Bản án số 49/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 của TAND huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương về ly hôn, tranh chấp nuôi con
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 49/2019/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 49/2019/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 49/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 của TAND huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương về ly hôn, tranh chấp nuôi con |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tứ Kỳ (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 49/2019/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/11/2019 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Bùi Thị H xin ly hôn anh Phùng Đức D và yêu cầu giải quyết về con chung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƢƠNG
Bản án số: 49/2019/HNGĐ-ST
Ngày 12-11-2019
“V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƢƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Quân.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Ngọc Hải và bà Nguyễn Thị Hạnh Thu
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Hiên - Thƣ ký Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dƣơng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tham gia
phiên toà: Bà Đinh Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dƣơng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 252/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng
9 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đƣa vụ án ra xét xử
số 52/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2019 giữa các đƣơng sự:
1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1990;
ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: khu I, phƣờng N, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh.
2. Bị đơn: Anh Phùng Đức D, sinh năm 1987;
ĐKHKTT: thôn Q, xã T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng.
3. Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1952.
Trú quán: thôn Q, xã T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dƣơng.
Chị H, anh D đều đề nghị vắng mặt, bà T vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu khác
có tại hồ sơ, nguyên đơn chị Bùi Thị H trình bày:
+ Về hôn nhân: Chị và anh Phùng Đức D kết hôn với nhau trên cơ sở đƣợc tự do tìm
hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T ngày 06/01/2014. Sau khi kết
hôn, chị và anh D thuê nhà sinh sống và làm công nhân tại Công ty giày da S ở Quảng
Ninh. Vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc đƣợc khoảng 04 tháng thì phát sinh
mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau về cách sống, sinh hoạt, anh
D chơi bời, cờ bạc dẫn đến nợ lần nhiều, có nhiều ngƣời đến đòi nợ, về nhà yêu cầu
chị đƣa tiền, chị không đƣa thì anh D đánh chị. Đến cuối năm 2016, anh D bỏ về quê
ở xã T sinh sống, chị không liên lạc với anh D nữa. Đầu năm 2017, chị đã gửi đơn đến
2
TAND huyện Tứ Kỳ xin ly hôn anh D. Quá trình giải quyết, do đƣợc hai bên gia đình
động viên và Toà án hoà giải, chị đã cho anh D một cơ hội nữa nên đã rút đơn để vợ
chồng đoàn tụ. Tuy nhiên, vợ chồng chỉ hàn gắn đƣợc một thời gian rất ngắn thì tiếp
tục mâu thuẫn, vợ chồng ly thân, anh D sinh sống xã T cho đến nay, còn chị ở Quảng
Ninh sinh sống và nuôi con. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có
khả năng đoàn tụ, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị đƣợc ly hôn anh D để hai bên sớm ổn
định cuộc sống.
- Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu khác có tại hồ sơ, bị
đơn anh Phùng Đức D trình bày: Về thời gian và điều kiện kết hôn đúng nhƣ chị H
đã trình bày: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì xảy
ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, hay xảy ra cãi nhau,
nên anh đã nghỉ làm ở Quảng Ninh về quê sinh sống. Năm 2017, chị H đã làm đơn
xin ly hôn anh, sau đó đƣợc gia đình khuyên bảo, hai vợ chồng đã tìm cách hoá giải
những mâu thuẫn nên chị H đã rút đơn, vợ chồng về đoàn tụ, tuy nhiên sau khi Toà án
đình chỉ vụ án, vợ chồng chỉ ở với nhau một thời gian rất ngắn thì tiếp tục mâu thuẫn,
vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay, anh sinh sống tại thôn Q, xã T còn chị H sống tại
Quảng Ninh. Nay, chị H xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm giữa anh với chị H vẫn còn
nên không nhất trí ly hôn, trƣờng hợp chị H cƣơng quyết xin ly hôn, anh đề nghị Toà
án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Về con chung: Chị H và anh D đều xác định: Vợ chồng có một con chung là
Phùng Bùi Gia H, sinh ngày 03/10/2014 hiện đang ở với chị H. Chị H xin đƣợc nuôi
dƣỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu anh D phải cấp dƣỡng nuôi con.
Hiện chị làm công nhân Công ty TNHH S có thu nhập trung bình từ 9 triệu đến 10 triệu
đồng/tháng. Anh D cũng xin đƣợc nuôi dƣỡng con chung và tự nguyện không yêu
cầu chị H phải cấp dƣỡng nuôi con. Hiện anh đang làm công nhân tại Công ty
TNHH B, địa chỉ xã Q, huyện Tứ Kỳ, mức thu nhập bình quân 6.500.000
đồng/tháng. Trƣờng hợp chị H cũng xin nuôi dƣỡng con chung, anh đề nghị Toà án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh D đều không yêu cầu Toà án giải
quyết.
- Kết quả làm việc với đại diện UBND xã T và các đoàn thể và chính quyền
thôn Q, xã T đƣợc cung cấp: Anh D, chị H đƣợc tự do tìm hiểu tiến tới hôn nhân
và có đăng ký kết hôn theo luật định. Sau khi kết hôn, vợ chồng ra Quảng Ninh
thuê trọ sinh sống và làm ăn. Đến năm 2017, thấy anh D về nhà bà Nguyễn Thị T
(là mẹ đẻ) ở, mẹ con chị H không về ở với anh D. Sau đó một thời gian thấy Toà
án nhân dân huyện Tứ Kỳ triệu tập anh D về việc chị H có đơn xin ly hôn, còn mâu
thuẫn vợ chồng nhƣ thế nào, chính quyền và các đoàn thể không nắm đƣợc. Từ đó,
anh D ở địa phƣơng và đi làm công nhân, còn chị H ở Quang Ninh, vợ chồng ly
thân cho đến nay. Nay, chị H xin ly hôn anh D và yêu cầu giải quyết về con chung,
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

3
Bà Nguyễn Thị T (mẹ đẻ anh D và là mẹ chồng chị H) trình bày: Anh D và
chị H đƣợc tự do, tìm hiểu tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo
luật định. Sau khi kết hôn, vợ chồng ra Quảng Ninh thuê nhà sinh sống và làm ăn.
Đến năm 2017, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất
đồng quan điểm, mâu thuẫn về kinh tế do không tin tƣởng nhau. Bên cạnh đó, anh
D sống ở quê vợ nên bị chị H quản lý, làm chủ gia đình. Khi mâu thuẫn căng
thẳng, bà đã ra Quảng Ninh để hoà giải cho vợ chồng nhƣng đƣợc một thời gian thì
chị H đã làm đơn ly hôn anh D gửi đến Tòa án. Sau nhiều lần đƣợc Toà án báo gọi,
hoà giải, đƣợc hai gia đình động viên nên chị H đã rút đơn về. Tuy nhiên, cũng kể
từ đó, anh chị sống ly thân đến nay. Anh D ở Tứ Kỳ đi làm, còn chị H sinh sống ở
Quảng Ninh, thời gian đầu anh D hay ra thăm con, nhƣng sau đó không ra thăm
con nữa do chị H nói cấm và tỏ thái độ lạnh nhạt. Nay, chị H làm đơn xin ly hôn
anh D, quan điểm của bà giữa hai anh chị không thể hàn gắn đƣợc với nhau, đề
nghị Toà án giải quyết cho anh chị ly hôn để hai bên ổn định cuộc sống.
Tại phiên tòa: Cả chị H và anh D đều đề nghị xét xử vắng mặt.
Đại diện VKSND huyện Tứ Kỳ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thƣ ký phiên tòa và
của những ngƣời tham gia tố tụng đến trƣớc thời điểm HĐXX nghị án và đề nghị
Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 51, Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia
đình; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228; Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội về ... án
phí và lệ phí Toà án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Bùi
Thị H đƣợc ly hôn anh Phùng Đức D; Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị H đƣợc
nuôi dƣỡng con chung Phùng Bùi Gia H, sinh ngày 03/10/2014 cho đến khi trƣởng
thành (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh D cấp
dƣỡng nuôi con. Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không
ai đƣợc cản trở. Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị H, anh D không yêu cầu nên
không xem xét, giải quyết. Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ
thẩm;
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đƣợc thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là chị Bùi Thị H và bị đơn anh Phùng Đức D
đã đƣợc Toà án triệu tập hợp lệ và đều có đơn xin giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1
Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt chị H, anh D.
[2] Về hôn nhân: Chị Bùi Thị H và anh Phùng Đức D kết hôn trên cơ sở
đƣợc tự do tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Tứ Kỳ
ngày 06/01/2014 là hôn nhân hợp pháp.
[3] Mặc dù anh D xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, không nhất trí ly
hôn chị H. Tuy nhiên, chính anh D cũng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên
4
nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tin tƣởng nhau về kinh tế, hay xảy
ra cãi nhau. Lời khai của anh D phù hợp với lời khai của chị H, phù hợp với lời
khai của bà T (mẹ đẻ anh D) và các tài liệu do Toà án xác minh, có đủ cơ sở để xác
định: Quá trình chung sống, chị H, anh D có nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do
không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt, bất đồng quan điểm. Chính vì lý do đó
mà năm 2017, chị H đã làm đơn xin ly hôn anh D, sau đó đã rút đơn và Tòa án đã
ra Quyết định đình chỉ vụ án, nhƣng vợ chồng vẫn không thể đoàn tụ đƣợc và tiếp
tục ly thân từ năm 2017 đến nay, mỗi ngƣời một nơi, không còn quan tâm đến
nhau. Nguyện vọng của anh D mong muốn vợ chồng đoàn tụ là chính đáng nhƣng
chính bản thân anh D cũng không có giải pháp gì để hàn gắn tình cảm, cuộc sống
vợ chồng không có chiều hƣớng tích cực, Nhƣ vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ
xác định tình trạng hôn nhân giữa chị H, anh D đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc, cần chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị H đƣợc ly hôn anh D là phù hợp với Điều 56
của Luật hôn nhân và gia đình để hai bên sớm ổn định cuộc sống.
[4] Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Phùng Bùi Gia H, sinh ngày
03/10/2014, hiện đang ở với chị H. Cả chị H và anh D đều đề nghị đƣợc nuôi con chung
và tự nguyện không yêu bên không phải nuôi cấp dƣỡng nuôi con. Xét nguyện vọng
của chị H và anh D đều là chính đáng, tuy nhiên để xem xét giao con cho ai nuôi
dƣỡng, cần phải xem xét một cách toàn diện, tất cả vì lợi ích của con chung, thấy rằng:
Từ khi vợ chồng ly thân, cháu H vẫn do chị H nuôi dƣỡng, phát triển bình thƣờng, tính
đến ngày xét xử, mặc dù cháu H đã đủ 36 tháng tuổi nhƣng vẫn còn nhỏ, cần sự chăm
sóc của ngƣời mẹ nhiều hơn. Hiện chị H làm công nhân, có mức thu nhập trung bình từ
9 triệu đến 10 triệu đồng/tháng, chị H không thuộc trƣờng hợp không đủ điều kiện để
trực tiếp nuôi con, anh D có quan điểm trƣờng hợp chị H cũng xin nuôi con, anh đề
nghị giải quyết theo pháp luật, hơn nữa anh D không xuất trình đƣợc mức thu nhập. Vì
vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung, HĐXX giao cho chị H tiếp tục
nuôi dƣỡng con chung Phùng Bùi Gia H cho đến khi trƣởng thành (đủ 18 tuổi). Chấp
nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh D cấp dƣỡng nuôi con. Anh D có
quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai đƣợc cản trở.
[5] Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị H, anh D không yêu cầu nên Toà án
không giải quyết.
[6] Về án phí: Chị Bùi Thị H khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên phải chịu
300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban
Thƣờng vụ Quốc hội về ...án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn
nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227, Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố

5
tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30-12-2016 của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội về ... án phí và lệ phí Toà án.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị H đƣợc ly hôn anh Phùng Đức D
2. Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị H tiếp tục nuôi dƣỡng, chăm sóc,
giáo dục con chung Phùng Bùi Gia H, sinh ngày 03/10/2014 cho đến khi trƣởng thành
(đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh D cấp
dƣỡng nuôi con. Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai đƣợc
cản trở.
3. Về án phí: Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm
ly hôn, đƣợc đối trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Tứ Kỳ, theo biên lai số AA/2017/0005249 ngày 12/9/2019.
4. Về quyền kháng cáo: Chị H, anh D có quyền kháng cáo bản án trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc bản án hoặc bản án đƣợc niêm yết./.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Tứ Kỳ;
- Chi cục THA dân sự huyện Tứ Kỳ;
- UBND xã T, huyện Tứ Kỳ;
- UBND phƣờng N, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh;
- Các đƣơng sự;
- Lƣu: Hồ sơ vụ án, VP;
ỘI THẨM NHÂN DÂN
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Quân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm