Bản án số 438/2024/DS-PT ngày 22/08/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 438/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 438/2024/DS-PT ngày 22/08/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 438/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự D-H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 438/2024/DS-PT
Ngày 22-8-2024
V/v tranh chấp liên quan đến tài
sản bị cưỡng chế để thi hành án
theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
Ông Nguyễn Thanh Tùng;
Ông Nguyễn Trung Dũng.
- Thư phiên tòa: Nguyễn ThHồng Xuân - Thư Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Trần Đức Thoại – Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 305/2024/TLPT-DS ngày 10
tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi
hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”.
Do Bản án dân sự thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 325/2024/QĐ-PT ngày
22 tháng 7 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 413/2024/QĐ-
PT ngày 13 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1989; địa chỉ: số I, tổ A,
khu phố C, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Hữu T, sinh năm 1981;
địa chỉ: thôn E, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; địa chỉ liên hệ: số D, khu phố B,
phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn
bản ủy quyền ngày 30/3/2023), có mặt.
- Bị đơn:
2
1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960, vắng mặt;
2. Bà Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1965;
Cùng địa chỉ: số I, hẻm C, đường A, tổ A, khu phố C, phường P, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Thị Mỹ L: Ông Hữu T1, sinh
năm 1978; địa chỉ: tổ D, khu phố D, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương,
là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 03/7/2023), vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Thị Mỹ D1, sinh năm 1983; địa chỉ: số I, hẻm C, đường A,
tổ A, khu phố C, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
2. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Khắc C Chức vụ: Chi cục
trưởng, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ D người đại diện hợp pháp của D
là ông Lê Hữu T thống nhất trình bày:
Nguyễn Thị Mỹ D con ruột của ông Nguyễn Văn H Nguyễn
Thị Mỹ L. Bà D sinh sống tại địa chỉ số I, tổ A, khu phố C, phường P, thành phố
T, tỉnh Bình Dương từ nhỏ đến nay. Năm 2008, ông H L xây dựng nhà
trên đất, đến năm 2015, nhà xuống cấp nên D cùng với Nguyễn Thị Mỹ
D1 (là chị ruột của bà D) đã đầu tư và thuê người sửa chữa lại một số hạng mục.
Trên đất bà D trồng khoảng 100 cây tầm vông, 10 cây chuối, 01 cây cọ ké, 01
cây sấu, 02 cây bằng lăng, 01 cây ri, 01 cây sa kê, 01 cây cơm nguội, 01 cây
nguyệt quế, 04 cây két. Ngoài ra, bà D còn đầu tư xây dựng trên đất 01 ao
diện tích 36m
2
, 01 giếng khoan, 01 máy bơm nước, 01 bồn nước inox dung
tích 500 lít, 01 đồng hồ điện.
Năm 2022, ông H khởi kiện L về việc phân chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, ông H L lại không đưa các tài
sản trên đất của bà D và bà D1 đã đầu tư vào giải quyết.
Nay D khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn H Nguyễn Thị Mỹ L
phải thanh toán cho D trị giá tài sản D đã đầu trên phần đất của ông H
và bà L, tạm tính số tiền yêu cầu là 300.000.000 đồng; cụ thể:
+ Cây trồng của D đã trồng trên đất trị giá khoảng 200.000.000 đồng,
bao gồm: khoảng 100 cây tầm vông; 10 cây chuối; 01 cây cọ ké; 01 cây sấu; 02
cây bằng lăng; 01 cây sơ ri; 01 cây sa kê; 01 cây cơm nguội; 01 cây nguyệt quế;
04 cây lá két.
+ Các công trình bà D đã đầu tư xây dựng trên đất trị giá khoảng
3
100.000.000 đồng, bao gồm: 01 ao diện tích 36m
2
; 01 giếng khoan; 01
máy bơm nước; 01 bồn nước inox có dung tích 500 lít; 01 đồng hồ điện.
Quá trình giải quyết, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu
ông H L thanh toán giá trị tài sản D đã đầu theo giá của Hội đồng
định giá đã định là 47.277.300 đồng.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:
Ông H đồng ý việc xây dựng ao cá và những tài sản trên đất theo đơn khởi
kiện đều là do tiền của các con ông bỏ ra xây dựng mua, trồng. Tuy nhiên,
vào năm 2020, khi xảy ra tranh chấp, các con của ông H yêu cầu hoàn trả lại
số tiền trên thì vợ chồng ông H đã trả cho hai người con của ông mỗi người số
tiền 500.000.000 đồng bằng tiền mặt, không có giấy tờ. Nay D khởi kiện yêu
cầu vợ chồng ông phải thanh toán số tiền 300.000.000 đồng thì ông H không
đồng ý.
- Bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L và người đại diện hợp pháp của bà L là ông
Lê Hữu T1 trình bày:
Người đại diện hợp pháp của bà L là ông Lê Hữu T1 đã được Tòa án tống
đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông T1 không đến Tòa án tham gia tố tụng,
không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
không đơn yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn cũng không cung cấp bất
kỳ tài liệu, chứng cứ gì cho Tòa án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Mỹ D1 trình bày:
D1 thống nhất với nội dung đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ D.
Vào năm 2008, ông H và L xây dựng căn nhà trên đất, đến năm 2015 thì một
số hạng mục xuống cấp nên D1 D đầu tư và thuê người sửa chữa lại
nhà với số tiền khoảng 500.000.000 đồng. Do hiện nay D1 chưa tìm được
người sửa nhà vào thời điểm đó nên chưa thxác nhận được. Khi nào xác nhận
được bà D1 sẽ giao nộp cho Tòa án yêu cầu độc lập sau. D1 xác nhận
về phần tài sản mà D khởi kiện thì nguồn tiền của D D1. Nay bà
D1 đồng ý cho lại D toàn bộ giá trị các tài sản trên. Việc ông H trình bày đã
trả cho bà D1 và bà D mỗi người số tiền 500.000.000 đồng là không chính xác.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố T, tỉnh Bình Dương trình bày:
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương đang thụ lý thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đối với Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm
1965 ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960; cùng địa chỉ: số B, đường Đ, tổ A,
khu phố B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương như sau:
+ Quyết định số 13/2017/QĐ-PT ngày 14/7/2017 của Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương (Quyết định thi hành án theo yêu cầu s2960/QĐ-CCTHADS
ngày 07/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương),
nội dung: “bà Nguyễn Thị Mỹ L trách nhiệm thanh toán cho Trà Thị X số
4
tiền 223.050.000 đồng (hai trăm hai mươi ba triệu không trăm năm mươi ngàn
đồng) và lãi suất chậm thi hành án”.
+ Bản án dân sự phúc thẩm số 235/2018/DS-PT ngày 22/11/2018 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương (Quyết định thi hành án chủ động số 1087/QĐ-
CCTHADS ngày 19/12/2018 Quyết định thi hành án theo yêu cầu số
1098/QĐ-CCTHADS ngày 26/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố T), nội dung: “bà Nguyễn Thị Mỹ L ông Nguyễn Văn H phải nộp số tiền
92.880.716
đồng (chín mươi hai triệu tám trăm tám mươi ngàn bảy trăm mười
sáu đồng) án phí dân sự sơ thẩm; bà Nguyễn Thị Mỹ L và ông Nguyễn Văn H
trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn H1 tổng số tiền 3.044.035.818
đồng (ba tỷ không trăm bốn mươi bốn triệu không trăm ba mươi lăm ngàn tám
trăm mười tám đồng) và lãi suất chậm thi hành án”.
+ Bản án dân sự phúc thẩm s203/2019/DS-PT ngày 11/9/2019 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương (Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 290/QĐ-
CCTHADS ngày 08/11/2019 Quyết định thi hành án chủ động số 86/QĐ-
CCTHADS ngày 07/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T), nội
dung: “bà Nguyễn Thị Mỹ L ông Nguyễn Văn H trách nhiệm thanh toán
cho bà Hoàng Thị N ông Lê Hùng P tổng số tiền 219.150.000 đồng (hai trăm
mười chín triệu một trăm năm mươi ngàn đồng) lãi suất chậm thi hành án;
Nguyễn Thị Mỹ L ông Nguyễn Văn Hoàng liên đ nộp số tiền 10.300.000
đồng (mười triệu ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm”.
+ Quyết định số 76/2018/QĐST-DS ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân
dân thành phố T, tỉnh Bình Dương (Quyết định thi hành án theo yêu cầu số
1272/QĐ-CCTHADS ngày 21/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố T), nội dung: “bà Nguyễn Thị Mỹ L trách nhiệm thanh toán cho Lưu
Thị H2 số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) và lãi suất chậm thi hành
án”.
+ Bản án dân sự phúc thẩm số 192/2021/DS-PT ngày 15/12/2021 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương (Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 577/QĐ-
CCTHADS ngày 15/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T), nội
dung: “bà Nguyễn Thị Mỹ L ông Nguyễn Văn H trách nhiệm bồi thường
cho Phan Thị B ông Trân Văn Q stiền 5.959.200.000 đồng (năm tỷ
chín trăm năm mươi chín triệu hai trăm ngàn đồng) lãi suất chậm thi hành
án”.
+ Bản án dân sự phúc thẩm số 212/2020/DS-PT ngày 21/8/2020 của a
án nhân dân tỉnh Bình Dương do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo,
tỉnh Bình Dương y thác đến (Quyết định thi hành án chủ động số 418/QĐ-
CCTHADS ngày 10/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T), nội
dung: “bà Nguyễn Thị Mỹ L nộp số tiền 37.200.000 đồng (ba mươi bảy triệu hai
trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm”.
Quá trình xác minh điều kiện thi hành án của bà Nguyễn Thị Mỹ L và ông
Nguyễn Văn H được biết ông Nguyễn Văn H đứng tên quản các quyền s
5
dụng đất sau đây: quyền sử dụng đất diện tích 848m
2
thuộc thửa đất số 1370,
tờ bản đồ số 08 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN635145, số vào
sổ H45245 do Ủy ban nhân dân thị (nay thành phố ) T, tỉnh Bình Dương
cấp ngày 25/11/2008 quyền sdụng đất diện tích 194,5m
2
thuộc thửa đất
số 598, tờ bản đồ số 08 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ435148,
số vào sổ H12729 do Ủy ban nhân dân thị xã (nay thành phố ) T, tỉnh Bình
Dương cấp ngày 09/5/2006.
Do ông H L không tự nguyện thi hành án nên ngày 26/11/2020,
Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương đã
tiến hành biên toàn bộ 02 quyền sử dụng đất nêu trên các tài sản gắn liền
trên đất để bảo đảm thi hành án. Tài sản kê biên gồm:
+ Quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế 199,2m
2
(bao gồm
50m
2
đất ở đô thị và 149,2m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất mới số 3118
(thửa đất số 598), tờ bản đồ mới số 08-14 (tờ bản đồ số 08) theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ435148, số vào sổ H12729 do Ủy ban
nhân dân thị xã (nay là thành phố ) T, tỉnh Bình Dương cấp ngày 09/5/2006.
+ Quyền sử dụng đất diện tích đo đạc thực tế 828,1m
2
(bao gồm
50m
2
đất ở đô thị và 778,1m
2
đất trồng cây lâu năm), thuộc thửa đất mới số 3119
(thửa đất cũ số 1370), tờ bản đồ mới 08-14 (tờ bản đồ cũ số 08) theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AN635145, số vào sổ H45245 do y ban nhân dân
thị xã (nay là thành phố ) T, tỉnh Bình Dương cấp ngày 25/11/2008.
+ Tài sản gắn liền trên 02 thửa đất nêu trên gồm: 01 căn nhà cấp 4 có diện
tích 122,3m
2
; mái hiên lớn nhỏ tổng diện tích 61,2m
2
; hệ thống cổng,
tường rào (gồm trụ cổng hàng rào thể tích 1.472m
3
, cửa cổng sắt diện tích
11,25m
2
tường rào bao quanh diện tích 103,5m
2
); sân tráng xi măng
tổng diện tích 76,9m
2
; 01 bồn nước bằng inox dung tích 500 lít; 01 ao
diện tích khoảng 36m
2
; 01 máy bơm nước; 01 giếng khoan và 01 đồng hồ điện
kế.
Sau khibiên, Chấp hành viên đã thực hiện việc thẩm định giá theo quy
định. Căn cứ kết quả thẩm định giá ngày 10/02/2022 của Công ty Cổ phần T2
xác định tổng giá trị tài sản đã kê biên là 9.929.554.137 đồng. Tuy nhiên, do ông
H không đồng ý với kết quả thẩm định giá nên đã đề nghị Chấp hành viên thực
hiện lại việc thẩm định giá. Căn cứ Chứng thư thẩm định giá số Vc 13/22/BĐS-
LAHA ngày 09/3/2022 của Công ty TNHH D2 xác định tổng giá trị tài sản
biên sau khi thẩm định giá lại 10.734.291.292 đồng. Do ông H khởi kiện yêu
cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với bà L nên Chấp hành viên
vẫn chưa tiến hành thực hiện việc bán đấu giá tài sản theo quy định.
Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giải quyết xong vụ án chia tài
sản chung trong thời k hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn H Nguyễn Thị
Mỹ L thì Nguyễn Thị Mỹ D tiếp tục khởi kiện tranh chấp tài sản chung với
ông H L nên đến thời điểm hiện nay Chấp hành viên vẫn chưa tiến hành
thực hiện việc bán đấu giá tài sản theo quy định.
6
Nay Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương thông báo
quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định nêu trên và đề nghị Tòa án xem
xét giải quyết việc khởi kiện của D theo quy định pháp luật phải đảm bảo
quyền lợi cho những người được thi hành theo các bản án, quyết định nêu trên.
Tại Bản án dân sthẩm số 41/2024/DS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định: Không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ D đối với bị đơn
ông Nguyễn Văn H Nguyễn Thị Mỹ L về việc “Tranh chấp liên quan đến
tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự”.
Ngoài ra bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng
cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/6/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ
D có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà D
ông Hữu T vẫn giữ yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo. Bị đơn ông
Nguyễn Văn H đơn xin hoãn phiên tòa. Người đại diện hợp pháp của bị đơn
Nguyễn Thị Mỹ L là ông Lê Hữu T1 vắng mặt.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng tham gia ttụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ, nguyên đơn kháng cáo
nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của
mình căn cnên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đối với đơn yêu cầu hoãn phiên tòa của bị đơn ông Nguyễn Văn H.
Xét, phiên tòa phúc thẩm lần hai, ông H đơn hoãn phiên tòa, qua xem xét
chứng cứ ông H kèm theo, không thuộc trường hợp bất khkháng. Đồng thời,
ông H người không đơn kháng cáo nên việc giải quyết vắng mặt ông H
không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố
tụng dân sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn hoãn phiên tòa của ông H và
tiến hành xét xử vắng mặt ông H.
[2] Người đại diện hợp pháp của bị đơn Nguyễn Thị Mỹ L ông
Hữu T1 và người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Mỹ D1 đã
được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham dự phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt
không do. Riêng người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục Thi hành án
7
dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do
đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xvắng mặt các đương sự nêu trên theo quy
định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Tài sản bà D tranh chấp, yêu cầu bị đơn ông H, bà L thanh toán giá trị
tài sản gồm:
+ Trên thửa đất số 1370 (số thửa đất mới 3119), tbản đồ s08 (số mới
08-14) có các tài sản gồm: 100 cây tầm vông; 02 cây chuối; 01 cây cọ ké; 01 cây
sấu; 02 cây bằng lăng; 01 cây cơm nguội; 01 ao diện tích 36m
2
; 01 giếng
khoan; 01 máy bơm nước; 01 bồn nước inox dung tích 500 lít; 01 đồng hồ
điện.
+ Trên thửa đất số 598 (số thửa đất mới 3118), tbản đồ số 08 (số mới
08-14) có các tài sản gồm: 01 cây sơ ri; 01 cây sa kê; 01 cây nguyệt quế; 04 cây
lá két (02 cây trồng chậu và 02 cây trồng dưới đất).
[4] Các chứng cứ tại hồ thể hiện quyền sdụng đất tại thửa đất số
1370 (số thửa đất mới 3119), tờ bản đồ số 08 (số mới 08-14) thửa đất số 598
(số thửa đất mới 3118), tờ bản đồ số 08 (số mới 08-14) tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân giữa ông H và bà L.
[5] Ông H, bà L người phải thi hành án theo các Quyết định thi hành án
theo yêu cầu số 2960/QĐ-CCTHADS ngày 07/8/2017 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương; Quyết định thi hành án chủ động số
1087/QĐ-CCTHADS ngày 19/12/2018 Quyết định thi hành án theo yêu cầu
số 1098/QĐ-CCTHADS ngày 26/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố T, tỉnh Bình Dương; Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 290/QĐ-
CCTHADS ngày 08/11/2019 Quyết định thi hành án chủ động số 86/QĐ-
CCTHADS ngày 07/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh
Bình Dương; Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 1272/QĐ-CCTHADS ngày
21/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương;
Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 577/QĐ-CCTHADS ngày 15/02/2022
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương; Quyết định thi
hành án chủ động số 418/QĐ-CCTHADS ngày 10/12/2020 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương. Do ông H, bà L không tự nguyện
thi hành án nên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương đã
ban hành Quyết định về việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản đối với thửa đất số
1370 (số thửa đất mới 3119), tờ bản đồ số 08 (số mới 08-14) thửa đất số 598
(số thửa đất mới 3118), tờ bản đồ số 08 (số mới 08-14) cùng toàn bộ các tài sản
trên theo Quyết định về việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản số 52/QĐ-
CCTHADS ngày 18/8/2020.
[6] Sau khi quyết định biên, ông H L tranh chấp chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đối với các quyền sử dụng đất bị kê biên
tài sản trên đất gồm căn nhà cấp 4; 02 nhà tạm; sân xi măng; cổng và tường
rào. Vụ án đã được Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương thụ giải
quyết. Quá trình giải quyết, Tòa án xác định bà Nguyễn Thị Mỹ D và bà Nguyễn
8
Thị Mỹ D1 người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Trong vụ án
này, D chỉ yêu cầu xem xét quyền lợi cho D và bà D1 đối với công sức
đóng góp sửa chữa ngôi nhà cấp 4 trên đất và không có ý kiến hay yêu cầu gì đối
với các tài sản gắn liền trên đất. Tại Bản án hôn nhân gia đình thẩm số
119/2022/HNGĐ-ST ngày 30/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh
Bình Dương Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 06/2023/HNGĐ-PT
ngày 28/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tuyên giao cho ông H
quản lý, sử dụng hai thửa đất nêu trên và ông H trách nhiệm thanh toán cho
L 50% giá trị tài sản. Như vậy, hai bản án nêu trên đã hiệu lực pháp luật,
không bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm nên những tình
tiết đã được xác định trong 02 bản án nêu trên là tình tiết tình không phải chứng
minh theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 92 Bộ luật Ttụng dân sự. Căn cứ
vào bản án sơ thẩm nêu trên, bà D không có bất kỳ tài sản gì trên hai thửa đất.
[7] Bà D cho rằng các tài sản trên 02 thửa đất trên gồm 100 cây tầm vông;
02 cây chuối; 01 cây cọ ké; 01 cây sấu; 02 cây bằng lăng; 01 cây cơm nguội; 01
ao diện tích 36m
2
; 01 giếng khoan; 01 máy m nước; 01 bồn nước inox
dung tích 500 lít; 01 đồng hồ điện; 01 cây ri; 01 cây sa kê; 01 cây nguyệt
quế; 04 cây két (02 cây trồng chậu 02 cây trồng dưới đất) tài sản D
trồng xây dựng. Tuy nhiên, D không đưa ra được chứng cứ chứng minh.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của D ông Hữu T
cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh. Do vậy, Tòa án cấp thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D là có căn cứ.
[8] Từ những phân tích trên, xét thấy kháng cáo của nguyên đơn D
không có căn cứ chấp nhận.
[9] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa là phù hợp.
[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án thẩm nên
người kháng cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148; khoản 1 Điều 308; Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 22 tháng 5
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ D phải
chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền
300.000 đồng (ba tm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tm
9
ng án phí, l phí Tòa án 0004513 ngày 10 tháng 6 năm 2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành ph T;
- TAND thành ph T;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đinh Thị Mộng Tuyết
Tải về
Bản án số 438/2024/DS-PT Bản án số 438/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 438/2024/DS-PT Bản án số 438/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất