Bản án số 46/2025/HC-ST ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 46/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 46/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 46/2025/HC-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 46/2025/HC-ST ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Ngãi |
| Số hiệu: | 46/2025/HC-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 30/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Hành chính |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Ông Nguyễn T khởi kiện Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
Bản án số: 46/2025/HC-ST
Ngày: 30 - 9 - 2025
V/v khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Công Diễn
Các Hội thẩm nhân dân:1. Ông Bùi Trưng
2. Ông Trần Hoài Trung.
- Thư ký phiên tòa: Ông Tống Thanh Hòa - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thanh Loan - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 26 và 30 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi; Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm
công khai vụ án thụ lý số 34/2025/TLST-HC ngày 11 tháng 4 năm 2025, thụ lý
bổ sung số 416/2025/TB-HC ngày 18 tháng 9 năm 2025, về “Khiếu kiện quyết
định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”, theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 59/2025/QĐXXST-HC ngày 06 tháng 9 năm 2025, quyết định số
45/2025/QĐST-HC ngày 18/9/2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn T, sinh năm: 1978. Có mặt.
Địa chỉ: Khu dân cư S, thôn T, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi (nay là
Khu dân cư S, thôn T, xã L, tỉnh Quảng Ngãi).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn G; địa chỉ: Khu dân
cư B, thôn T, xã L, tỉnh Quảng Ngãi. (Có mặt ngày 26/9/2025, vắng mặt ngày
30/9/2025).
2. Người bị kiện:
2.1 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Ngãi (người kế thừa
quyền và nghĩa vụ: Chủ tịch UBND tỉnh QuảngNgãi). Có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt.
Địa chỉ: E H, phường C, tỉnh Quảng Ngãi.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Ông Võ Minh V – Phó Giám đốc
Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Q. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: A H, phường N, tỉnh Quảng Ngãi.
2
2.2 Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. (Người
kế thừa quyền và nghĩa vụ: Chủ tịch UBND xã L, tỉnh QuảngNgãi). Có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Xã L, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Cao Văn Đ, sinh năm: 1965. Có mặt.
Địa chỉ: E đường C, phường T, quận B, thành phố Hồ Chí Minh (nay là E
đường C, phường B, thành phố Hồ Chí Minh).
3.2 Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh
Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Giám đốc. Có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.
Địa chỉ: B V, phường C, tỉnh Quảng Ngãi.
- Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Giám đốc. Có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.
Địa chỉ: E Q, phường C, tỉnh Quảng Ngãi.
- Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi (người kế thừa
quyền và nghĩa vụ: Chủ tịch UBND xã L, tỉnh QuảngNgãi). Có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt.
Địa chỉ: Xã L, tỉnh Quảng Ngãi.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và tại phiên tòa người khởi kiện
trình bày:
Thửa đất số 175 tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299) nay là thửa 260 tờ bản đồ số
40 (bản đồ 2004) và cũng là thửa 260 tờ bản đồ số 3 của xã Đ (tờ bản đồ chỉnh
lý số 3 – Bản đồ thực hiện dự án do Công ty TNHH T2 VN039 đo đạc chỉnh lý).
Loại đất đang sử dụng: đất ở nông thôn và đất trồng cây hàng năm khác
(ONT+BHK).
Thửa đất này nguyên là của ông Huỳnh C là đất bỏ hoang sau năm 1975
giải phóng đất nước, cha ông Nguyễn T là ông Nguyễn T1 xin khai hoang để
canh tác họa màu, đến năm 1976 cha ông làm nhà ở, năm 1984 cha ông để nhà
và đất cho vợ chồng anh Cao Văn Đ là con đời trước của mẹ ông ở và canh tác,
nhưng cha ông là ông Nguyễn T1 vẫn còn để chuồng nuôi trâu ở tại đây, năm
1987, Nhà nước khảo sát đo đạc vẽ bản đồ đưa đất vào quản lý theo Chỉ thị 299
của Thủ tướng Chính phủ.
Ông Cao Văn Đ là anh trai ông Nguyễn T đã kê khai có tên trong sổ Mục
kê (theo cung cấp của Văn phòng đăng ký đất đai); năm 1994, thực hiện việc
giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP, Hội đồng giao đất theo Nghị định
3
64/CP xã Đ đã làm thủ tục giao phần đất nông nghiệp cho hộ ông Cao Văn Đ là
520m
2
còn lại 200m
2
là đất có nhà ở, trong những năm sau đó anh em gia đình
có khai phá hàng rào hoang dại và tre nứa nên diện tích có rộng hơn, năm 1996
vì nhà có 03 anh em trai nên chỗ ở cũng chật vật ông Cao Văn Đ có làm đơn xin
đất làm nhà ở, được UBND huyện M cấp đất theo Quyết định 1011/QĐ-UB
ngày 14/9/1996, nhưng ông Đ chưa xây dựng nhà ở, đến năm 2000 điều kiện
kinh tế gia đình khó khăn, ông Cao Văn Đ đi vào thành phố Hồ Chí Minh làm
thuê mua bán, nên ông Đ có viết giấy tay cho lại ông nhà ở và thửa đất nói trên,
từ đó ông quản lý để ở và canh tác hoa màu dến năm 2004 Nhà nước chủ trương
vẽ lại bản đồ sổ mục kê vẫn đứng tên Cao Văn Đ, nhưng diện tích thửa có tăng
lên là 1.176m
2
thật ra gia đình quản lý sử dụng thửa đất này đến nay đã 48 năm,
nhưng việc am hiểu về pháp luật cũng còn hạn chế nên cũng không quan tâm
đến việc làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận QSDĐ nên thửa đất chưa có Giấy
chứng nhận QSDĐ, nay Nhà nước quy hoạch làm đường cao tốc, ngày
23/9/2022, UBND huyện M có thông báo thu hồi đất số 1416/TB-UBND thu hồi
diện tích 473,7m
2
thuộc thửa đất nói trên của ông để thực hiện dự án xây dựng
công trình đường bộ Cao tốc Bắc - Nam phía đông đã được ban bồi thường giải
phóng mặt bằng làm thủ tục kiểm đếm áp giá.
Ngày 26/12/2023, ông được UBND xã Đ mời cùng một số hộ dân có đất
bị ảnh hưởng để làm việc, được Chủ tịch UBND xã có giải thích là thửa đất mà
ông đang ở canh tác thuộc diện đất do UBND xã quản lý; do đó mà không được
bồi thường, ông có làm đơn khiếu nại đến ban bồi thường và Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh Q, được Trung tâm phát triển quỹ đất có Văn bản số
35/TTPTQĐ-BT&GPMB ngày 03/01/2024 trả lời là Chủ tịch UBND xã Đ xác
nhận là “Đất do UBND xã quản lý” tại Biên bản xác nhận ngày 19/9/2023 là
toàn bộ diện tích thửa đất số 260 là đất UBND xã quản lý, ông thấy việc xác
nhận của UBND xã Đ là không có một căn cứ nào vì đất và nhà ở đã sử dụng 48
năm không có tranh chấp, phù hợp quy hoạch, không vi phạm pháp luật về đất
đai mà không bồi thường cho ông. Nên ông có đơn khiếu nại đến Chủ tịch
UBND xã Đ, UBND xã đã tiến hành xác minh và tổ chức buổi đối thoại vào
chiều 11/3/2024, đã công nhận phần đất nông nghiệp 520m
2
là đất được giao
theo Nghị định 64/CP cho hộ anh Cao Văn Đ, còn lại 200m
2
đất ở cho là đất
UBND xã quản lý, thử nghĩ thửa đất 175 tờ bản đồ số 9, bản đồ 299, diện tích
720m
2
đã có nhà và các công trình phụ đều làm trên giữa đám đất mà phần đất
nông nghiệp là bao xung quanh nhà được giao theo Nghị định 64/CP chẳng lẽ
còn 200m
2
đất ở chính giữa thửa đất lại là đất của UBND xã quản lý, Chủ tịch
UBND xã kết luận là đất UBND xã quản lý thấy không có sự thuyết phục.
- Phần kết quả đối thoại: Có một số điểm ông không đồng ý, không có
trong biên bản đối thoại vào chiều 11/3/2024 nhưng sau đó ông Chủ tịch đã chỉ
đạo cho bộ phận giúp việc sửa lại biên bản đối thoại, đã thêm vào một số nội
dung trong biên bản đối thoại, nên biên bản có 03 trang, ông là người hiểu biết
về pháp luật còn hạn chế nên ông có ký vào biên bản đã sửa chữa này, còn người
đại diện theo ủy quyền của ông không đồng ý một số nội dung đã thêm, nên
người được ủy quyền của ông không có ký vào biên bản đã sửa chữa, mà ông
4
Chủ tịch vẫn đưa những nội dung đã thêm, vào quyết định giải quyết lần đầu là
hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ việc cụ thể những nội dung đã thêm đó là:
- Thống nhất công nhận thửa đất 175, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg),
diện tích 720m
2
, nay thuộc thửa đất 260, tờ bản đồ số 40 (bản đồ năm 2004),
diện tích 1.176m
2
có 520m
2
đất sản xuất nông nghiệp là của ông Nguyễn Thuận
N tặng cho của hộ ông Cao Văn Đ năm 2000 (là đất giao theo Nghị định 64/CP
của Chính Phủ cho hộ ông Cao Văn Đ năm 1994).
- Không công nhận phần diện tích 656m
2
của thửa đất 260, tờ bản đồ số
40 (bản đồ năm 2004) trong đó có 200m
2
đất có nhà ở và công trình khác của
ông Nguyễn T đang sử dụng là đất của ông Nguyễn T. Diện tích 656m
2
còn lại
của thửa đất nêu trên (đã trừ 520m
2
đất giao theo Nghị định 64/CP của ông
Nguyễn Thuận N tặng cho từ hộ ông Đ) là đất do UBND xã Đ quản lý.
Phần kết luận và Quyết định: Chủ tịch UBND xã Đ cho rằng 200m
2
đất ở
và 456m
2
là đất khai phá sau khi được giao theo Nghị định 64/CP nhưng trước
năm 2004, vì 200m
2
đất ở là đã có nhà ở đến nay đã 48 năm, mà việc UBND xã
Đ vẫn kết luận phần đất ở và đất trồng cây hàng năm diện tích là 656m
2
là đất
UBND xã quản lý sự kết luận này là không có một căn cứ nào của pháp luật quy
định. Nên việc giải quyết khiếu nại lần đầu của UBND xã Đ là không thể hiện
sự khách quan, đồng thời UBND xã Đ giải quyết việc khiếu nại không đúng thời
gian quy định tại Điều 28 Luật Khiếu nại đã quá thời hạn là 18 ngày.
Ngày 17/4/2024, ông có đơn khiếu nại lần 2 đến UBND huyện M, ngày
15/8/2024 UBND huyện M có tổ chức buổi đối thoại, thấy việc giải quyết khiếu
nại lần hai cũng không đưa ra một căn cứ nào của pháp luật quy định việc phần
đất ở không giao theo Nghị định 64/CP và phần diện tích khai phá thêm là
456m
2
thuộc diện đất UBND xã quản lý, mà còn có ý suy diễn là ông Cao Văn
Đ có nhận thức sử dụng 200m
2
đất ở là không hợp pháp là không có cơ sở nào
để chứng minh, đồng thời có quan điểm vẫn giữ nguyên quyết định số 92/QĐ-
UBND ngày 28/3/2024 của Chủ tịch UBND xã Đ, và ban hành Quyết định
3467/QĐ-UBND ngày 23/8/2024 về việc giải quyết khiếu nại lần 2, giữ nguyên
quyết định số 92/QĐ-UBND ngày 28/3/2024 của Chủ tịch UBND xã Đ. Từ đó,
thấy việc giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch UBND huyện M là không có
một căn cứ nào rõ ràng mà cũng mang tính chất chung chung và giải quyết
không đúng với quy định tại Điều 37, Luật Khiếu nại chỉ quy định là 60 ngày
mà thời gian giải quyết là 125 ngày là vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của ông.
Căn cứ các Điều luật quy định trong việc thu hồi đất, mà chủ đất không
được bồi thường như Điều 82 Luật Đất đai 2013 và các Điều luật khác như
khoản 1 Điều 75; khoản 2 Điều 77 thì đất của ông vẫn đủ điều kiện để bồi
thường và thửa đất ông vẫn đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vì đất đã ở và sử dụng đến nay là 48 năm theo quy định Điều 180 Bộ luật
dân sự 2015 về chiếm hữu ngay tình; mặc dù ông Cao Văn Đ đã được Nhà nước
cấp đất ở cho ông là 200m
2
nhưng theo Quyết định số 21/2019/QĐ-UBND của
UBND tỉnh Q về quy định hạn mức đất ở vùng nông thôn là 400m
2
. Như vây
5
ông Cao văn Đ cũng chưa hề vượt hạn mức đất ở, do đó mà quy định về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất theo khoản 1 Điều 13 Nghị định 47/2014/NĐ-
CP quy định: “khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất không có giấy tờ
về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 Luật Đất đai và
Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP mà đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại
Điều 101 và Điều 102 của Luật Đất đai và các Điều 20, 22, 23, 25, 27 và Điều
28 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì được bồi thường về đất”.
Đồng thời đối chiếu Án lệ số 33/2020 của Tòa án nhân dân tối cao thấy
thửa đất số 260, tờ bản đồ số 3, xã Đ của ông có đủ điều kiện cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do vậy nên việc Nhà nước thu hồi làm dự án cao tốc
Bắc Nam phải thực hiện việc bồi thường theo quy định là có cơ sở. Nhưng
UBND huyện M cũng như UBND xã Đ cho rằng việc 200m
2
đất ở của thửa 260
là đất UBND xã quản lý, mà không đề nghị không đề nghị bồi thường cho ông,
là đã gây thiệt hại đến quyền lợi của ông.
Nay, ông Nguyễn T yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi giải quyết:
- Hủy Quyết định số 92/QĐ-UBND ngày 28/3/2024 của Chủ tịch UBND
xã Đ về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Nguyễn T.
- Hủy Quyết định số 3467/QĐ-UBND ngày 23/8/2024 của Chủ tịch
UBND huyện M về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của ông Nguyễn T (địa
chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện M).
- Buộc Chủ tịch UBND huyện M và Chủ tịch UBND xã Đ (người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng là Chủ tịch UBND xã L, tỉnh Quảng Ngãi) thực hiện
nhiệm vụ, công vụ ban hành Quyết định hành chính về thu hồi đất đối với ông
Nguyễn T theo đúng quy định của pháp luật.
- Hủy Quyết định số 939/QĐ-UBND ngày 16/12/2023 của UBND huyện
M, tỉnh Quảng Ngãi về việc thu hồi đất để thực hiện Tiểu dự án bồi thường, hỗ
trợ tái định cư thành phần Quảng Ngãi - H thuộc Dự án công trình cao tốc Bắc –
Nam phía đông giai đoạn 2021 - 2025 qua địa bàn xã Đ (nay là xã L).
* Tại văn bản số 160/UBND ngày 23/5/2025; Người bị kiện Chủ tịch
UBND xã Đ trình bày:
Về nội dung khởi kiện của ông Nguyễn T liên quan đến Quyết định số
92/QĐ-UBND ngày 28/03/2024 của Chủ tịch UBND xã Đ về việc giải quyết
khiếu nại (lần đầu).
Ông Nguyễn T khiếu nại việc Chủ tịch UBND xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng
Ngãi đã có hành vi xác nhận nguồn gốc thửa đất số 260, tờ bản đồ số 40 (bản đồ
2004) xã Đ, ông Nguyễn T đang sử dụng làm nhà ở tại Biên bản xác nhận ngày
19/9/2023 là “Đất do UBND xã quản lý” không đúng với thực tế gây thiệt hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông T. Nội dung này, đề nghị Tòa án căn cứ
quy định của pháp luật để giải quyết.
6
*Tại Văn bản số 2208/UBND-NC ngày 05/9/2025, Chủ tịch UBND tỉnh Q
- người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Chủ tịch UBND huyện M trình
bày:
Ngày 23/9/2022, Ủy ban nhân dân huyện M ban hành Thông báo thu hồi
đất số 1416/TB-UBND để thực hiện Dự án: Xây dựng công trình đường bộ cao
tốc Bắc - N, phía Đông, giai đoạn 2021 - 2025 đối với thửa đất số 260, tờ bản đồ
số 40, xã Đ của ông Nguyễn T đang sử dụng, diện tích dự kiến thu hồi là
473,7m
2
.
Ngày 19/9/2023, Ủy ban nhân dân xã Đ họp xét nguồn gốc đất, xác nhận
thửa đất số 260, tờ bản đồ số 40, diện tích 1176m², xã Đ (nay thuộc tờ bản đồ số
78, xã L) ông Nguyễn T đang sử dụng là đất do Ủy ban nhân dân xã quản lý và
được Ủy ban nhân dân huyện M phê duyệt Phương án bồi thường tại Quyết định
số 913/QĐ-UBND ngày 11 tháng 12 năm 2023 với tổng giá trị bồi thường cho
ông Nguyễn T tại thửa đất số 260, tờ bản đồ số 40, xã Đ là: 0 đồng (Trong đó:
bồi thường, hỗ trợ về đất: 0 đồng, bồi thường, cây cối hoa màu: 0 đồng, hỗ trợ
khác: 0 đồng). Ông Nguyễn T không thống nhất với phương án bồi thường mà
Ủy ban nhân dân huyện đã phê duyệt và nguồn gốc đất Ủy ban nhân dân xã Đ
xác nhận nên ngày 11 tháng 01 năm 2024 ông Nguyễn T có đơn khiếu nại Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi xác nhận nguồn gốc thửa
đất số 260, tờ bản đồ số 40, xã Đ tại biên bản xác nhận ngày 19 tháng 9 năm
2023 là “Đất do Ủy ban nhân dân xã Q” không đúng với thực tế gây thiệt hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông.
Ngày 28/3/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ ban hành Quyết định số
92/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Nguyễn T là công
nhận một phần nội dung khiếu nại của ông Nguyễn T là đúng, cụ thể: Công nhận
một phần diện tích thửa đất 260, tờ bản đồ số 40, xã Đ với diện tích là
520/1.176m², loại đất sản xuất nông nghiệp của ông Nguyễn Thuận N tặng cho
của hộ ông Cao Văn Đ năm 2000 (Nguồn gốc là đất giao theo Nghị định số
64/CP của Chính phủ cho hộ ông Cao Văn Đ năm 1994) không phải là đất của
Ủy ban nhân dân xã Q như biên bản xác nhận ngày 19 tháng 9 năm 2023 và
không công nhận một phần nội dung khiếu nại của ông Nguyễn T là không công
nhận diện tích 656/1.176m² thuộc thửa đất số 260, tờ bản đồ số 40, xã Đ loại đất
theo bản đồ thể hiện đất ở và đất trồng cây hàng năm khác là của ông Nguyễn T
mà phần diện tích 656/1.176m² này là đất do Ủy ban nhân dân xã quản lý như
biên bản xác nhận ngày 19 tháng 9 năm 2023.
Ông Nguyễn T không thống nhất kết quả giải quyết khiếu nại tại Quyết
định số 92/QĐ-UBND ngày 28 tháng 3 năm 2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã Đ về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) nên tiếp tục có đơn khiếu nại đến
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện M và được giải quyết khiếu nại tại Quyết định
số 3467/QĐ-UBND ngày 23 tháng 8 năm 2024 là công nhận và giữ nguyên
Quyết định số 92/QĐ-UBND ngày 28 tháng 3 năm 2024 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã Đ về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) và không công nhận nội
dung khiếu nại lần hai của ông Nguyễn T đối với “yêu cầu nhà nước công nhận
7
phần diện tích đất 656m² là đất của ông Nguyễn T (trong đó có 200m² là đất ở
và 456m² đất trồng cây hàng năm khác)”.
Ông Nguyễn T không thống nhất kết quả giải quyết khiếu nại của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã Đ tại Quyết định số 92/QĐ-UBND ngày 28 tháng 3
năm 2024 và của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện M tại Quyết định số
3467/QĐ-UBND ngày 23 tháng 8 năm 2024 nên đã khởi kiện đến Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng ngãi để giải quyết.
Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng
Thửa đất ông Nguyễn T đang sử dụng đã được Nhà nước thu hồi một
phần đất để thực hiện Dự án công trình đường bộ cao tốc Bắc - N phía Đông giai
đoạn 2021-2025, đoạn qua địa bàn xã L, tỉnh Quảng Ngãi tại thừa đất số 260, tờ
bản đồ số 40, bản đồ xã Đ (nay là tờ bản đồ số 78 xã L) (thuộc thửa đất số 175,
tờ bản đồ số 9, diện tích là 720m²: bản đồ 299/TTg xã Đ). Nguyên là đất sản
xuất nông nghiệp của ông Huỳnh C sử dụng từ trước năm 1975, năm 1976 ông
Huỳnh C cho ông Nguyễn T1 để sử dụng làm nhà ở tạm (theo biên bản xác minh
ngày 08 tháng 3 năm 2024 với ông Huỳnh Sáu C1 của ông Huỳnh C), nhà vách
đất, mái lợp bằng tranh, rạ đến năm 1982 ông Nguyễn T1 để lại nhà cho con
riêng của vợ là ông Cao Văn Đ và dâu là bà Hà Thị C2 sử dụng (theo trình bày
của ông Đồng đại biên bản ngày 26 tháng 01 năm 2024).
Năm 1982, Hợp tác xã N1 (viết tắt là HTX N2 được thành lập, ông Huỳnh
C là xã viên HTX N2 nên toàn bộ ruộng đất của ông đưa vào HTX N2 quản lý.
Tuy nhiên, ông Cao Văn Đ vẫn sử dụng nhà để ở trên thửa đất nêu trên, vì ông
Đ không có nhà ở, chỗ ở nào khác. Trong quá trình sử dụng vợ chồng ông Cao
Văn Đ có sửa chữa lại mái nhà chính lợp bằng ngói, xây dựng thêm 01 ngôi nhà
ngang (nhà dưới) vách xây bằng gạch, mái lợp ngói và có đóng 01 giếng đóng
(theo trình bày của ông Đ, tại biên bản lập ngày 26 tháng 01 năm 2024).
Thực hiện Chỉ thị 299/TTg ngày 10 tháng 11 năm 1980 của Thủ tướng
Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong
cả nước, tại thời điểm này ông Cao Văn Đ là người sử dụng thửa đất nêu trên,
nên trong Sổ mục kê ruộng đất “mẫu số 6” ghi chủ sử dụng đất là ông Cao Văn
Đ; tuy nhiên, Sổ đăng ký ruộng đất “mẫu 5b” không có người đăng ký kê khai
(có Phiếu cung cấp thông tin địa chính số 284/PCC-CNMĐ ngày 06 tháng 11
năm 2023 của Văn phòng Đ1 - Chi nhánh huyện M cung cấp).
Năm 1993, thực hiện việc giao ruộng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định theo Nghị định 64/CP của Chính phủ, HTX N2 có cân đối cho hộ ông
Cao Văn Đ 520m
²
/720m
²
của thửa đất 175, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg) để
sản xuất nông nghiệp, nay thuộc một phần thửa đất 260, tờ bản đồ số 40, bản đồ
năm 2004 xã Đ (nay thuộc tờ bản đồ số 78 xã L).
Do không có đất ở hợp pháp, nên năm 1996 ông Cao Văn Đ, có đơn gửi
đến Ủy ban nhân dân xã Đ xin được cấp đất xây dựng nhà ở. Qua xem xét
trường hợp của ông Cao Văn Đ chưa có chỗ ở hợp pháp, nên Hội đồng xét cấp
đất cấp xã đã thống nhất và lập hồ sơ, trình Ủy ban nhân dân huyện M cấp đất
8
cho hộ ông Cao Văn Đ để xây dựng nhà ở. Ngày 14 tháng 9 năm 1996, Ủy ban
nhân dân huyện M ban hành Quyết định số 1011/QĐ-UB cấp đất ở cho ông Cao
Văn Đ để xây dựng nhà ở với diện tích 200m² thuộc thửa đất số 268, tờ bản đồ
số 9 (bản đồ 299/TTg). Thời điểm này ông Đ chưa thực hiện việc xây dựng nhà
ở tại vị trí đất được Ủy ban nhân dân huyện C3 tại Quyết định số 1011/QĐ-UB
ngày 14 tháng 9 năm 1996, vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hộ gia đình ông Đ
vẫn tiếp tục sống tại nơi ở cũ (tại thừa đất số 175, tờ bản đồ số 9 (bản đồ
299/TTg)).
Năm 2000, tất cả gia đình ông Cao Văn Đ chuyển vào thành phố Hồ Chí
Minh sinh sống, ông Đ và các thành viên trong gia đình đều thống nhất tặng cho
phần diện tích đất được cân đối giao theo Nghị định 64/CP của hộ ông Cao Văn
Đ với diện tích là 520m
²
và nhà tạm có trên thửa đất số 175, tờ bản đồ số 9 (bản
đồ 299/TTg) cho em trai là ông Nguyễn T tiếp tục sử dụng (có Giấy viết tay lập
ngày 12 tháng 3 năm 2000 kèm theo) (ông Nguyễn T và ông Cao Văn Đ là anh
em cùng mẹ khác cha).
Đến năm 2004, thực hiện dự án Đa dạng hóa Nông nghiệp và phát triển
nông thôn trên địa bàn xã Đ, thửa đất số 175, tờ bản đồ số 9, diện tích 720m
²
(bản đồ 299/TTg) được đo đạc thành thửa đất số 260, tờ bản đồ 40, xã Đ, diện
tích 1.176m
²
(tăng 456m
²
so với diện tích trong bản đồ 299/TTg).
Từ những căn cứ trên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh N3 thấy thửa đất ông
Nguyễn T đang sử dụng tại thửa đất số 260, tờ bản đồ 40 xã Đ (nay thuộc tờ bản
đồ số 78 xã L), diện tích 1.176m
²
; trong đó có 520m
²
là đất giao theo Nghị định
64/CP cho hộ ông Cao Văn Đ và ông Đ đã tặng cho ông Nguyễn T năm 2000,
còn phần diện tích 656m
²
là đất do Ủy ban nhân dân xã Q.
Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh N3 thấy việc giải quyết khiếu nại
lần 1 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ tại Quyết định số 92/QĐ-UBND ngày
28 tháng 3 năm 2024 và giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện M tại Quyết định số 3467/QĐ-UBND ngày 23 tháng 8 năm 2024 là đúng
quy định.
*Tại Văn bản số 419/UBND ngày 17/9/2025, số 473/UBND-KT ngày
25/9/2025, Chủ tịch UBND xã L – Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
UBND, Chủ tịch UBND xã Đ trình bày:
Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng
Thửa đất ông Nguyễn T đang sử dụng đã được Nhà nước thu hồi một
phần đất để thực hiện Dự án công trình đường bộ cao tốc Bắc – N, phía Đông
giai đoạn 2021 – 2025, đoạn qua địa bàn xã L, tỉnh Quảng Ngãi tại thửa đất số
260, tờ bản đồ số 40, bản đồ xã Đ (nay là tờ bản đồ số 78 xã L) (thuộc thửa đất
số 175, tờ bản đồ số 9, diện tích là 720m
2
; bản đồ 299/TTg xã Đ): Nguyên là đất
sản xuất nông nghiệp của ông Huỳnh C sử dụng từ trước năm 1975, năm 1976
ông Huỳnh C cho ông Nguyễn T1 dựng một ngôi nhà ở tạm bằng vách đất, mái
lợp bằng tranh, rạ để sử dụng (theo biên bản xác minh ngày 08/3/2024 với ông
Huỳnh Sáu C1 của ông Huỳnh C), đến năm 1982 ông Nguyễn T1 để lại nhà ở
9
tạm cho con riêng của vợ ông Nguyễn T1 là ông Cao Văn Đ và dâu là bà Hà Thị
C2 sử dụng (theo trình bày của ông Đ, tại biên bản làm việc ngày 26/01/2024).
Năm 1982 (HTX N1 được thành lập), ông Huỳnh C là xã viên HTX N2
nên toàn bộ ruộng đất của ông Huỳnh C đưa vào HTX N2 quản lý. Tuy nhiên,
ông Cao Văn Đ vẫn tiếp tục sử dụng nhà ở trên thửa đất số 175, tờ bản đồ số 9,
diện tích là 720m
2
; bản đồ 299/TTg xã Đ, vì ông Đ không có nhà ở, chổ ở nào
khác.
Thực hiện Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về
công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước, tại thời
điểm này ông Cao Văn Đ là người sử dụng thửa đất nêu trên, nên trong Sổ mục
kê ruộng đất “mẫu số 6” ghi chủ sử dụng đất là ông Cao Văn Đ, tuy nhiên Sổ
đăng ký ruộng đất “mẫu 5b” không có người đăng ký kê khai.
Năm 1993, thực hiện việc giao ruộng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định theo Nghị định 64/CP của Chính phủ, HTX N2 có cân đối giao cho hộ
ông Cao Văn Đ 520m
2
/720m
2
của thửa đất 175, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg)
để sản xuất nông nghiệp, nay thuộc một phần thửa đất 260, tờ bản đồ số 40, bản
đồ năm 2004 xã Đ (nay thuộc tờ bản đồ số 78 xã L).
Do không có đất ở hợp pháp, nên năm 1996 ông Cao Văn Đ, có đơn gửi
đến UBND xã Đ xin được cấp đất xây dựng nhà ở. Qua xem xét trường hợp của
ông Cao Văn Đ chưa có chổ ở hợp pháp, nên Hội đồng xét cấp đất cấp xã đã
thống nhất và lập hồ sơ, trình UBND huyện M cấp đất cho hộ ông Cao Văn Đ để
xây dựng nhà ở. Ngày 14/9/1996, UBND huyện M ban hành Quyết định số
1011/QĐ-UB cấp đất ở cho ông Cao Văn Đ để xây dựng nhà ở với diện tích
200m
2
thuộc thửa đất số 268, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg). Thời điểm này
ông Đ chưa thực hiện việc xây dựng nhà ở tại vị trí đất được UBND huyện cấp
tại Quyết định số 1011/QĐ-UB, ngày 14/9/1996, vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn,
hộ gia đình ông Đ vẫn tiếp tục sống tại nơi ở cũ (tại thửa đất số 175, tờ bản đồ
số 9 (bản đồ 299/TTg)).
Năm 2000, tất cả gia đình ông Cao Văn Đ chuyển vào thành phố Hồ Chí
Minh sinh sống, ông Đ và các thành viên trong gia đình đều thống nhất tặng cho
phần diện tích đất được cân đối giao theo Nghị định 64/CP của hộ ông Cao Văn
Đ với diện tích là 520m
2
và nhà ở tạm có trên thửa đất số 175, tờ bản đồ số 9
(bản đồ 299/TTg), cho em trai là ông Nguyễn T tiếp tục sử dụng (ông Nguyễn T
và ông Cao Văn Đ là anh em cùng mẹ khác cha).
Đến năm 2004, thực hiện dự án Đa dạng hoá Nông nghiệp và phát triển
nông thôn trên địa bàn xã Đ, thửa đất số 175, tờ bản đồ số 9, diện tích 720m
2
(bản đồ 299/TTg) được đo đạc thành thửa đất số 260, tờ bản đồ 40, xã Đ, diện
tích 1.176m
2
(tăng 456m
2
so với diện tích trong bản đồ 299/TTg) và gia đình
ông Nguyễn T sử dụng ngôi nhà trên thửa đất này từ năm 2000 đến khi thu hồi
đất để thực hiện dự án: Xây dựng đường bộ cao tốc Bắc – N, phía Đông.
Quá trình thu hồi đất để thực hiện dự án
10
Năm 2022, UBND huyện M ban hành Thông báo thu hồi đất số 1416/TB-
UBND ngày 23/9/2022 để thực hiện Dự án: Xây dựng công trình đường bộ cao
tốc Bắc – Nam phía Đông, giai đoạn 2021- 2025 đối với thửa đất số 260, tờ bản
đồ số 40, xã Đ của ông Nguyễn T đang sử dụng, diện tích dự kiến thu hồi là
473,7m
2
.
Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh phối hợp cùng với UBND xã Đ tiến
hành kiểm kê tài sản trên đất bị ảnh hưởng vào ngày 02/10/2022. Đến ngày
19/9/2023 UBND xã Đ tổ chức họp và xác nhận nguồn gốc thửa đất số 260, tờ
bản đồ số 40, xã Đ là đất UBND xã quản lý.
Trên cơ sở xác nhận của UBND xã Đ, UBND huyện M ban hành Quyết
định số 937/QĐ-UBND, ngày 15/12/2023 về việc thu hồi Thông báo số
1416/TB-UBND, ngày 23/9/2022 của UBND huyện M về việc thu hồi đất thực
hiện dự án: Xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông.
Sau khi ban hành Quyết định thu hồi Thông báo số 1416/TB-UBND, ngày
23/9/2022, UBND huyện M ban hành Thông báo thu hồi đất số 508/TB-UBND,
ngày 15/12/2023 về việc thu hồi đất UBND xã Đ đang quản lý thuộc thửa đất số
260, tờ bản đồ số 40 xã Đ, diện tích dự kiến thu hồi là 473,7m
2
và UBND huyện
M đã ban hành Quyết định số 939/QĐ-UBND, ngày 16/12/2023 về việc thu hồi
đất để thực hiện Tiểu dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án thành phần
Quảng Ngãi - H, đoạn qua định bàn tỉnh Quảng Ngãi thuộc dự án xây dựng công
trình đường C - Nam phía Đ, giai đoạn 2021- 2025, qua địa bàn xã Đ, huyện M
(đợt A), thuộc thửa đất số 260, tờ bản đồ số 40 xã Đ, tổng diện tích thu hồi là
473,7m
2
, nguồn gốc sử đất là đất UBND xã Đ quản lý.
Ngày 16/12/2023 UBND huyện M ban hành Quyết định số 948/QĐ-
UBND, về việc phê duyệt phương án, dự toán bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng để thực hiện Tiểu dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án thành phần
Quảng Ngãi - H, đoạn qua định bàn tỉnh Quảng Ngãi thuộc dự án xây dựng công
trình đường C - Nam phía Đ, giai đoạn 2021- 2025, qua địa bàn xã Đ, huyện M
(đợt A).
Từ những kết quả trên ông Nguyễn T không thống nhất nên có đơn khiếu
nại về việc xác nhận nguồn gốc đất biên bản họp ngày 19/9/2023 của UBND xã
Đ.
*Tại Văn bản số 2388/BQL-QLDA4 ngày 05/9/2025, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao
thông tỉnh Quảng Ngãi trình bày: Đối với thửa đất 260, tờ bản đồ số 40, xã Đ
(cũ) bị thu hồi để thực hiện Dự án, Ban quản lý chỉ làm chủ đầu tư, các nội dung
khác Ban quản lý không thực hiện.
*Tại Văn bản số 1973/TTQĐ-BT ngày 11/9/2025, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi chỉ cung cấp
tài liệu chứng cứ không có ý kiến gì đối với nội dung khởi kiện của ông Nguyễn
T.
*Tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Cao Văn Đ
11
trình bày: Em ông là ông Nguyễn T khởi kiện là có cơ sở, thửa đất 260 ông đã
cho ông T trọn quyền sử dụng nay ông không có tranh chấp hay ý kiến gì khác.
*Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn T: Đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T.
* Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại
phiên tòa:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã
thực hiện đúng các quy định pháp luật Tố tụng hành chính. Người khởi kiện,
người bị kiện, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan chấp hành đúng quy định Luật Tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và diễn biến
công khai tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b
khoản 2 Điều 193 Luật Tố Tụng hành chính, chấp nhận toàn bộ nội dung khởi
kiện của ông Nguyễn T. Về án phí hành chính sơ thẩm giải quyết theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa,
kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của
pháp luật, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Tại phiên tòa, người đại diện theo pháp luật của người kế thừa quyền
và nghĩa vụ của người bị kiện Chủ tịch UBND huyện M, Chủ tịch UBND xã Đ;
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chủ tịch UBND tỉnh Q; người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi, Ban
Q1 các Công trình giao thông tỉnh Quảng Ngãi vắng mặt và có văn bản đề nghị
xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 157, Điều 158 Luật Tố tụng hành chính,
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự nêu trên.
[1.2] Ngày 18/9/2024, ngày 28/10/2024 và ngày 12/10/2024, ông Nguyễn T
có đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi giải quyết:
- Hủy Quyết định số 92/QĐ-UBND ngày 28/3/2024 của Chủ tịch UBND
xã Đ về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Nguyễn T.
- Hủy Quyết định số 3467/QĐ-UBND ngày 23/8/2024 của Chủ tịch
UBND huyện M về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của ông Nguyễn T (địa
chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện M).
- Buộc Chủ tịch UBND huyện M và Chủ tịch UBND xã Đ (người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng là Chủ tịch UBND xã L, tỉnh Quảng Ngãi) thực hiện
nhiệm vụ, công vụ ban hành Quyết định hành chính về thu hồi đất đối với ông
Nguyễn T theo đúng quy định của pháp luật.
12
Xét thấy, các quyết định hành chính nêu trên là đối tượng khởi kiện vụ án
hành chính, còn thời hiệu khởi kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi theo quy định tại khoản 2 Điều 3, khoản 1 Điều 30,
khoản 3, 4 Điều 32, khoản 1 Điều 115 và điểm a khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng
hành chính.
[1.3] Ngày 18/9/2025, ông Nguyễn T khởi kiện bổ sung, ông yêu cầu hủy
Quyết định số 939/QĐ-UBND ngày 16/12/2023 của UBND huyện M, tỉnh
Quảng Ngãi về việc thu hồi đất để thực hiện Tiểu dự án bồi thường, hỗ trợ tái
định cư thành phần Quảng Ngãi - H thuộc Dự án công trình cao tốc Bắc – N,
phía đông, giai đoạn 2021-2025 qua địa bàn xã Đ (nay là xã L). Xét thấy, yêu
cầu khởi kiện bổ sung nêu trên có liên quan đến quyết định hành chính bị kiện,
không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Nguyễn T.
[2] Xét về trình tự, thủ tục thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính
bị kiện
[2.1] Thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc – N, phía đông giai
đoạn 2021-2025, đoạn qua xã Đ, huyện M. Ngày 23/9/2022, UBND huyện M
ban hành Thông báo thu hồi đất số 1416/TB-UBND về việc thu hồi đất của ông
Nguyễn T, thửa đất số 260, tờ bản đồ số 3, xã Đ, diện tích dự kiến thu hồi là
473,7m
2
.
Ngày 19/9/2023, UBND xã Đ họp xác định nguồn gốc đất, năm xây dựng
nhà, công trình, vật kiến trúc bị ảnh hưởng dự án. Ngày 15/12/2023, UBND xã
Đ ban hành Tờ trình số 267/TTr-UBND về việc đề nghị thu hồi thông báo thu
hồi đất số 1416/TB-UBND của UBND huyện M, cùng ngày UBND huyện M
ban hành Quyết định số 937/QĐ-UBND về việc thu hồi thông báo số 1416/TB-
UBND ngày 23/9/2022 vì lý do không đúng chủ sử dụng đất.
Ngày 15/12/2023, UBND huyện M ban hành Thông báo thu hồi đất số
508/TB-UBND; theo đó, UBND huyện M thu hồi thửa đất 260, tờ bản đồ số 40
(bản đồ chỉnh lý số 3 – bản đồ thực hiện dự án) của UBND xã Đ, diện tích dự
kiến thu hồi 473,7m
2
.
Ngày 16/12/2023, UBND huyện M ban hành Quyết định số 939/QĐ-
UBND về việc thu hồi đất của UBND xã Đ để thực hiện tiểu dự án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư dự án thành phần Quảng Ngãi - H, đoạn qua tỉnh Quảng Ngãi
(đợt A), UBND huyện M thu hồi thửa đất 260, tờ bản đồ số 40, xã Đ (thuộc thửa
đất 260, tờ bản đồ chỉnh lý số 3- bản đồ thực hiện dự án do công ty TNHH T2,
chỉnh lý).
Như vậy về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thu hồi đất, UBND huyện M đã
thực hiện đúng quy định.
[2.2] Không đồng ý với nội dung xác định nguồn gốc đất đối với thửa đất
260 là đất do UBND xã Đ quản lý, ngày 11/01/2024, ông Nguyễn T có đơn
khiếu nại gửi Chủ tịch UBND xã Đ.
13
Ngày 12/01/2024, Chủ tịch UBND xã Đ ban hành Thông báo số 07/TB-
UBND về việc thụ lý khiếu nại lần đầu đối với đơn khiếu nại của ông Nguyễn T.
Sau khi thụ lý khiếu nại, Chủ tịch UBND xã Đ thành lập tổ kiểm tra, xác
minh nội dung đơn khiếu nại, tổ chức đối thoại với người khiếu nại.
Ngày 11/3/2024, Chủ tịch UBND xã Đ tổ chức đối thoại nhưng kết quả
không thành, ngày 28/3/2024, Chủ tịch UBND xã Đ ban hành Quyết định số
92/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với ông Nguyễn T.
Như vậy, Chủ tịch UBND xã Đ thụ lý đơn khiếu nại và tổ chức đối thoại,
ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu là đảm bảo đúng trình tự, thủ
tục, thẩm quyền tại Điều 17, Điều 27, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu nại
năm 2011.
[2.3] Không đồng ý nội dung giải quyết khiếu nại lần đầu, ngày 17/4/2024,
ông Nguyễn T có đơn khiếu nại lần hai đến Chủ tịch UBND huyện M; ngày
22/5/2024, Chủ tịch UBND huyện M ban hành Thông báo số 307/TB-UBND
thụ lý khiếu nại lần hai đối với ông Nguyễn T.
Sau khi thụ lý khiếu nại lần hai, Chủ tịch UBND huyện M thành lập Tổ xác
minh và tổ chức đối thoại nhưng kết quả không thành.
Ngày 23/8/2024, Chủ tịch UBND huyện M ban hành Quyết định số
3467/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với ông Nguyễn T.
Nhận thấy, Chủ tịch UBND huyện M thụ lý và giải quyết khiếu nại lần hai
là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định tại Điều 18, 36, 38, 39, 40
Luật Khiếu nại. Tuy nhiên, về thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai, Chủ tịch
UBND huyện M vi phạm theo quy định tại Điều 37 Luật Khiếu nại.
[3] Xét nội dung của các Quyết định hành chính bị kiện.
[3.1] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất
Thửa đất 260, tờ bản đồ số 40, xã Đ bị ảnh hưởng thu hồi đất để thực hiện
Dự án công trình đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 –
2025, đoạn qua địa bàn xã Đ (nay là xã L, tỉnh Quảng Ngãi) thuộc thửa đất số
175, tờ bản đồ số 9, diện tích là 720m
2
; bản đồ 299/TTg xã Đ. Nguyên là đất của
ông Huỳnh C sử dụng từ trước năm 1975, năm 1976 ông Huỳnh C cho ông
Nguyễn T1 để sử dụng làm nhà ở tạm, nhà vách đất, mái lợp bằng tranh, rạ đến
năm 1982 ông Nguyễn T1 để lại nhà cho con riêng của vợ ông Nguyễn T1 là
ông Cao Văn Đ và dâu là bà Hà Thị C2 sử dụng.
Năm 1982 (Hợp tác xã N1 được thành lập), ông Huỳnh C là xã viên HTX
N2 nên toàn bộ ruộng đất của ông Huỳnh C đưa vào HTX N2 quản lý. Tuy
nhiên ông Cao Văn Đ vẫn sử dụng nhà để ở trên thửa đất 175, vì ông Đ không
có nhà ở, chổ ở nào khác. Trong quá trình sử dụng vợ chồng ông Cao Văn Đ có
sửa chữa lại mái nhà chính lợp bằng ngói, xây dựng thêm 01 ngôi nhà ngang
(nhà dưới) vách xây bằng gạch, mái lợp ngói và có đóng 01 giếng đóng.
14
Thực hiện Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980, ông Cao Văn Đ đăng ký kê
khai đối với thửa đất 260, diện tích 720m
2
tại Sổ mục kê ruộng đất “mẫu số 6”;
theo Sổ đăng ký ruộng đất “mẫu 5b” không có cá nhân, tổ chức nào kê khai.
Thực hiện Nghị định 64/CP, hộ ông Cao Văn Đ được cân đối giao diện
tích 520m
2
/720m
2
thuộc thửa đất 175, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg) để sản
xuất nông nghiệp, nay thuộc một phần thửa đất 260, tờ bản đồ số 40, bản đồ năm
2004 xã Đ (nay thuộc tờ bản đồ số 78 xã L).
Năm 2000, ông Cao Văn Đ vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, ông Đ
và các thành viên trong gia đình đều thống nhất tặng cho phần diện tích đất được
cân đối giao theo Nghị định 64/CP của hộ ông Cao Văn Đ với diện tích là 520m
2
và nhà tạm có trên thửa đất số 175, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299/TTg) cho em trai
là ông Nguyễn T tiếp tục sử dụng (có Giấy viết tay lập ngày 12/03/2000) (ông
Nguyễn T và ông Cao Văn Đ là anh em cùng mẹ khác cha).
Đến năm 2004, thực hiện dự án Đa dạng hoá Nông nghiệp và phát triển
nông thôn trên địa bàn xã Đ, thửa đất số 175, tờ bản đồ số 9, diện tích 720m
2
(bản đồ 299/TTg) được đo đạc thành thửa đất số 260, tờ bản đồ 40, xã Đ, diện
tích 1.176m
2
(tăng 456m
2
so với diện tích trong bản đồ 299/TTg) do ông Cao
Văn Đ kê khai.
Quá trình thực hiện thu hồi đất, ngày 19/9/2023, UBND xã Đ họp xét
nguồn gốc đất, UBND xã Đ kết luận, đối với hộ ông Nguyễn T “phần đất có
công trình trên đất là đất của UBND xã quản lý” (bút lục 141).
[3.2] Tuy nhiên, như đã nhận định ở phần trên, việc ông Cao Văn Đ, sau
là ông Nguyễn T sử dụng thửa đất số 260, tờ bản đồ 40 xã Đ (nay thuộc tờ bản
đồ số 78, xã L), diện tích 1.176m
2
là ổn định, liên tục, không phát sinh tranh
chấp, UBND xã Đ trong quá trình quản lý đất đai tại địa phương cũng không
phát sinh bất kỳ thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn T hay
ông Cao Văn Đ. Quá trình tham gia tố tụng, UBND xã Đ (cũ) trình bày, tại thời
điểm thực hiện Nghị định 64/CP, hộ ông Cao Văn Đ được cân đối 520/720m
2
,
phần diện tích 200m
2
là đất ở không cân đối do UBND xã quản lý; nhưng đối
chiếu với tài liệu có trong hồ sơ vụ án, toàn bộ diện tích 720m
2
là do ông Cao
Văn Đ kê khai theo Chỉ thị 299/TTg là đất T; năm 2004 đo đạc lại bản đồ địa
chính thì ông Cao Văn Đ đăng ký kê khai thửa đất 260, diện tích 1.176m
2
; tại
thời điểm thu hồi đất, trên đất có phần nhà, vật kiến trúc của ông Nguyễn T đang
sử dụng và tại biên bản họp ngày 18/3/2025 (bút lục 96), UBND xã Đ (cũ) cũng
xác nhận: Tất cả công trình có trên diện tích đất bị ảnh hưởng dự án cao tốc Bắc
– Nam tại thửa đất nêu trên do ông Cao Văn Đ xây dựng trước năm 1990 và các
công trình đều phục vụ đời sống. Quá trình lập thủ tục trình thu hồi đất, UBND
xã Đ chỉ lập biên bản ngày 19/9/2023, Công văn số 162/UBND ngày 27/7/2023
để xác nhận phần đất có nhà ở, vật kiến trúc do ông Nguyễn T đang sử dụng để
xác định phần diện tích đất bị thu hồi có nhà ở thuộc thửa đất 175 là đất UBND
xã quản lý là chưa đủ cơ sở pháp lý vững chắc. Mặt khác, tại biên bản họp ngày
18/3/2025 (bút lục 96), UBND xã Đ (cũ) đã xác nhận: Tất cả công trình có trên
15
diện tích đất bị ảnh hưởng dự án cao tốc Bắc – Nam tại thửa đất nêu trên do ông
Cao Văn Đ xây dựng trước năm 1990 và các công trình đều phục vụ đời sống.
Do đó, việc UBND xã Đ (cũ) xác nhận nguồn gốc đất bị thu hồi, trong đó
có phần diện tích 200m
2
trong tổng diện tích 720m
2
mà ông Cao Văn Đ kê khai
là đất do UBND xã quản lý dẫn đến UBND huyện M ban hành Quyết định thu
hồi đất, thu hồi diện tích 473,3m
2
thuộc thửa đất 260 là chưa đúng quy định, ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn T.
Do đó, ông Nguyễn T yêu cầu hủy Quyết định thu hồi đất số 939/QĐ-
UBND ngày 16/12/2023 là có căn cứ, đúng quy định.
[3.3] Do việc UBND xã Đ (cũ) xác định nguồn gốc đất chưa đủ căn cứ
pháp lý nên việc Chủ tịch UBND xã Đ, Chủ tịch UBND huyện M thụ lý, không
chấp nhận nội dung khiếu nại của ông Nguyễn T (cụ thể, phần diện tích 200m
2
thuộc diện tích 720m
2
là đất UBND xã quản lý) là cũng chưa đảm bảo đúng quy
định. Ông Nguyễn T yêu cầu hủy các quyết định giải quyết khiếu nại là có căn
cứ.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện: Buộc Chủ tịch UBND huyện M và Chủ tịch
UBND xã Đ (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là Chủ tịch UBND xã L,
tỉnh Quảng Ngãi) thực hiện nhiệm vụ, công vụ ban hành Quyết định hành chính
về thu hồi đất đối với ông Nguyễn T theo đúng quy định của pháp luật. Như đã
nhận định tại phần trên, việc UBND huyện M ban hành Quyết định thu hồi đất
số 939/QĐ-UBND ngày 16/12/2023 là không đúng quy định nên ông Nguyễn T
khởi kiện, buộc Chủ tịch UBND huyện M và Chủ tịch UBND xã Đ (người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là Chủ tịch UBND xã L, tỉnh Quảng Ngãi) thực
hiện nhiệm vụ, công vụ ban hành Quyết định hành chính về thu hồi đất đối với
ông Nguyễn T theo đúng quy định của pháp luật là có căn cứ để Hội đồng xét xử
chấp nhận.
[5] Từ những căn cứ và nhận định trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T.
[6] Ý kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn T
phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng
xét xử.
[8] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên người
khởi kiện không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp
luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, Điều 59, Điều 115, điểm a
khoản 3 Điều 116, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều
206, khoản 1 Điều 348; Điều 358 Luật Tố tụng hành chính; Điều 8, Điều 11,
16
Điều 22, Điều 62, Điều 63, Điều 66, Điều 67, Điều 69, Điều 71, Điều 74, Điều
75, Điều 76, Điều 77, Điều 100 và Điều 103 Luật Đất đai năm 2013; Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật Đất đai; các Điều 17, 21, 27, 29, 30, 31, 33, 36, 37, 38, 39 và Điều 40 Luật
Khiếu nại; Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý
và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T:
- Hủy Quyết định số 92/QĐ-UBND ngày 28/3/2024 của Chủ tịch UBND
xã Đ về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Nguyễn T.
- Hủy Quyết định số 3467/QĐ-UBND ngày 23/8/2024 của Chủ tịch
UBND huyện M về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của ông Nguyễn T (địa
chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện M).
- Hủy Quyết định số 939/QĐ-UBND ngày 16/12/2023 của UBND huyện
M, tỉnh Quảng Ngãi về việc thu hồi đất để thực hiện Tiểu dự án bồi thường, hỗ
trợ tái định cư thành phần Quảng Ngãi - H thuộc Dự án công trình cao tốc Bắc –
Nam phía đông giai đoạn 2021 - 2025 qua địa bàn xã Đ (nay là xã L).
- Buộc Chủ tịch UBND huyện M và Chủ tịch UBND xã Đ (người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là Chủ tịch UBND xã L, tỉnh Quảng Ngãi) thực
hiện nhiệm vụ, công vụ ban hành Quyết định hành chính về thu hồi đất đối với
ông Nguyễn T theo đúng quy định của pháp luật.
2. Về án phí: Hoàn trả lại cho ông Nguyễn T 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0000450 ngày 31/3/2025 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi (nay là
Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi).
Chủ tịch UBND xã L (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của UBND,
Chủ tịch UBND xã Đ), Chủ tịch UBND tỉnh Q (người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng của Chủ tịch UBND huyện M), mỗi đương sự phải chịu 300.000 đồng
án phí hành chính sơ thẩm.
3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Các đương sự;
- THADS sự tỉnh Quảng Ngãi;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Công Diễn
17
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm