Bản án số 51/2025/DS-ST ngày 25/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Lâm Đồng, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 51/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 51/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 51/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 51/2025/DS-ST ngày 25/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Lâm Đồng, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 17 - Lâm Đồng, tỉnh Lâm Đồng |
Số hiệu: | 51/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | công nhận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐỨC LINH
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 51/2025/DS-ST
Ngày: 26-5-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NUỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Mai Thuận.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Đức Sơn và ông Mai Thương.
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên tòa: Ông Tô Văn Liên – Cán bộ Toà án
nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận tham gia
phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hồng – Kiểm sát viên.
Trong các ngày từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án
nhân dân huyện Đức Linh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
357/2022/TLST-DS ngày 15 tháng 12 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
123/2024/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 5 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số
93/2024/QĐST-DS ngày 6 tháng 6 năm 2024, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số
11/2024/QĐST-DS ngày 05 tháng 8 năm 2024, Thông báo mở lại phiên tòa số
01/TB-TA ngày 03 tháng 4 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số
67/2025/QĐST-DS ngày 22 tháng 4 năm 2025, giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng Đức T, sinh năm 1978;
Nơi cư trú: Số 175A, đường ĐT 766, thôn 1A, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh
Bình Thuận.
- Bị đơn: Ông Lê D, sinh năm 1950;
Nơi cư trú: Số 137, đường số 20, thôn 1B, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1978;
Nơi cư trú: Số 175A, đường ĐT 766, thôn 1A, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh
Bình Thuận.
2/ Ông Lê Quang C, sinh năm 1987;

2
Nơi cư trú: Số 29, đường số 8, thôn 1A, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận.
3/ Bà Lê Thị Thủy V1, sinh năm 1980;
Nơi cư trú: Số 31, đường số 8, thôn 1A, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận.
4/ Bà Lê Thị Thủy T, sinh năm 1977;
Nơi cư trú: Số 135, đường số 20, thôn 1B, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và bà Nguyễn Thị D: Ông
Đặng Quang V, sinh năm 1992; nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn Võ Xu, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận.
Tại phiên tòa, có mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thủy V1, Người đại diện theo ủy
quyền của bà Nguyễn Thị D; vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê
Quang C, Lê Thị Thủy T.
NỘI D VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/11/2022 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Vào ngày 05/4/2022, tại nhà của ông Lê D, ông T và ông Ðiểm đã ký kết với
nhau hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Cụ thể: Ông Ðiểm chuyển
nhượng cho ông T diện tích đất có chiều ngang giáp đường số 20 là 10m và chiều
dài hết thửa đất (Diện tích chuyển nhượng sau khi đo đạc thực tế là 565,4m
2
, diện
tích chuyển nhượng thuộc một phần của diện tích 1.325m
2
thuộc thửa số 253A, tờ
bản đồ số 10 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 083232 do UBND
huyện Ðức Linh cấp ngày 27/02/2015 đứng tên chủ sử dụng là hộ ông Lê D. Ông T
đã đưa cho ông Lê D số tiền chuyển nhượng là 1.050.000.000 đồng và đã nhận bàn
giao đất từ ông Điểm, ông T cũng đã xây tường rào bao quanh phần diên tích nhận
chuyển nhượng. Tuy nhiên, từ khi lập hợp đồng chuyển nhượng đến nay, ông
Điểm và một số người con của ông Điểm không chịu ra cơ quan có thẩm quyền để
hoàn tất thủ tục chuyển nhượng cho ông T.
Quá trình khởi kiện, ông T đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển
nhuợng quyền sử dụng đất ngày 05/4/2022 đã lập giữa ông T và ông Ðiểm. Trường
hợp, hợp đồng chuyển nhuợng quyền sử dụng đất vô hiệu thì buộc ông Ðiểm phải
trả lại cho ông T và vợ ông T là bà Nguyễn Thị D số tiền 1.050.000.000 đồng.
Tại đơn đề nghị đưa vụ án ra xét xử, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhuợng quyền sử dụng đất
ngày 05/4/2022 là giao dịch dân sự vô hiệu, buộc ông Ðiểm phải trả lại cho vợ
chồng nguyên đơn số tiền 1.050.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn trình bày: Ông Điểm không đồng ý yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 05/4/2022.
3
Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thị
Thủy V1 trình bày: Bà V1 là con ruột của ông Lê D. Việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng Đức T với ông Điểm thì bà V1 hoàn toàn không
hay biết gì nên ông T kiện ông Điểm thì bà V1 đề nghị Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật, bà V1 hoàn toàn không có liên quan gì đến việc tranh chấp
giữa ông T và ông Điểm. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(năm 2015) thì bà V1 đã tách khẩu từ trước đó (trước năm 2013) nên bà V1 thừa
nhận là ông Điểm được toàn quyền sử dụng đối với thửa đất trên.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Quang C và Lê Thị Thủy
T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông
báo hòa giải, giấy triệu tập và Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ do nguyên đơn cung cấp; tuy nhiên người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đến Tòa án tham gia tố tụng, không cung cấp
ý kiến phản đối của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng
không cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; mặc dù Tòa án đã trực tiếp đến nhà để ghi ý kiến của
ông C và bà T nhưng không thực hiện được.
Quá trình giải quyết vụ án, Đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Nguyễn Thị D trình bày: Thống nhất với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên toà:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, cụ thể: Yêu cầu Tòa án tuyên công nhận giấy mua bán đất ngày
05/4/2022 giữa ông Nguyễn Hoàng Đức T với ông Lê D có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp giấy mua bán đất ngày 05/4/2022 là giao dịch dân sự vô hiệu, thì ông
T yêu cầu buộc ông Ðiểm phải trả lại cho vợ chồng ông T số tiền 1.050.000.000
đồng. Không yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản đã đầu tư, xây dựng trên thửa
đất.
Bị đơn Lê D yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng và yêu cầu Tòa án công
nhận giấy mua bán đất ngày 05/4/2022 giữa ông Nguyễn Hoàng Đức T với ông Lê
D có hiệu lực pháp luật. Không đồng ý trả lại tiền. Yêu cầu ông T thanh toán số
tiền nợ còn lại là 33.000.000đồng.
Đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D
thống nhất đề nghị Tòa án công nhận hiệu lực của giấy mua bán đất ngày
05/4/2022 giữa ông Nguyễn Hoàng Đức T với ông Lê D.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thủy V1 giữa nguyên ý kiến
đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và khẳng định không có liên quan và
không có tranh chấp, khiếu nại gì liên quan đến diện tích đất mà ông Lê D đã
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hoàng Đức T.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Quang C, Lê Thị Thủy T
vắng mặt.
4
Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh tại phiên
tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng
xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục
tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn,
bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ quan Lê Thị Thủy V1; Đại diện hợp pháp của
nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D đã thực hiện
quyền, nghĩa vụ đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Quang C, Lê Thị Thủy T
chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng được quy định tại Điều 70, 73 của Bộ
luật tố tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu, xem xét các tài liệu chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các bên đương sự tại phiên tòa hôm
nay, xét thấy việc nguyên đơn khởi kiện là có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị công nhận giấy
mua bán đất lập ngày 5/4/2022 giữa ông Lê D và ông Nguyễn Hoàng Đức T có
hiệu lực pháp luật.
Buộc các đương sự chịu chi phí tố tụng theo quy định.
(có bài phát biểu kèm theo)
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng; nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú của bị đơn và Quyền sử dụng đất có liên quan đến vụ án đều tại thôn
1B, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Căn cứ khoản 3 và khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 500 của Bộ luật dân sự năm
2015, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận.
[2] Về thủ tục tố tụng: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê
Quang C, Lê Thị Thủy T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt
không rõ lý do; do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Quang C, Lê Thị Thủy T.
Về thông tin của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, trong các văn bản tố
tụng của Tòa án đều ghi tên “Lê Thị Thúy V1”, tuy nhiên theo các tài liệu do Ủy
ban nhân dân và Công an huyện Đức Linh cung cấp thì xác định là “Lê Thị Thủy
5
V1”, đây là sai xót trong quá trình soạn thảo văn bản và tại phiên tòa đương sự
cũng thừa nhận tên chính xác là “Lê Thị Thủy V1”. Do đó, Hội đồng xét xử thống
nhất đính đính chính lại thông tin này trong bản án.
[3] Về chứng cứ: Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn thừa nhận vào ngày 5/4/2022 giữa ông Lê D và ông Nguyễn
Hoàng Đức T có ký hợp đồng chuyển nhượng đối với diện tích 565,4m
2
đất thể
hiện qua các điểm tọa độ M1-M2-M5-M6-M1 trong mảnh trích đo địa chính do
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Đức Linh ký phát hành ngày 07/6/2022
thuộc một phần thửa đất số thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.325m
2
đất, được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 083232
ngày 27/02/2015 cấp cho cho hộ ông Lê D. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây
thuộc trường hợp tình tiết, sự kiện không phải chứng minh được quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Về nội D: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp có
trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nội D vụ án như sau:
[4.1] Về diện tích đất có liên quan đến tranh chấp:
Theo mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Đức
Linh ký phát hành ngày 07/6/2022 đã được các bên đương sự thừa nhận thì diện
tích đất có liên quan đến tranh chấp được ký hiệu là thửa đất số 251, tờ bản đồ số
31 (224386-4), diện tích 565,4m
2
đất thể hiện qua các điểm tọa độ M1-M2-M5-
M6-M1 thuộc một phần thửa đất số thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10, diện tích
1.325m
2
được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX
083232 ngày 27/02/2015 cấp cho cho hộ ông Lê D.
[4.2] Về hiện trạng và giá trị của thửa đất có tranh chấp:
Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lập ngày 19/9/2024 thì hiện trạng
của thửa đất số 251 nêu trên có hiện trạng xung quanh được xây dựng tường rào
(do ông T xây dựng).
Theo biên bản định gái tài sản lập ngày 19/9/2024 thì thửa đất 251 được định
giá (theo giá thị trường) là 600.000.000đồng và tài sản trên đất trị giá
24.516.000đồng.
[4.3] Về hình thức của giao dịch dân sự:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện qua giấy mua bán đất
lập vào ngày 5/4/2022 giữa ông Lê D và ông Nguyễn Hoàng Đức T đối với một
phần thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.325m
2
được UBND huyện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 083232 ngày 27/02/2015 cấp cho cho
hộ ông Lê D chưa được công chứng, chứng thực là vi phạm về mặt hình thức của
giao dịch dân sự được quy định tại Điều 119, Điều 502 của Bộ luật dân sự năm
2015; tuy nhiên, sau khi ký kết giấy mua bán đất thì ông T đã thanh toán cho ông
Điểm toàn bộ giá trị của hợp đồng chuyển nhượng và ông Điểm cũng đã bàn giao
quyền sử dụng đất thực tế đã chuyển nhượng cho ông T quản lý, sử dụng (cụ thể là
ông T đã xây dựng tường rào xung quanh diện tích đất nhận chuyển nhượng). Do
6
đó, hình thức không phải là điều kiện vô hiệu của giấy mua bán đất lập vào ngày
5/4/2022 giữa ông Lê D và ông Nguyễn Hoàng Đức T theo quy định tại Điều 129
của Bộ luật dân sự năm 2015.
[4.4] Về nội D của giao dịch dân sự:
Theo thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch thì diện tích giao dịch được
ký hiệu là thửa đất 251, tờ bản đồ số 31 (224386-4), diện tích 565,4m
2
đất thể hiện
qua các điểm tọa độ M1-M2-M5-M6-M1 trong mảnh trích đo địa chính do Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Đức Linh ký phát hành ngày 07/6/2022 thuộc
một phần thửa đất số thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.325m
2
được
UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 083232 ngày
27/02/2015 cấp cho cho hộ ông Lê D.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã có văn bản trao đổi thông tin với các cơ
quan quản lý đất đai, quản lý nhân khẩu có thẩm quyền, kết quả như sau:
Tại Công văn số 660/CAĐL-QLHC ngày 03/4/2023 của Công an huyện Đức
Linh đã trả lời như sau: “Theo hồ sơ đổi sổ lập ngày 16/9/2013 có 01 nhân khẩu
gồm: 1. Lê D, sinh năm 1950 Chủ hộ”
Tại Công văn số 1712/UBND-NC ngày 07/7/2023 của Ủy ban nhân dân
huyện Đức Linh có nội D phúc đáp như sau: “Thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10,
diện tích 1.325m
2
được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BX 083232 là cấp cho cho hộ ông Lê D. Tại thời điểm thực hiện hợp đồng tặng cho
năm 2014 thì hộ ông Lê D có 04 thành viên: Ông Lê D và 03 người con gồm: Lê
Thị Thủy T, Lê Thị Thủy V1, Lê Quang C”.
Tại Công văn số 2079/UBND-NC ngày 10/8/2023 của Ủy ban nhân dân
huyện Đức Linh có nội D phúc đáp như sau: “Năm 2014, hộ ông Lê D tách thửa
một phần diện tích của thửa đất số 235 tặng cho con ruột là bà Lê Thị Thủy T.
Diện tích đất còn lại, hộ ông Lê D được cấp đổi thành giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BX 083232”
Tại Công văn số 2081/UBND-NC ngày 12/8/2024 của Ủy ban nhân dân
huyện Đức Linh có nội D phúc đáp như sau: “Thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10,
diện tích 1.325m
2
được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BX 083232 là cấp cho cho hộ ông Lê D. Hiện nay, hồ sơ cấp GCNQSDĐ lưu trữ
không đầy đủ và hơn nữa theo các quy định tại thời điểm cấp giấy CNQSDĐ trước
đây không yêu cầu phải xác định rõ những ai là người trong gia đình. Do đó,
UBND huyện không khẳng định tại thời điểm cấp hộ ông Lê D chỉ có 01 nhân khẩu
là ông Lê D”.
Trong các tài liệu do UBND huyện Đức Linh cung cấp thì không có tài liệu
nào thể hiện giữa ông Điểm, bà V1, bà T và ông C đã có văn bản thoả thuận thửa
đất số 253A, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.325m
2
được UBND huyện cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 083232 là tài sản riêng của ông Điểm; mặc
dù, quá trình giải quyết vụ án, ông Điểm cung cấp 01 Tờ di chúc về việc phân chia
7
tài sản gia tài đề ngày 13/8/2004 có chữ ký cam đoan của các con của ông Điểm;
bà V1 khẳng định không liên quan, còn ông C và bà T không hợp tác, không cung
cấp ý kiến về việc đồng ý hay không đồng ý việc chuyển nhượng đất này. Tòa án
đã có văn bản đề nghị cơ quan quản lý đất đai xác định Lê Thị Thủy T, Lê Thị
Thủy V1, Lê Quang C và ông Lê D có chung quyền, nghĩa vụ của người sử dụng
đất đối với thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10 hay không nhưng cơ quan quản lý đất
đai không khẳng định. Do đó, chưa có căn cứ pháp lý để khẳng định thửa đất số
253A, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.325m
2
được UBND huyện cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BX 083232 thuộc quyền sử dụng chung của ông Lê D và Lê
Thị Thủy T, Lê Thị Thủy V1, Lê Quang C.
Tại thời điểm ông Điểm chuyển nhượng một phần thửa đất số 253A, tờ bản
đồ số 10 cho ông T thì bà V1, ông C, bà T không ký vào hợp đồng chuyển nhượng,
tuy nhiên sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng thì ông T đã thanh toán cho ông
Điểm số tiền chuyển nhượng là 1.050.000.000đồng và xây dựng công trình tường
rào trên diện tích đất nhận chuyển nhượng (theo biên bản xem xét, thẩm định tại
chỗ lập ngày 19/9/2023), cho đến khi các bên có phát sinh tranh chấp và Tòa án đã
nhiều lần gọi báo, tiến hành làm việc nhưng bà V1 xác định không có ý kiến gì về
việc chuyển nhượng giữa ông Điểm và ông T, còn ông C, bà T không cung cấp ý
kiến, mặc dù ông C và bà V1 sinh sống gần vị trị đất mà ông Điểm đã chuyển
nhượng cho ông T. Điều này chứng minh ông C, bà T, bà V1 biết nhưng không
phản đối (tương tự như nội D Án lệ số 04/2016/AL đã được Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố
theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao). Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông T và ông
Điểm đều có thiện chí tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng.
Tại Công văn số 217/CNVPĐKĐĐ ngày 12/3/2025 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai Đức Linh xác nhận: “Công tác đo đạc tách thửa đất 253A
thành 02 thửa 250 diện tích 565,4m
2
(60m
2
ONT+505,4m
2
CLN) và thửa 251 diện
tích 565,4m
2
(240m
2
ONT+713,2m
2
CLN) theo mảnh trích đo thửa đất ký duyệt
ngày 07/6/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Đức Linh.
Căn cứ điều kiện tách thửa và diện tích tối thiểu tách thửa theo quy định tại
Điều 4, Điều 9 của Quyết định số 21/2021/QĐ-UBND ngày 30/8/2021 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Thuận, thì thửa đất nêu trên tách thửa đúng quy định hiện
hành”.
Theo quy định tại Quyết định số 35/2024/QĐ-UBND ngày 14/10/2024 của
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận quy định điều kiện, diện tích tối thiểu của việc
tách thửa đất, hợp thửa đất đối với từng loại đất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, thì
thửa đất 251, tờ bản đồ số 31 (224386-4), diện tích 565,4m
2
đất thể hiện qua các
điểm tọa độ M1-M2-M5-M6-M1 trong mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn
8
phòng đăng ký đất đai Đức Linh ký phát hành ngày 07/6/2022 đủ điều kiện tách
thửa được quy định tại Điều 7 của Quyết định số 35/2024/QĐ-UBND.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bà D thống nhất đề nghị công
công nhận giấy mua bán đất lập ngày 5/4/2022 giữa ông T và ông Điểm. Sau khi
giao dịch được công nhận thì bà D và ông T sẽ làm thủ tục xác lập quyền sở hữu
chung theo quy định.
Do đó, căn cứ Điều 129, Điều 500 của Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 188
của Luật đất đai 2013, Điều 45 của Luật đất đai 2024, Hội đồng xét xử công nhận
hiệu lực của giấy mua bán đất lập ngày 5/4/2022 giữa ông T và ông Điểm là phù
hợp với nguyện vọng của các bên tham gia giao dịch cũng như tránh phát sinh bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa các bên.
Trường hợp sau khi hợp đồng đã được công nhận, nếu ông C, bà T, bà V1
có đơn tranh chấp về quyền sử dụng chung đối với thửa đất này thì các ông bà có
quyền yêu cầu ông Điểm trả lại phần giá trị tài sản tương đương với tỷ lệ quyền sử
dụng đất mà các ông bà được phân chia theo quyết định của cơ quan có thẩm
quyền.
[4.5] Về giá trị của hợp đồng:
Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận giá trị của hợp đồng là
1.050.000.000đồng. Vào ngày 28/02/2022, ông T đặt cọc cho ông Điểm
500.000.000đồng, đến ngày 05/4/2022 ông T thanh toán tiếp cho ông Điểm
550.000.000đồng. Tuy nhiên, theo ông Điểm khai tại phiên tòa thì trong quá trình
đặt cọc do ông T vi phạm thời hạn đặt cọc và dẫn đến ông Điểm cũng vi phạm thỏa
thuận đặt cọc với người khác nên ông T cam đoan thanh toán thêm cho ông Điểm
số tiền 33.000.000đồng như đã thỏa thuận trong phần bổ sung của giấy mua bán
đất lập ngày 05/4/2022; còn ông T thì cho rằng số tiền này là ông T cam đoan hỗ
trợ thêm cho ông Điểm chứ không liên quan đến số tiền trong giao dịch mau bán
đất.
Nhận thấy, quá trình giải quyết vụ án, ông Điểm không có yêu cầu phản tố
liên quan đến việc yêu cầu ông T thanh toán số tiền 33.000.000đồng nêu trên, nên
nếu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết trong vụ án án này sẽ vượt quá phạm vi
khởi kiện ban đầu; do đó, ông Điểm có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
trong vụ án khác đối với số tiền 33.000.000đồng này.
[4.6] Về thủ tục hành chính liên quan đến đất đai.
Giấy mua bán đất lập ngày 5/4/2022 giữa ông T và ông Điểm đối với thửa
251, tờ bản đồ số 31 (224386-4), diện tích 565,4m
2
đất thể hiện qua các điểm tọa
độ M1-M2-M5-M6-M1 trong mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai Đức Linh ký phát hành ngày 07/6/2022 thuộc một phần thửa đất số
thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.325m
2
được UBND huyện cấp giấy
9
chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 083232 ngày 27/02/2015 được công nhận có
hiệu lực. Do đó, trong trường hợp này các bên không phải thực hiện thủ tục công
chứng giao dịch theo quy định.
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Đức Linh, cơ quan quản lý đất đai để thực hiện thủ tục đăng ký biến động
đất đai (kể cả thủ tục tách thửa) đối với diện tích đất tranh chấp đã được giải quyết
trong Bản án này theo đúng quy định của Luật đất đai. Đồng thời, trong quá trình
thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai, các bên có liên quan phải có trách
nhiệm cung cấp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cơ quan quản lý
đất đai thực hiện thủ tục cấp lại giấy chứng nhận theo bản án/Quyết định đã tuyên.
Trường hợp một trong các bên đương sự không phối hợp thực hiện thủ tục
đăng ký biến động (kể cả thủ tục tách thửa), thì bên đương sự còn lại có quyền liên
hệ với cơ quan quản lý đất đai để thực hiện thủ tục đăng ký biến động (kể cả thủ
tục tách thửa), đồng thời ký các mẫu đơn theo quy định của pháp luật đất đai khi
thực hiện thủ tục đăng ký biến động (kể cả thủ tục tách thửa), cấp giấy chứng nhận
đối với diện tích đất tranh chấp theo quy định.
Về nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước: Tại phiên tòa, người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn đồng ý chịu toàn bộ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước
khi thực hiện thủ tục chỉnh lý, biến động đăng ký đất đai đối với thửa đất nhận
chuyển nhượng. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về chi phí tố tụng:
[5.1] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Tại phiên tòa,
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng ý chịu toàn bộ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5.2] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn
không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; buộc bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân
sự sơ thẩm theo luật định.
[6] Từ các nhận định nêu trên, đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân
huyện Đức Linh tại phiên tòa là không phù hợp, do đó Hội đồng xét xử không chấp
nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a và điểm c khoản
1 Điều 39; điểm g khoản 1 Điều 40; Điều 92; Điều 93; Điều 95; khoản 1 Điều 147,
Điều 165, 166, 227, 228, 235, 262, 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng: Điều 116, 117, 129, 500, 501, 502, 503 của Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 45 của Luật đất đai năm 2024; khoản 2 Điều 26 và điểm a khoản 3
Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
10
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án. Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể
hiện qua giấy mua bán đất lập ngày 05/4/2022 giữa ông Lê D với ông Nguyễn
Hoàng Đức T đối với thửa đất số 251, tờ bản đồ số 31 (224386-4), diện tích
565,4m
2
đất thể hiện qua các điểm tọa độ M1-M2-M5-M6-M1 trong mảnh trích đo
địa chính do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Đức Linh ký phát hành ngày
07/6/2022 thuộc một phần thửa đất số thửa đất số 253A, tờ bản đồ số 10, diện tích
1.325m
2
được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX
083232 ngày 27/02/2015. (trong trường hợp các bên không bắt buộc phải thực hiện
thủ tục công chứng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất)
Ông Nguyễn Hoàng Đức T được quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 251, tờ
bản đồ số 31 (224386-4), diện tích 565,4m
2
đất thể hiện qua các điểm tọa độ M1-
M2-M5-M6-M1 trong mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai Đức Linh ký phát hành ngày 07/6/2022 và toàn bộ tài sản gắn liền với thửa
đất (theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lập ngày 19/9/2024) tọa lạc tại thôn
1B, xã TT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Đức Linh, cơ quan quản lý đất đai để thực hiện thủ tục đăng ký biến động
đất đai (kể cả thủ tục tách thửa) đối với diện tích đất tranh chấp đã được giải quyết
trong Bản án này theo đúng quy định của Luật đất đai. Đồng thời, trong quá trình
thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai, các bên có liên quan phải có trách
nhiệm cung cấp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cơ quan quản lý
đất đai thực hiện thủ tục cấp lại giấy chứng nhận theo bản án/Quyết định đã tuyên.
Về trách nhiệm nộp thuế, phí: Ông Nguyễn Hoàng Đức T đồng ý nộp toàn
bộ số tiền thuế, phí phát sinh theo quy định. Giá chuyển nhượng để làm căn cứ xác
định nghĩa vụ thuế, phí là 1.050.000.000đồng.
2. Về chi phí tố tụng:
2.1/ Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Nguyên đơn
đồng ý nộp số tiền 3.000.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá

11
tài sản. Nguyên đơn (thông qua người đại diện theo ủy quyền) đã nộp đủ số tiền
trên theo danh sách chi tiền lập ngày 19/9/2024.
2.2/ Về án phí:
- Buộc ông Lê D phải nộp số tiền 300.000đồng án phí DSST.
Án phí nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
- Trả lại cho ông Nguyễn Hoàng Đức T số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí
đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Linh theo biên lai thu tiền số
0012667 ngày 15/12/2022.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền
kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt
tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, để Tòa án cấp trên xét xử
theo trình tự phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Đức Linh;
- Chi cục THADS huyện Đức Linh;
- Lưu hồ sơ vụ án, tập án văn;
TM. HỘI ĐNG XT X SƠ THM
Thm phn – Ch ta phiên ta
Mai Thuận
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm