong quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Ngô Quang Dũng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Tiến Dũng
Ông Nguyễn Xuân Điền
- Thư ký phiên tòa: Bà Chu Thị Dịu- Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội.
-
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Ông Lê Đỗ Quyên và ông Trần Minh Châu- Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 23 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai, trực tuyến (Điểm cầu trung
tâm: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; Điểm cầu thành phần: Tòa án nhân
dân tỉnh Hưng Yên) vụ án hành chính thụ lý số 29/2025/TLPT-HC ngày 15
tháng 01 năm 2025 do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án số
06/2024/HC-ST ngày 25 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng
Yên;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2990/2025/QĐ-PT ngày 19 tháng
3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Phan Ngọc H, sinh năm 1960; Địa chỉ: T1, xã
X, huyện V, tỉnh Hưng Yên (Có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Mai N, sinh năm 1979; Địa chỉ:
Tổ 18, phường N, quận L, thành phố Hà Nội, theo Văn bản ủy quyền ngày
24/11/2023 (Vắng mặt).
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc C- Chức vụ: Phó Chủ tịch
UBND huyện V, theo Văn bản ủy quyền ngày 24/4/2024 (Xin vắng mặt).
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1- Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T- Chức vụ: Chủ tịch UBND
huyện V.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc C - Chức vụ: Phó Chủ tịch
UBND huyện V, theo Văn bản ủy quyền ngày 24/4/2024 (Xin vắng mặt).
3.2- Ủy ban nhân dân xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Mạnh T- Chức vụ: Chủ tịch
UBND xã X (Xin vắng mặt).
3.3- Công ty Cổ phần tập đoàn E. Địa chỉ: Khu đô thị Thương mại - Du
lịch V - xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Công H- Phó Tổng giám đốc
Công ty cổ phần tập đoàn E (Xin vắng mặt).
3.4- Bà Tạ Thị H1, sinh năm 1963. Địa chỉ: T1, xã X, huyện V, tỉnh Hưng
Yên (Vắng mặt).
3.5- Anh Phan Ngọc H2, sinh năm 1993. Địa chỉ: T1, xã X, huyện V, tỉnh
Hưng Yên (Vắng mặt).
3.6- Chị Phan Thị Thu H3, sinh năm 1988. Địa chỉ: 3717S4 Khu nhà ở VP-
DV 136 H, phường P, quận N, thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
3.7- Chị Phan Thị Khánh L, sinh năm 1990. Địa chỉ: CH 808 Khu 262 N,
phường T, quận T, thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
Đều ủy quyền cho ông Phan Ngọc H (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai, người khởi kiện, người đại diện theo
ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Năm 1993, hộ gia đình ông Phan Ngọc H được chia ruộng nông nghiệp
tiêu chuẩn để canh tác. Biên bản giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình năm
1998 thể hiện, hộ ông Phan Ngọc H có 05 nhân khẩu được giao ruộng gồm:
Ông Phan Ngọc H, bà Tạ Thị H1, chị Phan Thị Thu H2, chị Phan Thị Khánh L,
anh Phan Ngọc H3, tại 10 ô thửa khác nhau, trong đó có các thửa đất thuộc diện
bị thu hồi:
- Thửa đất số 157/1, TBĐ số 3, diện tích 90m
2
, tại xứ đồng Thì đầm;
- Thửa đất số 159/78, TBĐ số 3,diện tích 90m
2
tại xứ đồng Thì đầm;
- Thửa đất số 81/1, TBĐ số 2, diện tích 207m
2
tại xứ đồng Đồng dặm;
- Thửa đất số 119/10, TBĐ số 2, diện tích 495m
2
tại xứ đồng Đồng dặm;
- Thửa đất số 33/80, TBĐ số 1, diện tích 216m
2
tại xứ đồng Đìa giữa;
Ngày 24/04/2012, Chủ tịch UBND huyện V đã chỉ đạo, tổ chức lực lượng
cưỡng chế thu hồi 02 thửa đất nông nghiệp của hộ gia đình ông H tại xứ đồng
3
Thì Đầm xã X, huyện V, tỉnh Hưng Yên để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn
E (trước đây là Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển đô thị V) là chủ đầu tư dự
án E. Đối với các thửa đất tại xứ đồng Dặm và xứ đồng Đìa Giữa thì gia đình
ông H đã di dời tài sản do bị cưỡng chế đợt 1 từ ngày 09/01/2009 nên các thửa
đất này không nằm trong phạm vi bị cưỡng chế ngày 24/04/2012.
Hành vi chỉ đạo tổ chức lực lượng cưỡng chế thu hồi đất ngày 24/04/2012
tại xã X của Chủ tịch UBND huyện V đã vi phạm các quy định của pháp luật
đất đai, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bởi các lý do
sau đây:
1- Dự án E không chứng minh được lý do thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định tại Điều 39
Luật Đất đai năm 2003
2- Tại thời điểm cưỡng chế thu hồi đất giao cho Công ty thì không có văn
bản phê duyệt quy hoạch xây dựng Khu đô thị E. Kế hoạch sử dụng đất của
UBND tỉnh Hưng Yên từ năm 2001 đến năm 2010 không đề cập đến việc xây
dựng, phát triển khu đô thị E ở huyện V.
3- Chủ tịch UBND huyện V chỉ đạo tổ chức lực lượng cưỡng chế thu hồi
đất mà không bàn bạc với các hộ có đất bị thu hồi và Hội đồng nhân dân các cấp
là trái pháp luật.
4- Thu hồi đất của người dân không tuân theo quy định pháp luật đất đai,
không có thông báo thu hồi đất, không ra quyết định thu hồi đất hoặc quyết định
cưỡng chế thu hồi đất; không xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư. UBND xã không niêm yết quyết định cưỡng chế thu hồi đất tại trụ sở
UBND xã theo quy định.
Ông Phan Ngọc H đề nghị Tòa án tuyên bố hành vi tổ chức lực lượng
cưỡng chế thu hồi đất ngày 24/4/2012 của Chủ tịch UBND huyện V là trái pháp
luật; yêu cầu Công ty cổ phần tập đoàn E ngừng ngay hoạt động thi công và
hoàn trả tài sản đất đai đã được bàn giao do hành vi cưỡng chế ngày 24/4/2012
của Chủ tịch UBND huyện V, tỉnh Hưng Yên.
Người bị kiện Chủ tịch UBND huyện V trình bày:
1. Khái quát về dự án:
- Ngày 25/3/2004, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 632/QĐ-
UB về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị
thương mại - Du lịch V. Xác định Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần đầu tư và phát
triển đô thị V.
- Ngày 30/3/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 303/QĐ-
TTg về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001-
2005) tỉnh Hưng Yên, phê duyệt điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất 5
năm (2001 – 2005) tỉnh Hưng Yên; theo đó đã phê duyệt bổ sung quỹ đất để tạo
vốn xây dựng hạ tầng đô thị huyện V là 500 ha.
4
- Ngày 25/06/2004, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định 1430/QĐ-
UB về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị
Thương mại - Du lịch V, tỉnh Hưng Yên và Quyết định 1431/QĐ-UB về việc
phê duyệt dự án đầu tư xây dựng tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên -
Hà Nội; Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị V.
- Ngày 30/06/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 742/QĐ-
TTg về việc thu hồi 5.540.712m
2
đất tại các xã X, Phụng Công, Cửu Cao, Long
Hưng, Tân Tiến, thị trấn V thuộc huyện V; các xã Hoàn Long, Yên Phú, Yên
Hòa thuộc huyện Yên Mỹ và các xã Đông Tảo, Tân Dân, Dân Tiến thuộc huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; giao toàn bộ diện tích đất thu hồi cho Chủ đầu tư
để thực hiện dự án xây dựng tuyến đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên
đoạn từ huyện V đến xã Dân Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên theo
phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Ngày 21/10/2004, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định 2549/QĐ-
UB về việc thu hồi 4.990.706m
2
đất theo Quyết định số 742/QĐ- TTg ngày
30/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ tại các xã X, Cửu Cao, Phụng Công và thị
trấn V; giao toàn bộ diện tích đất cho Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô
thị V để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Thương
mại-Du lịch V, tỉnh Hưng Yên theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn
xây dựng cơ sở hạ tầng; Quyết định số 2550/QĐ-UB về việc thu hồi 550.006m
2
đất theo Quyết định số 742/QĐ - TTg ngày 30/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ
tại các xã X, Cửu Cao, Phụng Công và thị trấn V; giao 541.133m
2
đất cho Công
ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị V để xây dựng đường từ cầu Thanh Trì đi thị
xã Hưng Yên đoạn từ huyện V đến xã Dân Tiến, huyện Khoái Châu và 8.873m
2
đất để làm mương thủy lợi mới theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn
xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Ngày 8/6/2005, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 2006/QĐ-
UB về việc phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất,
giao đất cho Công ty Cổ phần đầu tư và Phát triển đô thị V, để xây dựng hạ tầng
kỹ thuật khu Đô thị - Thương mại- Du lịch V, địa phận xã X, huyện V. Trong
đó có nội dung bồi thường đất nông nghiệp cho các hộ dân là 466.605,82 m
2
x
43.425đ/m
2
.
2. Công tác giải phóng mặt bằng dự án:
- Về thực hiện công tác đền bù GPMB: Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư huyện V đã tiến hành kiểm kê, lập phương án trình UBND huyện V ban
hành quyết định phê duyệt; tổ chức niêm yết công khai phương án bồi thường
để người dân được biết và kiểm tra; tổ chức chi trả cho các hộ tự nguyện nhận
tiền và bàn giao mặt bằng; chuyển tiền vào Ngân hàng đối với các hộ chưa nhận
tiền. Kết quả thực hiện GPMB như sau:
5
+ Tổng số hộ gia đình đã nhận tiền bồi thường GPMB và bàn giao mặt
bằng tính đến trước thời điểm thực hiện việc cưỡng chế: 1560 hộ/1720 hộ.
+ Tổng số hộ gia đình còn lại không nhận tiền bồi thường GPMB và
không bàn giao mặt bằng tính đến trước thời điểm thực hiện cưỡng chế: 160 hộ.
Diện tích phải cưỡng chế khoảng 5,86 ha.
(Tính đến thời điểm hiện nay, số hộ gia đình đã nhận tiền GPMB: 1623
hộ/1723 hộ. Số hộ gia đình không nhận tiền GPMB là 97 hộ).
- Về công tác tuyên truyền, vận động: Huyện ủy, UBND huyện V và
UBND xã X đã tổ chức rất nhiều hội nghị họp dân và đối thoại để tuyên truyền,
vận động, giải thích, thuyết phục các hộ dân ủng hộ dự án; phổ biến chính sách
bồi thường, hỗ trợ GPMB cùng các khoản hỗ trợ của Chủ đầu tư nhằm đảm bảo
lợi ích cho người có đất bị thu hồi (phát cho từng hộ dân bộ tài liệu tuyên
truyền).
- Về công tác tổ chức cưỡng chế: Do hộ gia đình người khởi kiện ông
Phan Ngọc H không chấp hành quyết định thu hồi đất, không chấp hành việc di
chuyển cây cối, hoa màu và các loại tài sản trên đất để thực hiện Dự án theo
Thông báo số 34/TB - HĐBT ngày 23/11/2011 của Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư (HĐBT-HT và TĐC) huyện V nên ngày 05/12/2011, đại diện Hội
đồng, UBND xã X và cơ sở thôn đã lập biên bản bàn giao đất với hộ gia đình
ông H. Theo đó, ông H phải tiến hành bàn giao các thửa đất bị thu hồi vào dự án
Khu đô thị thuộc địa phận xã X, gồm: xứ đồng Thì Đầm 90m
2
+ 90m
2
. Tuy
nhiên, hộ gia đình không ký biên bản bàn giao đất.
Ngày 12/12/2011, UBND xã X lập biên bản vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai đối với ông H với hành vi không trả lại đất đúng thời hạn theo
quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngày 12/12/2011, Tổ công tác thôn 1 đã tiến hành giao biên bản vi phạm
hành chính nhưng ông H không ký biên bản.
Ngày 13/12/2011, Chủ tịch UBND huyện V (ủy quyền cho ông Chu
Quốc H-Phó Chủ tịch UBND huyện theo văn bản ủy quyền ngày 02/12/2011)
đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 5415/QĐ-XPHC đối với
ông H vì đã có hành vi không thực hiện việc giải tỏa tài sản trên đất, bàn giao
đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất và thông báo của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định tại Điều 39, Điều 40 Luật Đất đai 2003 sửa đổi,
bổ sung năm 2009 và Điều 17 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Hình thức
xử phạt là phạt tiền với mức phạt là 1.000.000 đồng; yêu cầu ông H phải di
chuyển cây cối, hoa màu, các loại tài sản trên đất để bàn giao lại đất đúng thời
hạn. Thời hạn nộp phạt là 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt.
Nếu quá thời hạn mà người bị xử phạt không chấp hành quyết định xử phạt thì
sẽ bị cưỡng chế thi hành và phải chịu mọi chi phí cho việc tổ chức cưỡng chế.

6
Ngày 14/12/2011, Tổ công tác thôn 1 đã đến nhà giao quyết định xử phạt
vi phạm hành chính nhưng ông H không hợp tác và không ký biên bản.
Ngày 05/4/2012, Chủ tịch UBND huyện V đã ban hành Quyết định số
546/QĐ-CCK về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp cưỡng
chế khác để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai đối với ông H; lý do cưỡng chế: Không thực hiện Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Địa điểm thực hiện cưỡng chế: Xứ
đồng T, xã X, huyện V. Biện pháp cưỡng chế: Giải tỏa mặt bằng trên thực địa
để bàn giao đất theo các Quyết định và thông báo của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Thời gian thực hiện cưỡng chế: Từ ngày 20/4/2012.
Ngày 5/4/2012, Tổ công tác thôn 1 đã đến gia đình để giao quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp khác nhưng ông H không hợp
tác.
Ngày 23/4/2012, UBND huyện V ban hành Thông báo số 43/TB-UBND
về việc tổ chức hỗ trợ thi công và cưỡng chế bàn giao đất thuộc địa phận xã X
để thực hiện dự án Khu Đô thị - Thương mại - Du lịch V. Ngày 24/4/2012,
UBND huyện V tổ chức thực hiện cưỡng chế ngoài thực địa; kết quả cưỡng chế
được lập thành biên bản và gửi cho hộ gia đình nhưng hộ gia đình không hợp
tác.
Vì vậy, người bị kiện xác định về tính hợp pháp, thẩm quyền, trình tự thủ
tục, căn cứ ban hành các quyết định hành chính có liên quan (quyết định thu hồi
đất, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế bằng các biện pháp khác để thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai) và hành vi tổ chức thi hành quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế ngày 24/4/2012 đối với người khởi kiện là phù hợp
với quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
người khởi kiện.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- UBND huyện V, tỉnh Hưng Yên thống nhất quan điểm, đề nghị của
người bị kiện Chủ tịch UBND huyện V và không bổ sung nội dung gì khác.
- UBND xã X, huyện V có quan điểm xác định việc cưỡng chế thu hồi đất
của Chủ tịch UBND huyện V đối với hộ gia đình người khởi kiện đã bảo đảm
đúng trình tự, tủ tục theo quy định pháp luật nên đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện.
- Công ty Cổ phần Tập đoàn E đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của người khởi kiện
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong gia đình ông H có quan
điểm thống nhất với quan điểm của người khởi kiện.
Tại Bản án số 06/2024/HC-ST ngày 25/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên đã quyết định:

7
Căn cứ: Khoản 3, khoản 4 Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32;
Điều 116; Điều 158; Điều 191; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 206 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015;
- Điều 22a, Điều 23 Luật đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung năm 1998 và
năm 2001; Điều 39, Điều 40 Luật đất đai năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2009;
- Các Điều 20, 25, 29, 55, 56, 66, 67 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2008;
- Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 66/2001/NĐ-CP ngày 28/9/2001 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11/2/2000 về thi
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai.
- Điều 4, Điều 5, Điều 17 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày
11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai;
- Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 8 và Điều 9 Nghị định số 37/2005/NĐ-CP
ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định về áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phan Ngọc H về việc
yêu cầu Tòa án tuyên hành vi tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế bằng các biện pháp khác ngày 24/4/2012 của Chủ tịch UBND huyện
V đối với hộ ông Phan Ngọc H trái pháp luật.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí sơ thẩm và thông báo
quyền kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/7/2024, ông Phan Ngọc H là người khởi kiện kháng cáo đề nghị
hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, buộc Công ty cổ phần tập đoàn E hoàn trả lại toàn
bộ diện tích đất cho gia đình.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện là ông Phan Ngọc H không rút
đơn khởi kiện, không rút kháng cáo. Ông H đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm
và buộc Công ty cổ phần tập đoàn E hoàn trả lại toàn bộ diện tích đất cho gia
đình ông vì các cơ quan hành chính Nhà nước tỉnh Hưng Yên làm trái pháp luật,
căn cứ Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 30/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ
không có dấu, gia đình không nhận được bất cứ quyết định gì.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan
điểm: - Về tố tụng: Hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội, của Hội đồng xét xử phúc thẩm (viết tắt: HĐXXPT), Thư ký đúng quy
định của pháp luật; người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ

8
tố tụng theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Đơn kháng cáo của người
khởi kiện làm trong hạn luật định là hợp lệ đủ điều kiện xem xét giải quyết theo
thủ tục phúc thẩm.
- Về nội dung: Đề nghị HĐXXPT áp dụng khoản 1 Điều 241 của Luật Tố
tụng hành chính năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện và
giữ nguyên quyết định của Bản án số 06/2024/HC-ST ngày 25 tháng 6 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; nghe các
bên đương sự trình bày, tranh luận; nghe đại diện VKSND cấp cao tại Hà Nội
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại phiên tòa, các quy định của pháp luật,
HĐXXPT nhận định như sau:
[1] Ngày 08/7/2024, người khởi kiện Phan Ngọc H nộp đơn kháng cáo
đối với Bản án sơ thẩm, thực hiện trong thời hạn luật định được Tòa án chấp
nhận xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm lần 2,
vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng có đơn
xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng tiến hành xét xử vụ án theo đúng Điều 225
của Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về thời hiệu, thẩm quyền giải quyết và đối tượng khởi kiện:
Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của ông Phan Ngọc H, Tòa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên đã xác định đúng đối tượng khởi kiện và thụ lý giải quyết vụ án hành
chính là đúng thẩm quyền, trong thời hiệu khởi kiện, quy định tại khoản 3,
khoản 4 Điều 3, khoản 1 Điều 30 và khoản 3, khoản 4 Điều 32, a khoản 2 Điều
116 của Luật Tố tụng hành chính. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân
dân tỉnh hưng Yên có xem xét quyết định hành chính có liên quan là đúng quy định
tại khoản 1 Điều 6; điểm đ khoản 3 Điều 191 của Luật Tố tụng hành chính.
[3] Xét kháng cáo của người khởi kiện:
[3.1] Về thẩm quyền, căn cứ, trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất cho Chủ
đầu tư:
Về thẩm quyền, căn cứ thu hồi đất, giao đất: Việc thu hồi đất và giao đất
cho Chủ đầu tư Công ty Cổ phần tập đoàn E (trước đây là Công ty Cổ phần đầu
tư và phát triển đô thị V) để thực hiện Dự án Khu đô thị Thương mại-Du lịch V
được thực hiện theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ
tầng, được quy định tại Điều 22 của Luật đất đai năm 1993, sửa đổi bổi sung
năm 1998 (Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai
1993). Theo Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 30/6/2004 của Thủ tướng Chính
phủ có nội dung: Thu hồi 5.540.712m
2
đất tại các xã X, Phụng Công, Cửu Cao,

9
Long Hưng, Tân Tiến, thị trấn V thuộc huyện V; các xã Hoàn Long, Yên Phú,
Yên Hòa thuộc huyện Yên Mỹ và các xã Đông Tảo, Tân Dân, Dân Tiến thuộc
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; giao toàn bộ diện tích đất thu hồi cho Chủ
đầu tư để thực hiện dự án xây dựng tuyến đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã
Hưng Yên đoạn từ huyện V đến xã Dân Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
Trong đó, diện tích đất giao cho Chủ đầu tư đã bỏ vốn xây dựng đường là
4.990.706m
2
/tổng số 5.540.712m
2
. Để cụ thể hóa Quyết định số 742/QĐ-TTg
ngày 30/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành
Quyết định 2549/QĐ-UB ngày 21/10/2004, về việc thu hồi 4.990.706m
2
đất tại
các xã X, Cửu Cao, Phụng Công và thị trấn V; giao toàn bộ diện tích đất này
cho Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị V để thực hiện Dự án đầu tư xây
dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Thương mại - Du lịch V, tỉnh Hưng Yên theo
phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
Đối chiếu với quy định tại Điều 22a Luật đất đai năm 1993, sửa đổi bổ
sung năm 1998 thì Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong một số
trường hợp để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án do Chính phủ quyết
định; quy định tại Điều 23 Luật đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung năm 2001
(Khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001);
hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 66/2001/NĐ-CP ngày 28/9/2001
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 04/200/NĐ-CP ngày 11/2/2000
thì Chính phủ có thẩm quyền thu hồi đất, giao đất theo phương thức sử dụng
quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Việc UBND tỉnh Hưng Yên ban
hành Quyết định số 2549 và 2550 là cụ thể hóa Quyết định số 742 của Thủ
tướng Chính phủ, trực tiếp giao đất cho tổ chức sử dụng đất là Công ty Cổ phần
đầu tư và phát triển đô thị V. Do đó, người khởi kiện cho rằng việc thu hồi đất
để thực hiện dự án là trái pháp luật là không có cơ sở chấp nhận.
[3.2] Về trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất cho Chủ đầu tư: Theo quy
định tại Điều 23 của Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11/2/2000 của Chính
phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 1993, sửa đổi bổ sung năm 1998 thì
trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất cho Chủ đầu tư để thực hiện dự án đã đảm
bảo đúng quy định pháp luật. Do đó, người khởi kiện cho rằng việc thu hồi đất
để thực hiện dự án là trái pháp luật do không ban hành quyết định thu hồi đất cá
biệt, không xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là không có căn
cứ chấp nhận.
Ngày 25/3/2004, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 632/QĐ-
UB về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị
Thương mại-Du lịch V, xác định Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần đầu tư và phát
triển đô thị V. Ngày 30/3/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
303/QĐ-TTg về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2001-2005) tỉnh Hưng Yên, phê duyệt điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng

10
đất 5 năm (2001 – 2005) tỉnh Hưng Yên, đã phê duyệt bổ sung quỹ đất để tạo
vốn xây dựng hạ tầng đô thị huyện V là 500 ha. Ngày 25/06/2004, UBND tỉnh
Hưng Yên ban hành Quyết định 1430/QĐ-UB về việc phê duyệt dự án đầu tư
xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Thương mại - Du lịch V, tỉnh Hưng Yên
và Quyết định 1431/QĐ-UB về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng tuyến
đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên-Hà Nội, Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần
đầu tư và phát triển đô thị V. Do đó, người khởi kiện cho rằng việc thu hồi đất
để thực hiện Dự án khi chưa có quyết định phê duyệt dự án, chưa có trong quy
hoạch, kế sử dụng đất của tỉnh Hưng Yên là không có căn cứ chấp nhận.
[3.3] Về thẩm quyền ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
5415/QĐ-XPHC ngày 13/12/2011; Quyết định số 546/QĐ-CCK ngày 05/4/2012
về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp khác để thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông Phan Ngọc
H do Chủ tịch UBND huyện V ban hành là đúng về thẩm quyền theo quy định
tại Điều 29 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Điều 25 của
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Điều 4 của Nghị định số 37/2005/NĐ-
CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định về áp dụng biện pháp cưỡng chế để
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
[3.4] Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 742/QĐ-TTg
ngày 30/6/2004 về việc thu hồi đất, giao đất cho Chủ đầu tư để thực hiện dự án
và UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định thu hồi đất số 2549 để cụ thể
hóa Quyết định 742, UBND xã X đã ra thông báo cho người khởi kiện di
chuyển cây cối, hoa màu và các loại tài sản trên đất để bàn giao trả lại đất theo
quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng gia đình ông
H không thực hiện việc di dời tài sản, không ký biên bản bàn giao đất. Ngày
12/12/2011, UBND xã X đã lập Biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai và giao Biên bản vi phạm cho hộ gia đình ông H cùng ngày nhưng hộ gia
đình không nhận, không ký biên bản. Ngày 13/12/2011, Chủ tịch UBND huyện
V đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông H vì đã có
hành vi không thực hiện việc giải tỏa tài sản trên đất, bàn giao đất đúng thời hạn
theo quyết định thu hồi đất và thông báo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định tại Điều 39, Điều 40 của Luật đất đai năm 2003 sửa đổi, bổ sung năm
2009 và Điều 17 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Ngày
14/12/2011, Tổ công tác thôn 1 đã đến nhà giao quyết định xử phạt vi phạm
hành chính nhưng ông H không ký biên bản. Ngày 05/4/2012, Chủ tịch UBND
huyện V đã ban hành Quyết định số 546/QĐ-CCK về việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế bằng các biện pháp cưỡng chế khác để thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông H vì không thực hiện Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Địa điểm thực hiện
cưỡng chế: Xứ đồng T, xã X, huyện V. Biện pháp cưỡng chế: Giải tỏa mặt bằng

11
trên thực địa để bàn giao đất theo các Quyết định và thông báo của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. thời gian thực hiện việc cưỡng chế: "Từ ngày 20/4/2012".
Ngày 5/4/2012, Tổ công tác Thôn 1 đã đến gia đình để giao quyết định áp dụng
biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp khác nhưng ông H không ký biên bản.
Như vậy, việc Chủ tịch UBND huyện V đã ban hành các quyết định hành chính
nêu trên đối với ông H là đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn, thời
hiệu, căn cứ theo quy định tại các điều 20, 55, 56, 66, 67 của Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2008; Điều 4, Điều 5, Điều
17 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Điều 2 của Nghị định số
37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định về áp dụng biện pháp
cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
[3.5] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hiệu, căn cứ thực hiện hành vi
tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp
khác để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 24/4/2012:
Hành vi tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng
các biện pháp khác để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày
24/4/2012 của Chủ tịch UBND huyện V bảo đảm đúng về thẩm quyền tại Điều
7 của Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định về
thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính.
Trên cơ sở quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp
khác để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 05/4/2012 của
Chủ tịch UBND huyện V đối với ông Hưng nhưng ông H không ký nhận quyết
định và không chấp hành, ngày 19/4//2012 và ngày 23/4/2012, Chủ tịch UBND
huyện V đã ban hành các thông báo về việc tổ chức hỗ trợ thi công và cưỡng
chế bàn giao đất thuộc địa phận xã X để thực hiện dự án Khu đô thị Thương mại
- Du lịch V. Ngày 24/4/2012, UBND huyện V tổ chức thực hiện cưỡng chế
ngoài thực địa. Như vậy, hành vi tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế bằng các biện pháp khác để thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính ngày 24/4/2012 của Chủ tịch UBND huyện V đối với người khởi
kiện là đúng trình tự, thủ tục, thời hiệu và có căn cứ theo quy định tại Điều 6,
Điều 8 và Điều 9 của Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính
phủ quy định về thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính.
Do đó, ông Phan Ngọc H cho rằng Chủ tịch UBND huyện V tổ chức thi hành
Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng các biện pháp khác để thi hành

12
quyết định xử phạt vào ngày 24/4/2012 nhưng không bàn bạc với các hộ dân có
đất bị thu hồi và Hội đồng nhân dân cùng cấp, không niêm yết quyết định cưỡng
chế là không có căn cứ chấp nhận.
[3.6] Đối với yêu cầu khởi kiện đề nghị Công ty Cổ phần tập đoàn E
ngừng thi công và hoàn trả lại quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án theo loại việc nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét trong vụ
án này lf có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ
thẩm đã thụ lý giải quyết vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của ông Phan
Ngọc H là đúng thẩm quyền, đã tiến hành thu thập chứng cứ đúng quy định của
Luật tố tụng hành chính, không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đã xem
xét, đánh giá toàn diện yêu cầu khởi kiện và quyết định hành chính có liên quan
và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là có căn cứ, đúng
pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, người khởi kiện không có chứng cứ mới làm thay
đổi bản chất vụ án nên không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện và giữ
nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là
phù hợp các quy định của pháp luật.
[5] Về án phí phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện (ông
Phan Ngọc H) không được chấp nhận nhưng ông Hưng là người cao tuổi nên
được miễn án phí hành chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính; Điểm đ khoản 1
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện là ông Phan Ngọc H và giữ nguyên
quyết định của Bản án số 06/2024/HC-ST ngày 25 tháng 6 năm 2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Hưng Yên.
2. Về án phí phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí hành chính phúc thẩm cho
ông Phan Ngọc H.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 23/4/2025.
13
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND cấp cao tại Hà Nội; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND-VKSND-Cục THADS
tỉnh Hưng Yên;
- Các đương sự, (theo địa chỉ); (Đã ký)
- Lưu: HSVA, Phòng HCTP.
Ngô Quang Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm