Bản án số 494/2024/DS-PT ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 494/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 494/2024/DS-PT ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 494/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chung Văn P - Nguyễn Văn Tuấn C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 494/2024/DS-PT
Ngày: 13-9-2024
V/v tranh chấp quyền về lối đi qua
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thu Trang;
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Rẻn;
Ông Phạm Văn Tỉnh.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Diễm My - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 151/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 6 năm
2024 về “Tranh chấp quyền về lối đi qua”.
Do Bản án dân sự thẩm số 38/2024/DS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2310/2024/QĐXXPT-
DS ngày 27 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
Ông Chung Văn P, sinh năm 1955;
Địa chỉ: Số C, ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo văn bản ủy quyền ngày
03/5/2024):
Ông Cao Văn P1, sinh năm 1964; địa chỉ: Số H, ấp X, xã T, huyện T, tỉnh
Bến Tre. (có mặt)
2. Bị đơn:
2.1. Anh Phan Văn Tuấn C, sinh năm 1984;
2
2.2. Chị Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1992;
Cùng địa chỉ: Số B ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền của các bị đơn ông Phan Văn Tuấn C1, chị
Nguyễn Ngọc T (theo văn bản ủy quyền ngày 23/7/2024):
Thị Yến N, sinh năm 1990; địa chỉ: Số B, ấp G, T, huyện G, tỉnh
Bến Tre. (có mặt)
2.3. Anh Phan Văn S, sinh năm 1976; (vắng mặt)
2.4. Chị Nguyễn Thị P2, sinh năm 1977; (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Số A ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người kháng cáo: Ông Phan Văn Tuấn C1, bà Nguyễn Ngọc T là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm;
Theo đơn khi kiện trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông P chủ sử dụng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, xã H,
huyện T, tỉnh Bến Tre. Từ thửa đất của ông P, để ra được đến đường công cộng
phải đi qua phần đất của anh Phan Văn T1 C1 và chị Nguyễn Ngọc T thuộc thửa
đất số 56, tờ bản đồ số 10, rồi đi đến lối đi thuộc thửa đất số 59, tờ bản đồ số 10,
do hộ anh Phan Văn S đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất tọa lạc tại
ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre. Lối đi này ông P sử dụng trên 40 năm từ chủ
đất ông Phan Văn T2 (cha của anh C1) đến khi anh C1 thừa hưởng thửa đất
nêu trên.
Đến năm 2019 anh C1 rào đường không cho gia đình ông P tiếp tục sử dụng
lối đi trên nên gây khó khăn cho việc đi lại, sinh hoạt hàng ngày của ông P gia
đình ông P.
Nay ông yêu cầu anh C1 và chị T mở lối đi có diện tích 29,9m
2
ký hiệu thửa
56b thuộc một phần thửa đất số 56, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, H, huyện
T, tỉnh Bến Tre; yêu cầu anh S chị P2 mở lối đi diện tích 168,3m
2
hiệu
thửa 59b thuộc một phần thửa đất s59, tbản đồ s10, tọa lạc tại ấp Q, H,
huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông đồng ý đền bù thiệt hại do mở lối đi theo giá trị quyền
sử dụng đất mà Hội đồng định giá đã xác định.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo uỷ quyền của anh
Phan Văn T1 C1 và chị Nguyễn Ngọc T trình bày:
3
Phần đất lối đi này trước đây cha anh C1 cho ông P đi nhưng gần đây
ông P xịt thuốc cỏ trên phần đất này không hỏi ý kiến gia đình anh C1 và ông
P không nhận lỗi nên anh C1 văng dây chừa 01m cho ông P đi ra vào. Thời
gian tết năm 2022, gia đình ông P gbỏ còn chửi bới gia đình anh C1 nên nay
anh C1 chỉ đồng ý cho gia đình ông P đi trên phần đất gia đình anh C1 với chiều
rộng 01m tại vị trí mương ranh giữa đất anh C1 với đất anh Phan Văn S, không
đồng ý theo yêu cầu của ông P mở lối đi tại vị trí chiều rộng 1,5m. Anh C1
không yêu cầu ông P phải bồi thường thiệt hại hay hoàn trả giá trị quyền sdụng
đất trên phần đất anh C1 đồng ý cho ông P mở lối đi.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Phan Văn S trình bày:
Anh đứng tên quyền sử dụng đất thửa số 59, tờ bản đồ số 10, diện tích
5.424,7m
2
. Tuy nhiên, tại phần đất ông Chung Văn P yêu cầu mở lối đi hiệu
thửa 59b (163,8m
2
) thuộc một phần thửa đất số 59, tờ bản đồ số 10 từ trước đến
nay anh để cho anh Phan Văn T1 C1 quản lý, sử dụng và thu hoa lợi trên đất. Nay
gia đình ông P yêu cầu mở lối đi trên phần đất này anh chỉ đồng ý mmột lối đi
có chiều rộng 0,5m tại vị trí phần đất giáp ranh giữa anh với anh C1, không đồng ý
theo yêu cầu của ông P mở lối đi tại vị trí cũ với chiều rộng 1,5m. Do từ trước đến
nay phần đất bờ dừa anh C1 quản lý, sử dụng trên đất lối đi ông P yêu cầu
mở nên anh đồng ý để anh C1 toàn quyền quyết định việc giải quyết vị trí lối đi
này với ông P.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đã đưa vụ án
ra xét xử.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 38/2024/DS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đã tuyên:
Áp dụng Điều 254 của Bộ luật Dân sự; Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35;
Điều 147, 164, 165 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị Quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Chung Văn P đối với
bị đơn anh Phan Văn S, chị Nguyễn Thị P2 anh Phan Văn Tuấn C1, chị
Nguyễn Ngọc T.
1.1. Buộc anh Phan Văn S, chị Nguyễn Thị P2 dành cho ông Chung Văn P
lối đi có diện tích 168,3m
2
ký hiệu thửa 59b thuộc một phần thửa đất số 59, tờ bản
đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre.
4
1.2. Buộc anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc T dành cho ông Chung
Văn P lối đi diện tích 29,9m
2
hiệu thửa 56b thuộc một phần thửa đất số 56,
tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre.
1.3. Buộc ông Chung Văn P nghĩa vụ đền cho anh Phan Văn S, chị
Nguyễn Thị P2 giá trị quyền sử dụng đất với số tiền 33.660.000 (ba mươi ba
triệu sáu trăm sáu mươi nghìn) đồng.
1.4. Buộc ông Chung Văn P có nghĩa vụ đền bù cho anh Phan Văn Tuấn C1,
chị Nguyễn Ngọc T giá trị quyền sử dụng đất với số tiền là 4.795.000 (bốn triệu
bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về lãi chậm trả, án phí, chi phí tố tụng quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 11/4/2024, các bị đơn anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc T
kháng cáo toàn bbản án thẩm. Theo nội dung kháng cáo, anh C1, chị T yêu
cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng dời lối đi về dọc theo ranh đất
bề rộng lối đi 01m.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo ủy quyền của anh C1, chị T
thay đổi nội dung đơn kháng cáo. Anh C1, chị T đồng ý dời lối đi đến gần
mương ranh, lối đi có chiều rộng 1,5m.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông P không đồng ý với
kháng cáo của các bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của pháp luật tố tụng. Những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của các bị đơn anh C1,
chị T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2024/DS-ST ngày 27 tháng 3 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được thẩm tra
công khai tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm
sát viên; xét kháng cáo của anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc T; Hội đồng
xét xử nhận định:
5
[1] Về tố tụng:
Bị đơn anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc T, kháng cáo và thực hiện
các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết
theo trình tự phúc thẩm.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm xác định quyền sử dụng
đất thửa đất số 56, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre
đã được anh C1 thế chấp vay vốn tại Ngân hàng N1 chi nhánh T3. Tuy nhiên, theo
văn bản số 460/NHNo.TP-KH ngày 28 tháng 8 năm 2024 của Ngân hàng N1 chi
nhánh T3 xác định không yêu cầu trong vụ án này nên Hội đồng xét xử tiếp
tục giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn yêu cầu anh C1 và chị T mở lối đi diện tích 29,9m
2
hiệu
thửa 56b thuộc một phần thửa đất số 56, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, H,
huyện T, tỉnh Bến Tre; yêu cầu anh S chị P2 mở lối đi diện tích 168,3m
2
hiệu thửa 59b thuộc một phần thửa đất số 59, tbản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q,
H, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông P đồng ý đền thiệt hại do mở lối đi theo giá trị
quyền sử dụng đất mà Hội đồng định giá đã xác định.
Bị đơn anh C1, chị T chđồng ý cho gia đình ông P đi trên phần đất thuộc
một phần thửa đất số 56 của anh C1 với chiều rộng 01m tại vị trí gần mương
ranh giữa đất anh C1 với đất anh Phan Văn S, không đồng ý theo yêu cầu của ông
P mở lối đi tại vị trí cũ có chiều rộng 1,5m.
Bị đơn anh S chỉ đồng ý mở một lối đi chiều rộng 0,5m thuộc một phần
thửa đất số 59 tại vị trí phần đất giáp ranh giữa anh với anh C1, không đồng ý theo
yêu cầu của ông P mở lối đi tại vị trí cũ với chiều rộng 1,5m.
Xét kháng cáo của anh C1, chị T, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Qua đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ xác định nsau: Phần đất
nguyên đơn yêu cầu mở lối đi diện tích 29,9m
2
ký hiệu thửa 56b thuộc một
phần thửa đất số 56, tờ bản đồ số 10 do anh Phan Văn Tuấn C1 đứng tên quyền sử
dụng đất diện tích 168,3m
2
hiệu thửa 59b thuộc một phần thửa đất số 59, tờ
bản đồ số 10 do hộ anh Phan Văn S đứng tên quyền sử dụng đất. Phần lối đi tranh
chấp hiện nay lối đi sẵn, trên đất chỉ trồng cỏ, ngoài ra không cây trồng
hay công trình kiến trúc nào khác.
Hội đồng xét xử xét thấy, ông P chủ sử dụng phần đất diện tích
4.817m
2
thuộc thửa đất số 44, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh
Bến Tre. Phần đất này bị vây bọc bởi các phần đất của chủ sử dụng khác. Để ra
đến đường công cộng, ông P phải đi qua lối đi đang tranh chấp nằm trong phần đất
6
thuộc thửa đất số 56 và thửa đất số 59, cùng tờ bản đsố 10, tọa lạc tại ấp Q,
H, huyện T, tỉnh Bến Tre. Các bên thống nhất về thời gian hình thành lối đi này
đã từ lâu, trước đây các bị đơn cho nguyên đơn sử dụng lối đi này không
ý kiến , nhưng do vào năm 2019 hai bên mâu thuẫn với nhau nên bị đơn
không đồng ý cho nguyên đơn đi trên lối đi cũ rộng 1,5m nữa.
[2.2] Xét lời trình bày của bị đơn anh C1 đồng ý mở cho ông P một lối đi có
chiều rộng 1,5m từ đất ông P đi qua thửa đất số 56 thửa 59 tại vị trí gần
mương ranh, không đồng ý mở lối đi chiều rộng 1,5m theo yêu cầu vtrí lối đi
cũ của ông P không có cơ sở.
Bởi lẽ, căn cứ vào biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 11/7/2023 thể
hiện ngoài lối đi này ra, nguyên đơn không còn lối đi nào khác, vị trí lối đi này
nằm gần con mương ranh, hiện trạng vẫn lối đi, không cây trồng hay công
trình kiến trúc trên đất, hơn nữa thực tế phía bị đơn cũng cho nguyên đơn sử dụng
lối đi này từ trước cho đến nay, việc nguyên đơn sử dụng lối đi từ xưa đến nay
chưa ảnh hưởng gì đến việc sử dụng đất của bị đơn. Mặt khác, trên phần đất bị đơn
yêu cầu mở lối đi mới nhiều cây dừa, việc bị đơn yêu cầu nguyên đơn tự bi
đắp, mở lối đi khác ngay mương ranh sẽ tốn kém về thời gian, chi phí cho việc
tạo thành một lối đi mới. Ngoài ra như đã phân tích trên bị đơn không cho nguyên
đơn tiếp tục đi do hai bên mâu thuẫn với nhau chứ không phải do việc
nguyên đơn sử dụng lối đi làm ảnh hưởng đến việc canh tác đất của bị đơn.
Căn cứ Điều 254 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Quyền về lối đi
qua” như sau: “Chủ shữu bất động sản bvây bọc bi các bất động sản của
các chủ s hữu khác không hoặc không đlối đi ra đường công cộng,
quyền yêu cầu chủ s hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp
trên phần đất của họ. Lối đi được m trên bất động sản liền kề nào mà được coi là
thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất
động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có m lối đi”.
Từ những phân tích trên, cho thấy việc mở lối đi theo yêu cầu của nguyên
đơn thuận tiện hợp nhất, ít gây thiệt hại cho bất động sản mở lối đi,
cũng như chi phí cho việc mở lối đi.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là phù hợp với quy định tại Điều 254 của Bộ luật Dân sự.
[2.3] Căn cứ theo quy định tại Điều 254 của Bộ luật Dân sự thì chủ sở hữu
bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền cho chủ sở hữu bất động sản
chịu hưởng quyền. Do đó, ông P phải trách nhiệm đền ½ giá trị quyền sử
dụng đất của lối đi cho anh C1, chị T.
7
Theo biên bản định giá ngày 11/7/2023 của Hội đồng định giá huyện T, tỉnh
Bến Tre xác định giá trị như sau:
½ giá trị quyền sử dụng đất là: Vị trí 1: (14,1m
2
x 400.000 đồng/m
2
):2 + vị
trí 2: (15,8m
2
x 250.000 đồng/m
2
):2 = 4.795.000 đồng.
Ông P có nghĩa vụ hoàn trả cho anh C1, chị T tổng cộng số tiền là 4.795.000
đồng.
Quá trình sử dụng lối đi nếu nguyên đơn gây thiệt hại phải bồi thường theo
quy định pháp luật.
[3] Anh C1, chị T kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo căn cứ nên Hội đồng xét xkhông chấp
nhận kháng cáo.
[4] Đối với các phần còn lại của Bản án không bị kháng cáo, kháng nghị nên
Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
anh C1, chị T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc
T.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2024/DS-ST ngày 27 tháng 3 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Căn cứ các điều 147, 148, 157, 165 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 254 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Chung Văn P đối với
bị đơn anh Phan Văn S, chị Nguyễn Thị P2 anh Phan Văn Tuấn C1, chị
Nguyễn Ngọc T.
8
1.1. Buộc anh Phan Văn S, chị Nguyễn Thị P2 dành cho ông Chung Văn P
lối đi có diện tích 168,3m
2
ký hiệu thửa 59b thuộc một phần thửa đất số 59, tờ bản
đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre (có họa đồ kèm theo).
1.2. Buộc anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc T dành cho ông Chung
Văn P lối đi diện tích 29,9m
2
hiệu thửa 56b thuộc một phần thửa đất số 56,
tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre (có họa đồ kèm
theo).
1.3. Buộc ông Chung Văn P nghĩa vụ đền cho anh Phan Văn S, chị
Nguyễn Thị P2 giá trị quyền sử dụng đất với số tiền 33.660.000đ (ba mươi ba
triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).
1.4. Buộc ông Chung Văn P có nghĩa vụ đền bù cho anh Phan Văn Tuấn C1,
chị Nguyễn Ngọc T giá trị quyền sử dụng đất với số tiền 4.795.000đ (bốn triệu
bảy trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
1.5. Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.6. Tuyên bố hạn chế quyền sử dụng đất đối với anh Phan Văn S, chị
Nguyễn Thị P2anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc T đối với phần lối đi
nêu trên.
Ông Chung Văn P được quyền nâng cấp, sửa chữa, bồi đắp, tôn tạo lối đi;
được quyền sử dụng hạn chế quyền sử dụng đất của anh Phan Văn S, chị Nguyễn
Thị P2 anh Phan Văn Tuấn C1, chị Nguyễn Ngọc T đối với phần lối đi ông
P được sử dụng và tuân thủ các điều kiện đảm bảo trong quá trình sử dụng đất của
các bên mà pháp luật quy định.
2. Về chi phí tố tụng 2.981.000đ (hai triệu chín trăm tám mươi mốt nghìn
đồng), ông Chung Văn P tự nguyện chịu và đã nộp đủ.
3. Về án phí:
3.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Chung Văn P được miễn nộp tiền án phí.
Anh Phan Văn S chị Nguyễn Thị P2 nghĩa vụ liên đới nộp án phí dân
sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).
9
Anh Phan Văn Tuấn C1 chị Nguyễn Ngọc T nghĩa vụ liên đới nộp án
phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).
3.2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Anh Phan Văn Tuấn C1 phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng)
theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0000085 ngày 12 tháng 4 năm 2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Anh C1 đã nộp đủ án phí
dân sự phúc thẩm.
Chị Nguyễn Ngọc T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo
biên lai thu tạm ứng án phí số 0000086 ngày 12 tháng 4 năm 2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự
phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Thạnh Phú;
- Chi cục THADS huyện Thạnh Phú;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Bản án số 494/2024/DS-PT Bản án số 494/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 494/2024/DS-PT Bản án số 494/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất