Bản án số 442/2025/HC-PT ngày 17/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 442/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 442/2025/HC-PT ngày 17/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 442/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/04/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 442/2025/HC-PT
Ngày 17 - 4 - 2025
V/v “Khiếu kiện quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tửu
Ông Lê Thành Long
Ông Hà Huy Cầu
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ba Duy - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại Trụ sTòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số:
949/2024/TLPT-HC ngày 05 tháng 11 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 336/2024/HC-ST ngày 30 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3453/2024/QĐ-PT ngày
11 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Ngưi khi kin: Bà Trần Thị K, sinh năm 1982 (vắng mặt);
Địa chỉ: 2 P, Phường F, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngưi đại diện theo ủy quyền của ngưi khi kiện: Bà Nguyễn Bảo N, sinh
năm 1992 (có mặt);
Địa chỉ: Lầu A, số B T, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngưi bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ngưi khi kiện: Luật
Xuân T - Luật sư của Công ty L, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (vắng mặt).
- Ngưi bị kiện: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (gọi tắt Chủ tịch UBND”)
Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ trụ sở: D D, Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngưi đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch U: Ông Phạm Quang T1; Chức
2
vụ: Phó Chủ tịch U (vắng mặt);
Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chủ tịch U: Ông Thái Thành
T2; Chức vụ: Phó trưởng Phòng T4 (có mặt).
- Ngưi kháng cáo: Người khởi kiện bà Trần Thị K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung quá trình ttụng, người
khởi kiện Trần Thị K người đại diện theo ủy quyền Nguyễn Bảo N
trình bày:
Năm 2002, ông Văn H sang nhượng cho K phần diện tích đất
ngang 3,5m x 10m thuộc một phần thửa đất s 08 tờ bản đồ s 84 với giá
90.000.000 đồng. Sau đó, tháng 02/2018 K tiếp tục nhận chuyển nhượng thêm
một phần diện tích đất ngang 1,5m theo hướng T cũng nằm một phần thửa đất số
08 tờ bản đồ số 84 tọa lạc tại đường P, Phường F, Quận H của ông Lê Văn H với
số tiền 22.000.000 đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình K về đây
cất nhà cấp 4 và sinh sống ổn định từ đó tới nay.
Ngày 28/8/2023, Ông Thành P - Cán bộ Địa chính - xây dựng - đô thị
và môi trường thuộc U, Quận H lập Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất
đaivới nội dung K đã các hành vi vi phạm hành chính: Chiếm đất nông
nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất
rừng sản xuất tại khu vực đô thị, diện tích đất chiếm dưới 0,05 héc ta (cụ thể diện
tích 40m
2
) tại địa chỉ không số đưng P, Phưng F, Quận H, Thành phố Hồ Chí
Minh, thuộc một phần thửa đất số 8, t bản đồ số 84 Bản đồ địa chính, Phưng 6
vẽ theo hiện trạng số 03/BVHT do Công ty TNHH D lập ngày 19/06/2023.”. Việc
lập Biên bản vi phạm này được thực hiện lúc 11 giờ 25 phút ngày 28/8/2023, thời
điểm này K không mặt tại nhà. Sau đó, ngày 08/9/2023, Chủ tịch U ra Quyết
định số 363/-XPHC ngày 08/9/2023 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai với nội dung:
- Xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Thị K đã thực hiện hành vi
vi phạm hành chính: Chiếm đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất rừng
đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực đô thị với diện tích
đất chiếm dưới 0,05 héc ta (cụ thể diện tích 40m
2
) theo Bản vẽ hiện trạng s
03/BVHT do Công ty TNHH D lập ngày 19/06/2023.
- Phạt tiền: Số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).
- Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc K phải khôi phục lại tình trạng
ban đầu của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại đất đã chiếm quy định tại điểm
a khoản 7 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019; Buộc K
nộp lại số lợi bất hợp pháp được do hành vi vi phạm vi số tiền 8.032.841
đồng (tám triệu không trăm ba mươi hai nghìn tám trăm bốn mươi mốt đồng) quy
định tại điểm d khoản 7 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019
(sau đây gọi tắt là “Quyết định số 363/QĐ-XPHC”).
Việc Chủ tịch U ra Quyết định số 363/QĐ-XPHC đối với bà K là không có
3
sở, không đúng với thực tế quy định của pháp luật, đã vi phạm rất nghiêm
trọng quyền, lợi ích hợp pháp của bà K bởi: Nguồn gốc đất là do bà K nhận sang
nhượng hợp pháp từ ông Lê Văn H từ năm 2002 tới nay gia đình bà K quản lý, sử
dụng ổn định hợp pháp trong phần diện tích đất K nhận chuyển nhượng. Gia
đình K không bất kỳ hành vi lấn chiếm đất nào như nội dung Biên bản vi
phạm hành chính về lĩnh vực đất đai do U, Quận H lập ngày 28/8/2023.
Ngày 18/12/2023, dựa vào Quyết định s363/QĐ-XPHC, Chủ tịch U tiếp
tục ban hành Quyết định s547/QĐ-CCXP về cưỡng chế buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu (sau đây gọi tắt là “Quyết định số 547/QĐ-CCXP”).
Không đồng ý với Quyết định số 547/QĐ-CCXP nên K đã khiếu nại.
Ngày 10/4/2024, Chủ tịch U ban hành Quyết định số 1594/QĐ-UBND về việc
giải quyết khiếu nại của Trần Thị K (lần đầu): Không công nhận nội dung khiếu
nại của bà K (sau đây gọi tắt là “Quyết định số 1594/-UBND”).
Việc Chủ tịch U, Thành phố HChí Minh ban hành các Quyết định nêu
trên không s, không đúng với thực tế quy định của pháp luật đã vi
phạm rất nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của K nên bà K đề nghị Toà án
xem xét:
- Huỷ Quyết định số 363/QĐ-XPHC.
- Hủy Quyết định số 547/QĐ-CCXP.
- Hủy Quyết định số 1594/QĐ-UBND.
- Người bị kiện Chủ tịch U, Thành phố Hồ Chí Minh văn bản trình
bày ý kiến như sau:
Nguồn gốc khu đất tại địa chỉ không số, đường P, Phưng F, Quận H thuộc
phần thửa đất số 6, 8 tờ bản đồ số 84 theo tài liệu 2002, diện tích 1.169,1m
2
(thuộc
thửa số 67, 68, tờ bản đồ số 1 theo Chỉ thị s02/CT-UB) nguồn gốc do Hợp
tác xã Chiến Thắng quản lý, giao khoán cao cho hộ Ung Thị T3 sử dụng. Căn
cứ Kết luận số 2810/KL-UBND ngày 08/11/2017 của U về việc kiểm tra tình hình
quản lý, sử dụng đất nguồn gốc do Hợp tác C (khoán cao) tại U trong kết
luận có nêu: “… Tại khu đất thuộc phần thửa số 6, 8 t bản đồ số 84 theo Tài liệu
2002, diện tích 1.169,1m
2
(thuộc thửa số 67, 68, tbản đồ số 1 theo Chỉ thị số
02/CT-UB), giao khoán cao cho hộ Ung Thị T3 sử dụng, phát sinh xây dựng
nhà tạm cột gỗ, vách ván, tôn, mái tôn trên toàn bộ khu đất. Hiện nay, trên khu
đất này ông H (cháu Ung Thị T3) đã chia nhỏ các phần đất bán lại bằng
giấy tay cho nhiều ngưi xây nhà tạm...”.
- Giao Chủ tịch U, Quận H nhanh chóng có biện pháp xử lý, khắc phục hậu
quả theo quy định đối với 05 khu đất khoán cao phát sinh xây dựng không phép
báo cáo kết quả trước ngày 31/12/2017.
Căn cứ Kết luận thanh tra số 2810/KL-UBND ngày 08/11/2017 của U.
Ngày 02/3/2023, U, Quận H Biên bản làm việc với Hợp tác Chiến Thắng
liên quan đến khu đất nguồn gốc do Hợp tác C quản lý. Theo đó, ông Hồ
Văn Đ đại diện Hợp tác C xác định khu đất thuộc một phần thửa 8 tờ 84 Bản
4
đồ địa chính (nhằm một phần thửa 67 tờ bản đồ 01 - theo Tài liệu 02/CT-UB)
Phường F, Quận H do Hợp tác giao khoán (khoán cao) cho bà Ung Thị T3 canh
tác, bà T3 đã chết, cháu bà T3 là ông Văn H tiếp tục canh tác và tự ý bán một
phần đất cho một số hộ dân không thông qua Hợp tác xã, các hộ này tự lấn chiếm
xây dựng nhà không phép.
Ngày 10/3/2023, U, Quận H lập Biên bản làm việc vớiTrần Thị K yêu
cầu tkhắc phục công trình xây dựng nhà không phép lấn chiếm đất công do
Nhà nước quản trước ngày 30/3/2023 nhưng Trần Thị K không tên vào
Biên bản làm việc.
Căn cứ Biên bản làm việc ngày 02/3/2023 với Hợp tác C Biên bản
làm việc ngày 10/3/2023 với Trần Thị K, U, Quận H xác định Trần Thị K
đã chiếm đất nông nghiệp không phải đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng
phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực đô thị và xây dựng nhà không phép thời
điểm từ ngày 01/12/2016.
Ngày 28/8/2023, U, Quận H lập Biên bản vi phạm hành chính số 05/BB-
VPHC về hành vi vi phạm chiếm đất nông nghiệp tại khu vực đô thị, diện tích đất
chiếm dưới 0,05 héc ta (cụ thể diện tích 40m
2
) tại địa chỉ không số, đường P,
Phường F, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; thuộc một phần thửa 8 tờ 84 Bản
đồ địa chính (nhằm một phần thửa 67, 68 tờ bản đồ 01 - theo Tài liệu 02/CT-UB)
Phường F, Quận H (theo Bản vẽ hiện trạng số 03/BVHT do Công ty Trách nhiệm
hữu hạn D lập ngày 19/6/2023) đối vớiTrần Thị K.
Căn cứ khoản 1 Điều 12 Luật Đất đai năm 2013, bà Trần Thị K có hành vi
vi phạm hành chính như sau:
Điều 12. Những hành vi bị nghiêm cấm:
1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai.”
Căn cứ Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, tại điểm a khoản 2 Điều 3 quy
định:
Điều 3. Giải thích từ ngữ.
2. Chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc một trong các trưng hợp sau đây:
a) Tự ý sử dụng đất không được cơ quan quản lý nhà ớc về đất đai
cho phép”.
Căn cứ điểm a khoản 2 khoản 5 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP
ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong nh vực đất
đai quy định:
2. Trưng hợp lấn, chiếm đất nông nghiệp không phải đất trồng lúa,
đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực nông thôn
thì hình thức và mc xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với diện tích đất
lấn, chiếm dưới 0,05 héc ta;
5
5. Trưng hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp, đất phi nông
nghiệp (trừ trưng hợp quy định tại khoản 6 Điều này) tại khu vực đô thị thì mức
xử phạt bằng 02 lần mức xử phạt đối với loại đất tương ng quy định tại các
khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này và mức phạt tối đa không quá 500.000.000 đồng đối
với cá nhân, không quá 1.000.000.000 đồng đối với tổ chức”.
Mức phạt tiền đối với bà Trần Thị K được tính như sau:
- Mức phạt hành vi chiếm đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất
rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất diện tích dưới 0,05 héc ta:
từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng;
- Mức phạt tại khu vực đô thị: từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng;
- Như vậy, mức phạt chiếm đất nông nghiệp tại đô thị: [(6.000.000 đồng +
10.000.000 đồng)/2] = 8.000.000 đồng (tám triệu đồng);
Căn cứ Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, tại điểm a, điểm d, khoản 7
Điều 14 quy định:
“… 7. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với
các hành vi vi phạm tại các khoản 1, 2, 3, 4 và khoản 5 của Điều này và buộc trả
lại đất đã lấn, chiếm; tr trưng hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản này;
d) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp được do thực hiện hành vi vi phạm
quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 5 Điều y; slợi bất hợp pháp được xác định
theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Ngh định này…”
Căn cứ khoản 2 Điều 1 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong nh vực đất đai; tài nguyên nước và khoáng sản; khí tượng thủy
văn; đo đạc và bản đồ;
Căn cứ Quyết định số 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020 của UBND
Thành phố H về ban hành Quy định về Bảng giá đất trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 2020-2024;
Căn cứ Hướng dẫn số 4114/HDLCQ-STNMT-STC-SXD-CT ngày
28/5/2020 của Sở T5, Sở T6, Sở Xây dựng, Cục T7 về việc áp dụng Bảng giá các
loại đất ban hành kèm theo Quyết định số 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020
của UBND Thành phố;
Căn cứ Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 04/2022/-CP ngày 06/01/2022 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong nh vực đất đai; tài nguyên nước và khoáng sản; khí tượng thủy
văn; đo đạc bản đồ: “… Việc nộp số lợi bất hợp pháp được do thực hiện
hành vi vi phạm đã xảy ra trước ngày Nghị định số 91/2019/NĐ-CP hiệu lực
6
thi hành chỉ áp dụng đối với các hành vi vi phạm các Nghị định xphạt vi
phạm hành chính về đất đai trước đây (trước Nghị định số 91/2019/NĐ-CP)
quy định phải nộp số lợi bất hợp pháp. Thi gian xác định số lợi bất hợp pháp
phải nộp chỉ tính tkhi Nghị định quy định hành vi vi phạm phải nộp số lợi
bất hợp pháp có hiệu lực thi hành hoặc tính từ ngày xảy ra vi phạm nếu vi phạm
xảy ra sau ngày Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về đất đai đầu tiên có quy
định phải nộp số lợi bất hợp pháp đã hiệu lực. Việc xác định số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm được thực hiện theo quy định tại Nghị
định này”.
Theo đó, số lợi bất hợp pháp đối với bà Trần Thị K được tính như sau:
- Giá trị của 40m
2
(căn cứ Bản vẽ hiện trạng do Công ty Trách nhiệm hữu
hạn D lập ngày 19/6/2023) tính theo giá đất thuộc vị t4 (đường P, đoạn từ Cầu
N đến Cầu B): 40 * 12.000.000 đồng * 0.5 * 0.8 * 0.8 = 153.600.000 đồng.
- Số năm vi phạm từ ngày 05/01/2020 đến ngày 28/8/2023: (0.0028 * 251
ngày) + 3 năm = 3,6608.
- Như vậy, số lợi bất hợp pháp được do thực hiện hành vi vi phạm chiếm
đất nông nghiệp tại khu vực đô thị buộc Trần Thị K phải nộp là: 8.032.841 đồng.
Căn cứ những quy định pháp luật, Chủ tịch UBND Quận 8 ban hành Quyết
định số 363/-XPHC ngày 08/9/2023 về xử phạt vi phạm hành chính trong nh
vực đất đai đối với hành vi vi phạm hành chính của Trần ThK đúng quy
định pháp luật.
Để đảm bảo thi hành Quyết định số 363/QĐ-XPHC, sau thời gian cho tự
nguyện chấp hành biện pháp khắc phục hậu quả nhưng bà Trần Thị K không chấp
hành, Chủ tịch U ban hành Quyết định số 547/-XPHC ngày 18/12/2023 về
cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
Ngày 22/12/2023, Trần Trần Thị K đơn khiếu nại yêu cầu xem xét,
hủy bỏ Quyết định số 547/QĐ-XPHC. Qua xác minh, Chủ tịch U ban hành Quyết
định số 1594/-UBND ngày 10/4/2024 về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần
Thị K (lần đầu) không công nhận nội dung khiếu nại của bà Trần Thị K theo đơn
ghi ngày 22/12/2023.
Từ nhữngsở trên, Chủ tịch U yêu cầu Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của
Trần Thị K.
Tại Bản án hành chính thẩm s336/2024/HC-ST ngày 30 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:
Căn cứ các Điều 30, 32, 60, 116, 158, Điều 193 và 206 Luật Tố tụng hành
chính 2015;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
Căn cứ Luật Khiếu nại năm 2011;
Căn cứ Nghị định s 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ;
7
Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022 của Chính phủ; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thưng vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị K, gồm:
- Huỷ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 363/QĐ-XPHC ngày
08/9/2023 của Chủ tịch U, Thành phố Hồ C Minh.
- Hủy Quyết định số 547/QĐ-CCXP ngày 18/12/2023 của Chủ tịch U, thành
phố Hồ Chí Minh về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 1594/QĐ-UBND ngày 10/4/2024
của Chủ tịch U, Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần
Thị K (lần đầu).
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng o theo luật
định.
Ngày 09 tháng 8 m 2024, người khởi kiện Trần Thị K đơn kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
do kháng cáo: Tòa thẩm xét xử là chưa xem xét đầy đủ tính hợp pháp,
trình tự, thủ tục ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Mức phạt hành
chính áp dụng không phù hợp, không đúng đối tượng đã xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của Trần Thị K.
thế, bà K kháng o yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa án sơ
thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của K, hủy các quyết định hành
chính bị kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Ngưi kháng cáo Trần Thị K ngưi đại diện hợp pháp bà Nguyễn
Bảo N, trình bày: Ginguyên yêu cầu khởi kiện cùng c lý do và yêu cầu kháng
cáo của người khởi kiện Trần Thị K như đã nêu trên. Yêu cầu kháng cáo của
K là căn cứ, cụ thể: Quyết định 363/QĐ-XPHC áp dụng pháp luật không
còn hiệu lực tại thời điểm ban hành do thời điểm ban hành thì Nghị định
91/2019/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 04/2022/NĐ-CP nhưng
cấp thẩm không áp dụng Nghị định 04/2022/ -CP; Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 363/QĐ-XPHC ban hành khi thời hiệu xử phạt đã hết vi phạm
Điều 4 Nghị định 91/2019/NĐ-CP; hành vi của ông Văn H đủ yếu tố cấu
thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sảntheo Điều 174 Bộ luật Hình sự thuộc
trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính ông H tự ý sử dụng
đất Hợp tác xã Chiến Thắng để chia nhỏ, liên tục bán cho các hộ dân trong khi đất
không thuộc quyền sử dụng của ông H; đất là của Hợp tác Chiến Thắng, Hợp
tác xã không yêu cầu UBND giải quyết việc người dân lấn chiếm đất của Hợp tác
xã thì việc U và U xử lý vi phạm hành chính đối với bà K là vượt quá quyền hạn;
Quyết định 363/QĐ-XPHC phạt tiền K 8.000.000 đồng là không đúng quy định
tại Điều 5 Nghị định 91/2019/NĐ-CP, hình thức xử phạt bổ sung khắc phục hậu
8
quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp với số tiền 8.032.841 đồng, tính theo quy
định tại điểm d khoản 7 Điều 14 Nghị định 91/2019/-CP không đúng quy
định của pháp luật tại thời điểm ban hành quyết định; trình tự, thủ tục ban hành
quyết định vi phạm quy định tại Điều 12 Nghị định 118/2021/NĐ-CP do Biên bản
vi phạm hành chính số 05/BB-VPHC của U lập ngày 08/9/2023 là vi phạm thời
hạn lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định trên.
Từ các nội dung và căn cứ trên, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
363/QĐ-XPHC do U ban hành ngày 08/9/2023 xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai đối với Trần Thị K là không hợp pháp, không đúng quy định
pháp luật hiện hành về hình thức nội dung, nên Quyết định 547/-CCXP
ngày 18/12/2023 về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả
cũng là không đúng. Vì thế, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của
K, sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà K hủy
các quyết định hành chính b kiện.
- Ngưi bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ngưi bị kiện ông Thái Thành
T2 trình bày: Bảo lưu lời trình bày của người bị kiện như nội dung án sơ thẩm đã
nêu, đồng ý đối với nhận đnh và quyết định của án thẩm, đề ngh Hội đồng xét
xử bác kháng cáo của bà K, giữ nguyên án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ đến
thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử những người tham
gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính, không
vi phạm.
- Về nội dung: Khi giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá
toàn diện chứng cứ, quyết định của Tòa án cấp thẩm là căn cứ, đúng quy
định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, không có căn cứ nào mới nên đề nghị Hội
đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện Trần Thị K, giữ nguyên Bản
án hành chính thẩm s 336/2024/HC-ST ngày 30 tháng 7 năm 2024 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử xét thấy:
Về tố tụng:
[1] Đơn kháng cáo của Trần Thị K còn trong hạn luật định hợp lệ
được xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 206 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015.
[2] Về thẩm quyền giải quyết và thời hiệu khi kiện, Tòa sơ thẩm xác định
thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32,
Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
9
[3] Tại phiên tòa hôm nay, người bị kiện có đơn xin xét xử vắng mặt, Luật
sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngưi khởi kiện vắng mặt, đại diện hợp
pháp của người khởi kiện đồng ý xét xử vắng mặt Luật sư. vậy, căn cứ Điều
225 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện.
Về nội dung:
[1] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định:
- Căn cứ Khoản 2 Điều 38, Điều 86 Điều 87 Luật Xử vi phạm hành
chính năm 2012, Chủ tịch U ban hành Quyết định số 363/QĐ-XPHC Quyết
định số 547/QĐ-CCXP là đúng quy định pháp luật.
- Căn cứ Khoản 1 Điều 18 Luật Khiếu nại năm 2011, Chủ tịch U ban hành
Quyết định số 1594/-UBND là đúng quy định pháp luật.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị K:
[2.1] Đối với Quyết định số 363/QĐ-XPHC:
[2.1.1] Về nguồn gốc:
Khu đất tại địa chỉ không số, đường P, Phường F, Quận H thuộc phần thửa
đất số 6, 8 tờ bản đồ số 84 theo tài liệu 2002, diện ch 1.169,1m
2
(thuộc thửa số
67, 68, tờ bản đồ số 1 theo Chỉ thị s02/CT-UB) nguồn gốc do Hợp tác
Chiến Thắng quản lý, giao khoán cao cho hộ Ung Thị T3 sử dụng phát sinh
xây dựng nhà tạm cột gỗ, vách ván, tôn, mái tôn trên toàn bộ khu đất. Hiện nay,
trên khu đất này ông H (cháu bà Ung Thị T3) đã chia nhỏ các phần đất và bán lại
bằng giấy tay cho nhiều người xây nhà tạm. Trong đó ngày 15/3/2002, ông
Văn H đã chuyển nhượng cho bà Trần Thị K phần đất diện tích 3,5m x 10m.
[2.1.2] Về hành vi vi phạm:
Ngày 28/8/2023, U, Quận H lập Biên bản vi phạm hành chính số 05/BB-
VPHC về hành vi vi phạm chiếm đất nông nghiệp tại khu vực đô thị, diện tích đất
chiếm dưới 0,05 héc ta (cụ thể diện tích là 40m
2
) đối với bà Trần Th K. Xét thấy,
tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính tK sử dụng đất thuộc quyền
sử dụng hợp pháp của Hợp tác xã C mà không được Hợp tác xã Chiến Thắng cho
phép, nhưng bà K vẫn sử dụng. Căn cứ khoản 1 Điều 12 Luật Đất đai 2013, bà K
có hành vi vi phạm hành chính là chiếm đất.
- Căn cứ điểm a khoản 2 và khoản 5 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP
ngày 19/11/2019 của Chính phủ mức phạt tiền đối với bà Trần Thị K là 8.000.000
đồng;
- Căn cứ điểm a, điểm d, khoản 7 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP
ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong nh vực đất
đai.
- Căn cứ khoản 2 Điều 1 Nghị định số 04/2022/-CP ngày 06/01/2022
của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Điều của các Nghị định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; tài nguyên nước khoáng sản; khí tượng
thủy văn; đo đạc và bản đồ;
10
- Căn cứ Quyết định số 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020 của UBND
Thành phố H về ban hành Quy định về Bảng giá đất trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 2020-2024;
- Căn c Hướng dẫn số 4114/HDLCQ-STNMT-STC-SXD-CT ngày
28/5/2020 của Sở T5, Sở T6, Sở Xây dựng, Cục T7 về việc áp dụng Bảng giá các
loại đất ban hành kèm theo Quyết định số 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020
của U;
Từ những căn cứ trên, Chủ tịch U buộc K nộp phạt 8.000.000 đồng, khôi
phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại đất đã chiếm,
đồng thời nộp lại số lợi bất hợp pháp 8.032.841 đồng là phù hợp. vậy, Chủ tịch
U ban hành Quyết định số 363/QĐ-XPHC ngày 08/9/2023 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với hành vi vi phạm hành chính của bà K là
có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[2.2] Quyết định số 547/QĐ-CCXP ngày 18/12/2023 của Chủ tịch U,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Do bà K không thi hành Quyết định số 363/QĐ-XPHC nên Chủ tịch U ban
hành Quyết định số 547/QĐ-CCXP ngày 18/12/2023 về cưỡng chế buộc thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả. Nội dung của Quyết định số 547/QĐ-CCXP ngày
18/12/2023 phù hợp với nội dung Quyết định s363/QĐ-XPHC. Do đó, Chủ tịch
U ban hành Quyết định số 547/QĐ-CCXP là đúng quy định pháp luật.
[2.3] Quyết định giải quyết khiếu nại số 1594/QĐ-UBND ngày 10/4/2024
của Chủ tịch U, Thành phố Hồ C Minh.
Do Quyết định số 547/QĐ-CCXP đúng pháp luật nên Chủ tch U ban hành
Quyết định số 1594/QĐ-UBND ngày 10/4/2024 về việc giải quyết khiếu nại của
Trần Thị K (lần đầu) không công nhận nội dung khiếu nại của K là phù hợp.
[3] Từ những phân tích nhận định nêu trên, Tòa sơ thẩm bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của K căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc
thẩm, không n cứ nào mới nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát; không chấp nhận đề nghị của Luật sư, bác kháng o của
Trần Thị K, giữ nguyên án sơ thẩm.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận,
nên Trần Thị K phải nộp 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm, được khấu trừ
từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0041106 ngày 28/8/2024 tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ
Chí Minh.
[5] Quyết định khác của bản án thẩm về án phí không kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
11
Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 30, Điều 32, Điều 116, Điều 143, Điều 157,
Điều 158, Điều 193, Điều 206, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính 2015;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
Căn cứ Luật Khiếu nại năm 2011;
Căn cứ Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ;
Căn cứ Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022 của Chính phủ;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện Trần Thị K, giữ nguyên Bản án
hành chính thẩm số 336/2024/HC-ST ngày 30/7/2024 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị K, gồm:
- Huỷ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 363/QĐ-XPHC ngày
08/9/2023 của Chủ tịch U, Thành phố Hồ C Minh.
- Hủy Quyết định số 547/QĐ-CCXP ngày 18/12/2023 của Chủ tịch U,
Thành phố Hồ Chí Minh về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục
hậu quả.
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 1594/QĐ-UBND ngày 10/4/2024
của Chủ tịch U, Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần
Thị K (lần đầu).
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Trần Thị K phải nộp 300.000 đồng
tiền án phí phúc thẩm, được khấu trừ từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0041106 ngày 28/8/2024 tại
Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí không kháng o, kháng
nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND Thành phố Hồ Chí Minh;
- VKSND Thành phố Hồ Chí Minh;
- Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh;
- Các đương sự;
- Lưu VT (5), HS (2), 20b, (TK-PH).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tửu
Tải về
Bản án số 442/2025/HC-PT Bản án số 442/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 442/2025/HC-PT Bản án số 442/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất