Bản án số 46/2024/HS-ST ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Long An

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 46/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 46/2024/HS-ST ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Long An
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 46/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/08/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Xử phạt bị cáo 07 năm tù
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 46/2024/HS-ST
Ngày: 29-8-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thiện Tâm
Thẩm phán: Ông Lê Hùng Cường
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Quang Diệu
Bà Nguyễn Thị Thủy
Ông Lê Phước Dũng
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Ánh Tuyết – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Sỹ Diệu - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét
xử thẩm, công khai ván hình sự thụ số 47/2024/TLST-HS ngày 22 tháng
7 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2024/QĐXXST-HS
ngày 01 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo:
Ngọc N, sinh ngày 12/9/1992, tại tỉnh Long An. Nơi trú: Ấp B,
T, huyện T, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ học vấn: 5/12; dân
tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông
Ngọc P, sinh năm 1968 Đào Thanh D, sinh năm 1975; vợ Nguyễn Thị
Trúc Ư, sinh năm 1994; con 02 người, sinh năm 2018 và sinh năm 2020; tiền án,
tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/12/2023 cho đến nay, mặt tại phiên
tòa.
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Ngc N: Luật sư Nguyễn Minh
T Thành viên Đoàn luật sư tỉnh L. (Vắng mặt, có bài bào chữa)
- Người bị hại: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp B, L,
huyện T, tỉnh Long An. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn T1,
sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyn T, tnh Long An. (Có mặt)
2
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện T, tỉnh
Long An. (Vắng mặt)
2. Ông Phan Minh N1, sinh năm 2000. Địa chỉ: Ấp V, xã T, huyện T, tỉnh
Long An. (Vắng mặt)
3. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh
Bến Tre. (Có mặt)
4. Ông Nhựt L, sinh năm 1997. Địa chỉ: p B, T, huyn T, tnh
Long An. (Vắng mặt)
5. Ông Phạm Văn L1, sinh năm 1999. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn T,
huyện T, tỉnh Long An. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 28/7/2023, Ngọc N được Nguyễn Văn K
điện thoại rủ đến nhà bạn của K tên N2 tại ấp B, T, huyện T đuống
rượu. Nhà của N2 cách nhà của N khoảng 100 mét, nên N đi bộ đến. Tại đây, có
vợ chồng chủ nhà, K, Bùi Văn C cùng 03 người khác uống bia với nhau. Nha
ngồi gần C và K, nên C hỏi N “có quen người nào tên Q1 không?”, N nói không
biết, nhưng C vẫn hỏi N nhiều lần. C mở điện thoại để cho N xem hình Quẹo, N
vẫn nói không biết.
Khoảng 20 phút sau, N đi về nhà uống rượu chung với Nguyễn Văn Q và
Phan Minh N1. Nha điện thoại rủ K đến uống rượu chung. Khoảng 10 phút sau,
K C đến. Khi ngồi chung bàn uống bia, C mời những người trong bàn
nhưng không cụng ly với N. Khoảng 15 phút sau, C bảo K đi về. Sau đó, C đi bộ
ra ngồi lên xe đang đậu trước cổng nhà của N để đợi K. Lúc này, N nhớ
lại chuyện trước đây C cùng với bạn nhiều lần đến nhà N đòi nợ, nên N tức giận,
N nhặt lấy 01 thanh kim loại (sắt) hình hộp dài 55cm, kích thước (04 x 02)cm
để
đi ra đánh C. Khi C đang ngồi trên xe tô, quay lưng vào phía cổng nhà, N
dùng thanh sắt đánh nhiều cái từ trên xuống, trúng 01 cái vào vùng đầu bên trái,
01 cái vào vùng lưng của C gây thương tích. C bỏ chạy ra hướng lộ khoảng 03m
thì bị ngã, N vứt bỏ cây sắt, dùng tay phải đấm nhiều cái vào vùng mặt của C
làm gãy răng, gãy xương cánh mũi trái và gãy thành xoang hàm trái. Sau đó,
mới được mọi người can ngăn, nhìn thấy C bchảy máu, nên N dừng lại. C tự
điều khiển xe đến Trung tâm y tế huyện T để kiểm tra vết thương. Sau đó được
chuyển đến Bệnh viện ĐBệnh viện C1 để tiếp tục điều trị.
Tại bản Kết luận giám định thương tích số: 286/KLTTCT-TTPY ngày
14/9/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh L, kết luận thương tích của Bùi Văn C,
như sau:
1. Các kết quả chính: Gãy mất răng số R22; 01 sẹo nhỏ vùng lưng trái;
3
Gãy xương cánh mũi trái (tháp mũi); Gãy thành xoang hàm trái. Xuất huyết não
rãnh thái dương trái đã điều trị ổn không còn hình ảnh tổn thương.
2. Kết luận: Căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y
quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương thể sử dụng trong giám định pháp y,
giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương thể của Bùi
Văn C tại thời điểm giám định là 24% (hai mươi bốn phần trăm), áp dụng
phương pháp công tại Thông tư.
Kết luận khác: Không.
Tại Công văn số: 399/TTPY-GĐTH ngày 20/12/2023, của Trung tâm
giám định tỉnh L về phân tích kết luận giám định số: 286/KLTTCT-TTPY ngày
14/9/2023 nêu trên thể hiện: Với tình trạng thương tích của Bùi Văn C nếu
không được cấp cứu kịp thời thì có thể dẫn đến tử vong.
Vt chng thu gi trong v án gm: 01 thanh kim loại hình hộp chữ nhật
rỗng, kích thước (04 x 02)cm, dài 55cm; 01 áo mi sọc ca màu nâu-xanh;
01 áo khoác màu nâu đen trên áo có chữ “GLORIOUS”.
Tại Bản cáo trạng số 52/CT-VKSLA-P2 ngày 17-7-2024 của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Long An, đã truy tố bị cáo Lê Ngọc N về tội “Giết người” theo
quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Bị cáo Ngọc N trình bày: Thương tích của bị hại Bùi Văn C xảy ra
vào chiều ngày 28/7/2023 là do bị cáo gây ra. Về ý thức của bị cáo lúc đó không
có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại, mà do không kiềm chế được bản
thân sau khi đã uống rượu bia nên bị cáo đã sử dụng 01 thanh kim loại dài
55cm, kích thước (04 x 02)cm đánh trúng vào vùng đầu, lưng và sau đó dùng tay
đánh nhiều cái vào vùng mặt của người bị hại. Bị cáo không có ý kiến gì về Cáo
trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã truy tố bị cáo phạm tội “Giết
người” đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Bị cáo không khiếu nại gì về các quyết
định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, hành vi tố tụng của người tiến hành
tố tụng đối với bị cáo trong hoạt động điều tra và truy tố vụ án đối với bị cáo.
- Bị hại Bùi Văn C trình bày: Thương tích của bhại xảy ra vào chiều
ngày 28/7/2023 do bị cáo N gây ra một phần, một phần do những người khác
gây ra, nhưng ai gây ra vết thương nào người nào thì bị hại không xác định
được. Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổng stiền 125.380.000 đồng, gồm các
khoản chi phí như: tiền thuốc cấp cứu, tiền thuê xe đi lại, tiền công lao động,
tiền công người nuôi bệnh, tiền tổn thất tinh thần. Gia đình bị cáo đã bồi thường
trước số tiền 50.000.000 đồng, nên chỉ yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền
75.380.000 đồng. Đối với chi phí trồng răng bị hại C chưa yêu cầu xem xét,
đến nay bị hại chưa trồng răng nên chưa xác định được chi phí cụ thể bao
nhiêu. Về trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo đúng
quy định của pháp luật.
4
- Bị cáo đồng ý bồi thường các khoản chi phí theo yêu cầu của bị hại Bùi
Văn C như trên.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 trình bày:
Ông T1 cha vợ của bị cáo N. Trước đây, bị cáo N nhờ ông T1 bồi thường
trước cho ông C stiền 50.000.000 đồng. Số tiền này, ông T1 không yêu cầu
xem xét trả lại cho ông.
- Người làm chứng ông Nguyễn Văn Q trình bày: Lúc bị cáo N đánh ông
C bằng thanh kim loại thì ông Q không có chứng kiến, chỉ chứng kiến đánh bằng
tay vào vùng mặt của ông N. Ngoài bị cáo N đánh ông C thì không ai tham
gia đánh ông C.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa, phát
biểu luận tội về hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố
của Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc N phạm tội “Giết người”;
Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 50; Điều 15; Điều 57 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Ngọc N từ 07 năm đến 09 năm tù.
Thời hạn được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 18/12/2023. Không
áp dụng hình phạt bổ sung.
- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ghi nhận thoả
thuận tại phiên toà giữa bị cáo với người bị hại.
- Vphần xử vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ: 01 thanh kim loại hình hộp
chữ nhật rỗng, kích thước (04 x 02)cm, dài 55cm; 01 áo mi sọc ca màu
nâu-xanh; 01 áo khoác màu nâu đen trên áo chữ “GLORIOUS vật không
còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Bài bài chữa của Luật bào chữa chỉ định cho bị cáo Lê Ngọc N nội
dung: Thống nhất về tội danh các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài ra, còn phân tích
thêm vnguyên nhân, điều kiện dẫn đến bị cáo phạm tội đề nghị Hội đồng
xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt.
Bị cáo, người bị hại, ngưi có quyn li nghĩa v liên quan đến vụ án
không tranh lun.
Li nói sau cùng: B cáo xin lỗi bị hại xin Hội đng xét x xem xét
gim nh hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
5
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra Công an tỉnh L,
Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Trong
quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định
của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng, xét hồ sơ vụ án đã có đầy đủ
lời khai, quá trình điều tra phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ. Do đó, việc
vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ vào Điều 293 Bộ
luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] V hành vi phm ti ca b cáo: Xét, lời khai nhận của bị cáo Lê Ngọc
N tại phiên tòa, phù hợp với: Lời khai của bị cáo tại quan Cảnh sát điều tra;
lời khai của người bhại; người làm chứng; Biên bản khám nghiệm hiện trường
vụ án; Biên bản thu giữ vật chứng; các kết luận giám định và cùng các chứng cứ
khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Với các tình tiết của vụ
án đã được chứng minh tại phiên tòa, xét có đủ cơ sở kết luận rằng:
Bị cáo Lê Ngọc N là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Chiều ngày 28/7/2023 tại ấp B, T, huyện T, tỉnh Long An giữa bị cáo
N với bị hại Bùi Văn C uống rượu chung với nhau cùng với một số người bạn,
nhưng không có xảy ra mâu thuẫn gì với nhau. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, bị
hại C đi về đi ra xe ngồi đợi bạn ra để chở về. Bị cáo N với bản chất hung
hăng, côn đồ khi nhớ lại chuyện trước đây cho rằng bị hại C cùng một số người
khác đến nhà của bị cáo để đòi nợ nhiều lần, nên đã dùng 01 thanh kim loại (có
đặc điểm: dài 55cm, kích thước 04 x 02cm, loại hung khí nguy hiểm), đánh
nhiều cái từ phía sau của người bị hại, theo hướng từ trên đánh xuống đã trúng
vào vùng đầu (là vùng trọng yếu trên cơ thể người) và lưng của bị hại. Bị hại bỏ
chạy, bị vấp ngã, bị cáo không dừng lại dùng tay tiếp tục đánh nhiều cái vào
vùng mặt của người bị hại cho đến khi người can ngăn. Hậu quả bị hại C bị
xuất huyết não rãnh thái dương trái, gãy mất răng số 22, gãy xương cánh mũi
trái, gãy thành xoang hàm trái với tổng tỷ lệ thương tích 24%. Hành vi nêu trên
của bị cáo thể hiện sự quyết liệt tấn công người bị hại. Tại Công văn số
399/TTPY-GĐTH ngày 20/12/2023 Công văn số 274/TTPY-GĐTH ngày
06/8/2024 của Trung tâm P Sở Y1, xác định thương tích “xuất huyết não rãnh
thái dương trái” của bị hại C do bị cáo gây ra nếu không được cấp cứu kịp thời
thì thể dẫn đến tử vong. Do đó, việc bị hại không chết ngoài ý thức chủ
quan của bị cáo. Căn cứ vào Án lệ số 47/AL/2001 của Tòa án nhân dân tối cao.
Hành vi như trên của bị cáo N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” được quy
định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự, thuộc trường hợp phạm tội
chưa đạt và được quy định như sau:
6
“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
….
n) Có tính chất côn đồ;
Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã truy tố bị
cáo Ngọc N phạm tội “Giết người” căn cứ, đúng người, đúng tội
đúng pháp luật. Bị hại C cho rằng còn đồng phạm khác với bị cáo N,
không có căn cứ, nên không được chấp nhận.
[4] Tội phạm do bị cáo gây ra đặc biệt nguy hiểm cho hội, đã trực
tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ.
Ngoài ra, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.
Hội đồng xét xử xét thấy cần phải mức án tương xứng đối với bcáo, nhằm
mục đích răn đe, giáo dục riêng phòng ngừa chung trong hội. Tuy nhiên,
khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, cũng cần phải xem xét đến các tình tiết
tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[5.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không
có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ
luật Hình sự.
[5.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án
cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi
phạm tội; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục một phần hậu quả
cho người bị hại; lao động chính nuôi 02 người con nhỏ; vợ của bị cáo mắc
bệnh tâm thần. Đây các tình tiết giảm trách nhiệm hình sự được quy định tại
các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về quyết định hình phạt đối với bị cáo: Căn cứ vào nhân thân, tính
chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra cùng các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trên, xét thấy mức hình phạt và loại hình phạt
như đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia đề nghị áp dụng đối
với bị cáo phù hợp và tương xứng nên ghi nhận xem xét. Những ý kiến, quan
điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo một phần phù hợp với nhận định trên
của Hội đồng xét xử, nên được ghi nhận để xem xét.
[7] Xét thy, hành vi phm ti ca b cáo không liên quan đến ngh
nghip ca b cáo, nên không cn áp dng hình pht b sung theo quy định tại
khoản 4 Điều 123 B lut Hình s.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 584, 585, 586 591 Bộ
luật Dân sự. Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo và người bị hại đã thỏa thuận được với
nhau về trách nhiệm dân shoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của
pháp luật, nên ghi nhận. Buộc bị cáo Ngọc N trách nhiệm bồi thường cho
bị hại Bùi Văn C tổng số tiền 125.380.000 đồng, khấu trừ số tiền đã bồi thường
7
trước 50.000.000 đồng, nên bị cáo còn phải bồi thường số tiền 75.380.000
đồng. Đối với chi phí trồng răng, nếu sau khi bị hại C thực hiện xong, các bên
không tự thoả thuận được với nhau, bị hại C quyền khởi kiện để được giải
quyết bằng vụ án dân sự theo quy định của pháp luật.
Đối với số tiền 50.000.000 đồng ông Trung đại d bị cáo N bồi thường
trước cho bhại C, tại phiên tòa ông T1 không yêu cầu xem xét nên không xét
đến.
[9] V vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2021 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017, xét: Đối với 01 thanh kim loại hình hộp chnhật rỗng, kích thước
(04 x 02)cm, dài 55cm; 01 áo sơ mi sọc ca màu nâu-xanh; 01 áo khoác màu
nâu đen trên áo có chữ “GLORIOUS” tại phiên toà không ai có yêu cầu nhận lại,
xét thấy không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.
[10] Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình s các
Điều 23, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Ngọc N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự thẩm và
3.769.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Ngọc N phm tội “Giết người” thuộc trường hợp
phạm tội chưa đạt.
Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 38; Điều 50: Điều 15; Điều 57 khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình
sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc N 07 (B) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt
tạm giam 18/12/2023.
Áp dụng: Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2021, tiếp tục tạm giam bị cáo Ngọc N 45 ngày kể từ ngày tuyên án
thẩm 29/8/2024 để đảm bảo thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 584, 585, 586 591 Bộ
luật Dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Lê Ngọc N có trách nhiệm bồi thường cho bị
hại Bùi Văn C tổng số tiền 125.380.000 đồng, khấu trừ số tiền đã bồi thường
trước 50.000.000 đồng, nên bị cáo còn phải bồi thường số tiền 75.380.000
đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho
đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
8
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2021 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017.
Tịch thu tiêu hủy: 01 thanh kim loại hình hộp chữ nhật rỗng, kích thước
(04 x 02)cm, dài 55cm; 01 áo sơ mi sọc ca màu nâu-xanh; 01 áo khoác màu
nâu đen trên áo có chữ “GLORIOUS”
(Vật chứng tài sản trên được Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An
đang quản theo Quyết định chuyển vật chứng số: 292/QĐ-VKSLA-P2 ngày
17-7-2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An; Biên bản giao nhận vật
chứng ngày 19-7-2024 giữa quan Cảnh sát điều tra Cục Thi hành án Dân
sự tỉnh Long An).
4. Ván phí: Buộc bị cáo Ngọc N phải nộp 200.000 đồng án phí hình
sự sơ thẩm và 3.769.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày tuyên án.
6. Vhướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi
hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
qui định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP.HCM (01);
- VKSNDCC tại TP.HCM (01);
- VKSND tỉnh Long An (01);
- Cục THADS tỉnh Long An (01);
- CQĐT Công an tỉnh Long An (01);
- Sở Tư pháp tỉnh Long An (01);
- Bị cáo;
- Người TGTT;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Thiện Tâm
Tải về
Bản án số 46/2024/HS-ST Bản án số 46/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 46/2024/HS-ST Bản án số 46/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất