Bản án số 50/2024/HNGĐ-ST ngày 12/11/2024 của TAND huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 50/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 50/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 50/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 50/2024/HNGĐ-ST ngày 12/11/2024 của TAND huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tứ Kỳ (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 50/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/11/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bùi Thị Ng và Hà Dương Th |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƢƠNG
--------------------------
Bản án số: 50/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 12/11/2024
Về việc:"Ly hôn, tranh chấp về nuôi con".
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------------
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƢƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Đinh Thị Thuý Hạnh.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Hồng và bà Nguyễn Thị Hải
Yến.
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Thị Hiên - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tham
gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Khánh - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 11 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:
285/2024/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2024 về việc:"Ly hôn, tranh chấp
về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2024/QĐXXST-HNGĐ
ngày 28 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Ng, sinh năm: 1983.
Địa chỉ: thôn TrL, xã HK, huyện TK, tỉnh Hải Dương.
- Bị đơn: Anh Hà Dương Th, sinh năm: 1982.
Địa chỉ: thôn HH, xã HK, huyện TK, tỉnh Hải Dương.
(Chị Ng và anh Th đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị Ng trình bày: Chị và anh Hà Dương Th sau
thời gian tìm hiểu 06 tháng thì tự nguyện kết hôn và được đăng ký kết hôn tại
Ủy ban nhân dân xã HK, huyện TK, tỉnh Hải Dương vào ngày 23/03/2011. Sau
khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu
thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau về tính cách, quan
điểm sống bất đồng, không chia sẻ được với nhau, anh Th không có trách nhiệm
với gia đình, không chịu khó làm ăn, kinh tế vợ chồng không tập trung, anh Th
thường xuyên rượu chè nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Do mâu thuẫn
2
nên vợ chồng không ai quan tâm đến ai. Anh chị đã sống ly thân suốt từ năm
2014 cho đến nay. Chị đã về ở nhờ nhà bố mẹ đẻ tại thôn TrL, xã HK, huyện
TK, tỉnh Hải Dương từ đó cho đến nay. Thời gian chị ở nhờ nhà bố mẹ đẻ, anh
Th có đến tìm chị một lần nhưng tình cảm vợ chồng vẫn lạnh nhạt nên chị không
về ở cùng nhà với anh Th nữa. Nay, tình cảm vợ chồng giữa anh chị không còn
nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Th để anh chị
sớm ổn định cuộc sống.
Tại Biên bản lấy lời khai, anh Hà Dương Th trình bày: Chị Bùi Thị Ng và
anh kết hôn với nhau vào ngày 23 tháng 03 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã
HK, huyện TK, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh
phúc đến năm 2014 và mâu thuẫn như chị Ng trình bày. Chị Ng không thông
cảm được với anh, chê anh không làm ra tiền bạc, kinh tế nên vợ chồng gằn hắt,
coi thường nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng nặng nề, căng thẳng. Anh chị đã
sống ly thân từ năm 2014 đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Nay, chị Ng
xin ly hôn với anh, anh nhất trí, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn để
anh chị sớm ổn định cuộc sống.
Tại biên bản lấy lời khai, bà Nguyễn Thị M là mẹ đẻ của chị Ng trình bày:
Chị Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th tự nguyện kết hôn và được đăng ký kết
hôn tại Ủy ban nhân dân xã HK, huyện TK, tỉnh Hải Dương vào tháng 03 năm
2011. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2014 thì phát
sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai vợ chồng không tập trung kinh tế, giữa hai
người không có sự thống nhất về mọi mặt và không tìm được tiếng nói chung
nên tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách. Hai người thiếu sự chia sẻ, quan tâm
đến nhau. Vợ chồng thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn gia đình luôn căng
thẳng. Do cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc nên chị Ng đã về ở nhờ nhà
ông bà, vợ chồng đã ly thân từ năm 2014 đến nay, không còn quan tâm đến
nhau. Quan điểm của gia đình bà mong muốn anh chị về đoàn tụ cùng nhau nuôi
dạy con chung nhưng anh chị đã sống ly thân được 10 năm nay, chị Ng xin ly
hôn anh Th, quan điểm của gia đình bà mong muốn anh chị hạnh phúc nhưng vợ
chồng đã sống ly thân từ lâu, không còn quan tâm đến nhau nên bà đề nghị Tòa
án giải quyết theo nguyện vọng của chị Ng cho chị được ly hôn với anh Th. Vợ
chồng có một con chung, hiện con chung đang ở với anh Th. Từ khi vợ chồng ly
thân cho đến nay, con chung vẫn ở với anh Th nên để con chung ổn định nơi ăn
chốn ở và thuận lợi cho con chung về mọi mặt nên bà đề nghị Tòa án giao con
chung cho anh Th nuôi dưỡng. Về tài sản chung, tài sản riêng, về các khoản nợ
chung, cho vay chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với vợ chồng
bà, anh chị không có.
Tại biên bản lấy lời khai, bà Dương Thị N là mẹ đẻ của anh Hà Dương
Th trình bày: Chị Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th kết hôn với nhau vào tháng 3
năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã HK, huyện Tứ Kỳ. Cuộc sống vợ chồng hạnh
phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ
chồng không tập trung kinh tế, thiếu sự quan tâm, chia sẻ đối với nhau, không
tìm được tiếng nói chung, không thống nhất về mọi mặt. Vợ chồng sống ly thân
3
suốt từ năm 2014 đến nay, chị Ng đã về nhà mẹ đẻ ở. Nay, chị Ng xin ly hôn
anh Th, đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị Ng để hai bên ổn
định cuộc sống. Về con chung, vợ chồng có một con chung là Hà Duy Ch, hiện
do anh Th nuôi dưỡng và đề nghị Tòa án giao con chung cho anh Th nuôi
dưỡng, chị Ng có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật
để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho con chung. Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ
chung, cho vay chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với vợ chồng
bà, anh chị đều không có.
Về quan hệ con chung: Chị Ng và anh Th trình bày, vợ chồng anh chị có
một con chung là Hà Duy Ch, sinh ngày: 17/01/2012. Từ khi vợ chồng ly thân
cho đến nay, con chung vẫn ở với anh Th. Để con chung ổn định nơi ăn chốn ở
và thuận lợi cho con chung về mọi mặt, anh chị đều đề nghị Tòa án vẫn giao con
chung cho anh Th nuôi dưỡng. Con chung của anh chị bị khuyết tật đặc biệt nặng
là trẻ em (dạng khuyết tật: vận động; trí tuệ). Hàng tháng cháu Hà Duy Ch được
hưởng trợ cấp xã hội với mức trợ cấp là 2,5 = 950.000 đồng/tháng, kể từ ngày
01/7/2021 theo Quyết định số: 8544/QĐ-UBND ngày 12/8/2021 của Ủy ban nhân
dân huyện TK. Do bị khuyết tật bẩm sinh nên cháu Hà Duy Ch không thể đi học,
không vận động, không nhận thức được. Chị Ng và anh Th đều đề nghị Tòa án giao
con chung là Hà Duy Ch cho anh Hà Dương Th nuôi dưỡng. Anh Th yêu cầu và
chị Ng đồng ý cấp dưỡng nuôi con cho anh Hà Dương Th số tiền là 1.500.000
đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 10 năm 2024 đến suốt đời để đảm bảo
cho cháu Hà Duy Ch có cuộc sống ổn định và tốt đẹp nhất.
Về tài sản chung, tài sản riêng, về các khoản nợ chung, cho vay chung, nợ
riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với gia đình hai bên: chị Bùi Thị Ng và
anh Hà Dương Th trình bày anh chị không có nên không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Theo Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã HK thể hiện: Chị Bùi
Thị Ng và anh Hà Dương Th được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, được
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HK, huyện TK vào ngày 23/03/2011.
Sau khi kết hôn, vợ chồng hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn,
nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng
nói chung, kinh tế không tập trung, không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau.
Chị Ng đã về nhà mẹ đẻ từ 10 năm nay, anh chị đã sống ly thân, không còn quan
tâm đến nhau. Nay, chị Ng xin ly hôn anh Th, đề nghị Tòa án giải quyết theo
nguyện vọng của anh chị. Anh chị có một con chung, hiện đang ở với anh Th, đề
nghị Tòa án giao con chung cho anh Th nuôi dưỡng. Về quan hệ tài sản chung,
tài sản riêng, nợ chung, cho vay chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng
góp với gia đình hai bên không có.
Chị Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th đều có đơn xin vắng mặt tại phiên
tòa và vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.
4
Kiểm sát viên tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp
luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết
vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82;
Điều 83; Điều 116; Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 227;
khoản 1 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố
tụng dân sự; khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số: 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số
quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình; Điều 3
Nghị định số: 74/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 của Chính phủ quy định mức
lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động; Luật phí
và lệ phí số: 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án: Về quan hệ vợ chồng: xử cho chị Bùi Thị Ng được ly hôn anh Hà Dương Th.
Về con chung: giao con chung Hà Duy Ch, sinh ngày: 17/01/2012 cho anh Hà
Dương Th tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, thời gian kể từ
tháng 10/2024 đến suốt đời. Buộc chị Bùi Thị Ng phải cấp dưỡng nuôi con chung
cho anh Hà Dương Th số tiền là 2.205.000 đồng/tháng (Hai triệu hai trăm linh năm
ngàn đồng/tháng), thời gian kể từ tháng 10/2024 đến suốt đời. Chị Bùi Thị Ng có
quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Đến thời hạn
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, anh Hà Dương Th có đơn yêu cầu thi hành án mà chị
Bùi Thị Ng thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng (trả tiền) thì chị Ng phải trả
lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do
chậm trả tiền thì thực hiện theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân
sự.Về án phí: Buộc chị Bùi Thị Ng phải chịu án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia
đình theo quy định của pháp luật là 300.000 đồng được đối trừ vào số tiền tạm
ứng án phí chị Ng đã nộp là 300.000 đồng. Chị Ng còn phải chịu tiền án phí cấp
dưỡng nuôi con với số tiền là 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
công khai tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến
của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chị
Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử xét xử vắng mặt chị Ng và anh Th theo quy định tại Điều 227;
khoản 1 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

5
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ vợ chồng: Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th được tự do
tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã HK, huyện TK, tỉnh Hải
Dương vào ngày 23/03/2011 là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống chung của anh
chị hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn
là do tính tình không hợp, kinh tế vợ chồng không tập trung, giữa hai người
không có sự chia sẻ, thông cảm với nhau. Cuộc sống chung của anh chị không
có hạnh phúc. Hai người đã sống ly thân được 10 năm nay. Gia đình hai bên đã
hòa giải cho anh chị nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Hiện nay,
mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm đến nhau. Chị Ng xin ly hôn và anh
Th nhất trí ly hôn nhưng xin vắng mặt tại Tòa án. Hội đồng xét xử xét thấy: mâu
thuẫn của chị Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th đã đến mức trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị Bùi Thị
Ng xin ly hôn anh Hà Dương Th phù hợp với quy định tại Điều 51; Điều 56
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.
[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th đều
trình bày anh chị chỉ có một con chung là Hà Duy Ch, sinh ngày: 17/01/2012.
Từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay, con chung vẫn ở với anh Th, anh chị đều
đề nghị Tòa án vẫn giao con chung cho anh Th nuôi dưỡng. Con chung của anh
chị bị khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em (dạng khuyết tật: vận động; trí tuệ). Hàng
tháng cháu Hà Duy Ch được hưởng trợ cấp xã hội với mức trợ cấp là 2,5 = 950.000
đồng/tháng, kể từ ngày 01/7/2021 theo Quyết định của Ủy ban nhân dân huyện TK.
Do bị khuyết tật bẩm sinh nên cháu Hà Duy Ch không thể đi học, không vận động,
không nhận thức được. Anh chị đều đề nghị Tòa án giao con chung cho anh Hà
Dương Th nuôi dưỡng. Anh Th yêu cầu và chị Ng đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con
cho anh Hà Dương Th số tiền là 1.500.000 đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ
tháng 10 năm 2024 đến suốt đời. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho con chung
của anh chị, căn cứ vào khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số: 01/2024/NQ-HĐTP ngày
16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình
quy định mức cấp dưỡng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại
nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con. Căn cứ
vào Điều 3 Nghị định số: 74/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 của Chính phủ quy
định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
thì mức lương tối thiểu tháng tại vùng II huyện TK là 4.410.000 đồng: 2 =
2.205.000 đồng/tháng. Con chung của anh chị là cháu Hà Duy Ch bị khuyết tật
đặc biệt nặng là trẻ em (dạng khuyết tật: vận động; trí tuệ) nên buộc chị Ng phải
cấp dưỡng nuôi con cho anh Th suốt đời. Do đó, Hội đồng xét xử thấy, sự thỏa
thuận của chị Ng và anh Th về việc giao con chung cho anh Th nuôi dưỡng là phù
hợp pháp luật, đảm bảo cho cháu Hà Duy Ch được ổn định nơi ăn chốn ở và
thuận lợi về mọi mặt nên chấp nhận sự thỏa thuận của chị Ng và anh Th về việc
giao con chung cho anh Th nuôi dưỡng. Tuy nhiên, việc anh Th đề nghị và chị
Ng đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con cho anh Th là 1.500.000 đồng/tháng thì
chưa đảm bảo quyền lợi của con chung của anh chị nên Hội đồng xét xử buộc

6
chị Ng phải cấp dưỡng nuôi con cho anh Th với mức cấp dưỡng là 2.205.000
đồng/tháng như đã phân tích ở trên mới phù hợp pháp luật. Chị Ng có quyền,
nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp với quy
định tại Điều 81; Điều 82 và Điều 83; Điều 116; Điều 117 của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014.
[2.3] Về tài sản chung, tài sản riêng, về các khoản nợ chung, cho vay
chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với gia đình hai bên: anh chị
không có, chị Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th đều không yêu cầu Tòa án giải
quyết nên không đặt ra giải quyết.
[2.4] Về án phí: Chị Bùi Thị Ng xin ly hôn anh Hà Dương Th nên phải
chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật được đối trừ với số tiền
tạm ứng án phí chị Ng đã nộp. Chị Ng còn phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi
con chung theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 116; Điều
117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 227; khoản 1 Điều 228; điểm a,
b khoản 1 Điều 238; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân
sự; khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số: 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình; Điều 3 Nghị
định số: 74/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 của Chính phủ quy định mức lương tối
thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động; Luật phí và lệ phí
số: 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về quan hệ vợ chồng: xử cho chị Bùi Thị Ng được ly hôn anh Hà
Dương Th.
2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Hà Duy Ch, sinh ngày:
17/01/2012 cho anh Hà Dương Th tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục, thời gian kể từ tháng 10/2024 đến suốt đời. Buộc chị Bùi Thị Ng phải
cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Hà Dương Th số tiền là 2.205.000 đồng/tháng
(Hai triệu hai trăm linh năm ngàn đồng/tháng), thời gian kể từ tháng 10/2024 đến
suốt đời.
Chị Bùi Thị Ng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai
được cản trở.
Đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, anh Hà Dương Th có đơn yêu
cầu thi hành án mà chị Bùi Thị Ng thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng (trả
tiền) thì chị Ng phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm
7
trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền thì thực hiện theo quy định tại Điều 357 và
Điều 468 của Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: Chị Bùi Thị Ng phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án
phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình nhưng được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí
mà chị Bùi Thị Ng đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005681 ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện TK. Chị Bùi Thị Ng đã thực hiện xong nghĩa vụ
án phí sơ thẩm ly hôn. Chị Bùi Thị Ng phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng
nuôi con.
Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt chị Bùi Thị Ng và anh Hà Dương Th.
Chị Ng và anh Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ
ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND huyện TK;
- Chi cục THADS huyện TK;
- Các đương sự;
- UBND xã HK, huyện TK;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Thị Thúy Hạnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm