Bản án số 100/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 100/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 100/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 100/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 100/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Đắk Nông về tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Nông |
Số hiệu: | 100/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy một phần bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
Tphúc
- C phiên tòa: Ông Lê Văn Hữu
Các : Ông Lương Đức Dương và ông Nguyễn Anh Ửng
phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thanh Nga, là Thư ký viên Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Nông.
tham gia phiên toà: Bà
Vương Thị Bắc – Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2024/TLPT-DS ngày 16-7-2024 về
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 24/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo,
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2024/QĐ-PT ngày 29/8/2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2024/QĐ-PT ngày 11/9/2024 và Quyết định
hoãn phiên tòa số 52/2024/QĐ-PT ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đăk Nông, đối với các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Vân A, sinh năm 1979
Địa chỉ: Thôn 14, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
Ông Trần Trọng
H; địa chỉ: Văn phòng Luật sư C, số 170/16B đường M, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk – vắng mặt.
2. Bị đơn: Bà Vũ Thị N, sinh năm 1949
Địa chỉ: Thôn 6, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
3. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
Bản án số: 100/2024/DS-PT
Ngày: 30-9-2024
V/v y
;
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
3.1. Chị Phạm Thị V, sinh năm 1987
Địa chỉ: Thôn 6, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
3.2. Chị Phạm Thị T, sinh năm 1979
Địa chỉ: Thôn M, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
3.3. Ông Đinh Văn T, sinh năm 1970
Địa chỉ: Thôn 6, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có đơn xin xét xử vắng
mặt.
3.4. Ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thị D
Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có đơn xin xét xử
vắng mặt.
4. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
4.1. Ông Phạm Ngọc S, sinh năm 1942
Địa chỉ: Thôn 6, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.
4.2. Chị Phạm Thị N, sinh năm 1975
Địa chỉ: Thôn M, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
4.3. Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1975
Địa chỉ: Thôn 8, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
4.4. Anh Phạm Văn H2, sinh năm 1972
Địa chỉ: Thôn 14, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
4.5. Chị Phạm Thị M, sinh năm 1968
Địa chỉ: Thôn 8, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – có mặt.
, anh
, anh : Chị Phạm Thị T (văn bản ủy quyền ngày
29/06/2022 và ngày 07/11/2022) – có mặt.
4.6. Anh Đinh Văn T1, sinh năm 1978
Địa chỉ: Thôn 6, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.
4.7. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980
Địa chỉ: Thôn M, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.
5. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Vũ Thị N, chị Phạm
Thị V, chị Phạm Thị T, ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh Phạm Văn
H1, anh Phạm Văn H2, chị Phạm Thị M: Ông Nguyễn Tiến T3; địa chỉ: Văn
phòng luật sư B, số X, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.
6. Người làm chứng: Ông Trần Đại N2, sinh năm 1958 và bà Trần Thị
T2, sinh năm 1959; cùng địa chỉ: Thôn 2, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông – ông
N2 có mặt, bà T2 vắng mặt.
Bị đơn bà Vũ Thị N; những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chị Phạm Thị V, chị Phạm Thị T; những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh
3
Phạm Văn H1, anh Phạm Văn H2, chị Phạm Thị M.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện ngày 02/11/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày
06/8/2021, đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện và quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Vân A trình bày:
Theo bản án số 23/2013/DS-PT ngày 17/4/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Nông, bà Vũ Thị N có nghĩa vụ phải thanh toán cho chị Nguyễn Thị Vân A
số tiền 1.563.020.000 đồng và lãi chậm thi hành án. Do bà N không thực hiện
nghĩa vụ, chị đã có đơn yêu cầu và cơ quan Thi hành án dân sự huyện C đã ra
Quyết định thi hành án số 47/QĐ-CCTHA ngày 17/6/2013 buộc bà N phải trả
nợ.
Theo xác minh của Chi cục Thi hành án, tài sản của bà N gồm 02 thửa đất:
Thửa số 40, tờ bản đồ số 12, diện tích 3.072m
2
tại thôn 6, xã N, huyện C, tỉnh
Đắk Nông, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số M
904831 ngày 14/12/1998 đứng tên hộ ông Phạm Ngọc S, bà Vũ Thị N và thửa số
210, tờ bản đồ số 22, diện tích 8.356 m
2
tại thôn 8, xã W, huyện C, tỉnh Đắk
Nông, GCNQSDĐ cấp năm 2006 cho hộ Phạm Ngọc S và bà Vũ Thị N.
Do bà N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tự phân
chia tài sản hoặc khởi kiện tại Tòa án để phân chia tài sản, nên chị A khởi kiện
yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu của bà N trong khối tài sản chung,
cụ thể là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của 02 thửa đất nói
trên.
Ngày 02/11/2021, chị A rút yêu cầu chia giá trị đất và tài sản trên đất đối
với thửa số 210, tờ bản đồ số 22. Đối với thửa đất số 40, tờ bản đồ số 12, chị rút
yêu cầu chia toàn bộ giá trị thửa đất, chỉ yêu cầu xác định phần quyền sở hữu
của bà N đối với một phần thửa đất, cụ thể là 924.9 m
2
và tài sản gắn liền trên
đất theo hồ sơ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai C ngày 17/4/2023.
2. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Vũ Thị N trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 40, tờ bản đồ số 12, diện tích 3.072 m
2
tại thôn 6, xã
N là do vợ chồng bà N, ông S cùng các con khai hoang, trồng hoa màu và làm
nhà chòi gỗ từ năm 1989. Năm 1993, vợ chồng bà N làm căn nhà gỗ hai tầng và
xây thêm ký ốt ở phía trước. Năm 1998, ông S kê khai và được cấp GCNQSDĐ
cho hộ gia đình ngày 14/12/1998. Năm 2014, vợ chồng bà N xây nhà nghỉ ở
phía sau, quản lý sử dụng cho đến nay.
Thửa đất này ông bà đã cắt phần để chuyển nhượng cho nhiều người và
tặng cho 02 con gái, cụ thể: Tặng cho chị Phạm Thị V 5m đất vào năm 1998 và
4
tặng cho chị Phạm Thị T 06m đất và nhà gỗ trên đất vào năm 2004. Việc tặng
cho bằng miệng không có văn bản giấy tờ, hiện nay cũng chưa tách thửa nhưng
các con bà đã làm nhà và sinh sống ổn định từ đó đến nay.
Hộ gia đình bà N thời điểm cấp đất năm 1998 gồm có ông Phạm Ngọc S,
bà Vũ Thị N, 06 người con gồm Phạm Thị M, sinh năm 1968; Phạm Văn H2,
sinh năm 1972; Phạm Văn H1, sinh năm 1975; Phạm Thị N, sinh năm 1975;
Phạm Thị V, sinh năm 1979; Phạm Thị T, sinh năm 1987.
Bà N đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
3. Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập chị Phạm Thị V trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 40 là do bố mẹ và các anh chị chị (chị M, anh H2,
anh H1, chị N) khai hoang; chị không đóng góp công sức do lúc đó còn nhỏ tuổi.
Năm 1998, chị được bố mẹ tặng cho một phần thửa đất này với diện tích
chiều ngang 5m, chiều dài hết đất. Cùng năm, chị và anh Đinh Văn T1 làm nhà
gỗ, đến năm 2006 phá nhà gỗ để xây nhà cấp 4 và các công trình phụ trên đất.
Việc tặng cho bằng miệng, không làm văn bản, cũng chưa làm thủ tục tách sổ.
Đất tặng cho không liên quan đến anh Đinh Văn T1 (không đăng ký kết
hôn, sống chung như vợ chồng với chị V từ năm 1997) và các con của chị (sinh
năm 2005 và 2006), tuy nhiên nhà và tài sản trên đất có khoảng 100.000.000
đồng là phần đóng góp của anh T1.
Chị đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng tặng cho giữa bố mẹ chị và chị;
không đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng tặng cho vô hiệu nên không đồng ý giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Đối với yêu cầu khởi kiện của chị A thì đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
4. Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập chị Phạm Thị T trình bày:
Chị không đóng góp công sức khai hoang lô đất này nhưng được bố mẹ
tặng cho 6 mét đất (tính theo chiều ngang) và nhà trên đất. Việc tặng cho bằng
miệng, không làm văn bản, cũng chưa làm thủ tục tách sổ. Đất tặng cho không
liên quan đến chồng là anh Nguyễn Văn L, tuy nhiên nhà và tài sản trên đất là
tài sản chung của vợ chồng, các con còn nhỏ không đóng góp gì.
Sau khi được tặng cho nhà đất, vợ chồng chị đã xây nhà và sinh sống trên
đất này. Chị đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng tặng cho đất giữa bố mẹ chị và
chị; không đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng tặng cho vô hiệu nên không đồng ý
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Đối với yêu cầu khởi kiện của chị A
thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
Tại phiên tòa ngày 28/3/2024, chị T thay đổi lời khai, cụ thể: Diện tích đất
có chiều ngang 6 mét gồm một phần do bố mẹ chị tặng cho và một phần vợ
5
chồng chị mua lại từ ông N2, bà T2 (năm 2004 bố mẹ chị bán một phần đất cho
ông N2 bà T2, đến năm 2005 vợ chồng chị bỏ tiền ra mua lại).
5. Người đại diện theo ủy quyền của chị Phạm Thị N, chị Phạm Thị
M, anh Phạm Văn H1, anh Phạm Văn H2 là chị Phạm Thị T trình bày:
Năm 1989, khi ông S, bà N khai hoang đất, các anh chị lớn là chị Phạm
Thị N, chị Phạm Thị M, anh Phạm Văn H1, anh Phạm Văn H2 cùng khai hoang
với bố mẹ và có đóng góp công sức xây nhà gỗ hai tầng trên đất (riêng nhà nghỉ
trên thửa đất là công sức riêng của bố mẹ). Đề nghị Tòa án chia tài sản chung
của hộ gia đình theo quy định của pháp luật.
6. Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
ông Phạm Ngọc S trình bày: Ông thống nhất với trình bày của bà N, chị T, chị
V; không đồng ý yêu cầu khởi kiện của chị A.
7. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn L trình
bày: Diện tích đất có chiều ngang 06 mét và nhà trên đất hiện vợ chồng anh L,
chị T đang sinh sống là do vợ chồng anh chị nhận chuyển nhượng từ ông N2, bà
T2 vào năm 2005 với số tiền 100.000.000 đồng. Đến nay vợ chồng anh chị vẫn
còn nợ ông N2, bà T2 20.000.000 đồng.
8. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập ông Đinh
Văn T trình bày:
Ngày 05/04/1997, ông có nhận chuyển nhượng của ông S, bà N 100m
2
thuộc một phần thửa đất số 40 đang tranh chấp. Khi chuyển nhượng, hai bên viết
giấy tay, được UBND xã N đóng dấu xác nhận. Hiện nay chưa làm thủ tục sang
tên nhưng gia đình ông đã sử dụng đất lâu dài, ổn định, không tranh chấp với ai,
vì vậy đề nghị Tòa án công nhận phần diện tích ông S đã chuyển nhượng cho
ông.
Ngày 22/11/2022, ông T có đơn rút toàn bộ yêu cầu độc lập và đề nghị
Tòa án giải quyết vắng mặt.
9. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập ông Trần
Văn C và bà Nguyễn Thị D trình bày:
Ngày 29/11/1999, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng (có giấy tờ viết tay)
của ông S, bà N khoảng 1 sào đất trong thửa đất đang tranh chấp. Sau khi nhận
đất, ông trồng cà phê và sử dụng ổn định đến nay, không tranh chấp với ai. Do
đó, đề nghị Tòa án công nhận phần diện tích ông S đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông bà.
Ngày 22/11/2022, ông C, bà D rút toàn bộ yêu cầu độc lập và đề nghị Tòa
án giải quyết vắng mặt.
10. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đinh Văn T1 trình
bày: Anh T1 và chị V chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1998 nhưng
không đăng ký kết hôn. Cùng năm đó, ông S, bà N tặng cho 2 chị em Vui, Tươi
6
02 phần đất trong thửa số 40. Sau đó anh T1 và chị V mua lại của chị T một nửa
lô đất chị T được bố mẹ cho với số tiền 90.000.000 đồng, số tiền này được trả
làm 2 lần nhưng không có giấy tờ gì.
Năm 2006, anh và chị V phá nhà gỗ để xây nhà cấp 4 và các công trình
phụ. Giá trị tài sản trên đất khoảng 400.000.000 đồng, trong đó có 200.000.000
đồng là tài sản riêng của anh T1. Anh T1 đề nghị Tòa án hoãn việc giải quyết vụ
án để khi anh chấp hành án xong sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
11. Người làm chứng ông N2 trình bày tại phiên tòa phúc thẩm:
Diện tích đất vợ chồng chị T đang sinh sống có nguồn gốc là của vợ chồng
ông nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông S, bà N năm 1999. Thời điểm nhận
chuyển nhượng đất trống, sau đó ông mua 01 nhà gỗ dựng trên đất. Năm 2005, vợ
chồng ông chuyển nhượng lại thửa đất này cho vợ chồng chị T, anh L. Cả 2 lần
chuyển nhượng đều chỉ viết giấy tay, hiện nay đã thất lạc.
-ST ngày 24-5-Tòa án nhân
.
C
và bà
2
,
ông
2
270.3m
2
2
ai C ông S
bà
, bà nên bà
C ngày 17/04/2023).
; ông và bà
7
2
C
và bà W,
C
Ngày 10/6/2024, bị đơn bà Vũ Thị N; những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập chị Phạm Thị V, chị Phạm Thị T; những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh Phạm
Văn H1, anh Phạm Văn H2, chị Phạm Thị M kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn hoặc hủy
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Bà N thay đổi lời khai cho rằng, diện tích đất nguyên đơn yêu cầu phân
chia bà và ông S đã tặng cho 06 người con (quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ
thẩm, bà N và ông S cho rằng chỉ tặng cho đất 02 người con là chị T và chị V).
Chị T thay đổi lời khai cho rằng, toàn bộ diện tích đất vợ chồng chị đang sử
dụng là nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông N2, bà T2 (quá trình giải quyết vụ
án tại cấp sơ thẩm, chị T cho rằng một phần diện tích nhận chuyển nhượng từ vợ
chồng ông N2, bà T2, một phần là nhận tặng cho từ ông S, bà N).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Vũ Thị N, chị Phạm Thị V,
chị Phạm Thị T, ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh Phạm Văn H1, anh
Phạm Văn H2, chị Phạm Thị M là ông Nguyễn Tiến T3 đề nghị hủy bản án sơ
thẩm vì lý do Tòa án sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng (không thu thập Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nguyên đơn yêu cầu phân chia
tài sản...) và giải quyết nội dung vụ án chưa chính xác (việc chia tỷ lệ đất ¼ hay
1/8 chưa đủ cơ sở; chưa xác định được diện tích đất nguyên đơn yêu cầu phân
chia đã chuyển nhượng, tặng cho những ai; xác định tạm ứng án phí có giá
ngạch là không đúng....)
Vi bi
:
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của Bị đơn bà Vũ Thị N; những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chị Phạm Thị V, chị Phạm Thị
T; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Ngọc S, chị Phạm
Thị N, anh Phạm Văn H1, anh Phạm Văn H2, chị Phạm Thị M trong thời hạn
luật định, đã nộp tạm ứng án phí, được miễn tạm ứng án phí. Quá trình giải
8
quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng thủ tục theo
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận
một phần kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm về xác định quan hệ tranh chấp là “Yêu
cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi
hành án”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét yêu cầu kháng cáo, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ
án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Đơn kháng cáo của bà Vũ Thị N, chị Phạm Thị V, chị Phạm Thị T,
ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh Phạm Văn H1, anh Phạm Văn H2, chị
Phạm Thị M trong thời hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí, được miễn tạm
ứng án phí nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Chị A khởi kiện yêu cầu Tòa án xác
định phần tài sản riêng của bà N trong khối tài sản chung của hộ gia đình. Cơ
quan Thi hành án dân sự huyện C mới chỉ ban hành Quyết định thi hành án,
chưa ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án. Do đó, Tòa án sơ thẩm xác
định quan hệ pháp luật
theo khoản 12
Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự là chưa chính xác. Đây là quan hệ
tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự và khoản 9 Điều 27 của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.3]. : Ngày 10/6/2024, Tòa án nhân dân huyện Cư Jút
ban hành Quyết định sửa chữa, bổ sung Bản án sơ thẩm với nội dung: “1.2.
, bà
, bà
”.
Mặc dù biên bản nghị án có thể hiện nội dung này nhưng bản án gốc có chữ ký
của Hội đồng xét xử (bút lục 425 đến 434) lại không thể hiện, do đó việc sửa
chữa bổ sung Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cư Jútư Jut là chưa
đảm bảo theo quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung vụ án và yêu cầu kháng cáo
9
[2.1].
Ông S, bà N cho rằng, năm 2004 ông bà tặng cho con gái ruột là chị
Phạm Thị T diện tích đất 06 m chiều ngang, trên đất có nhà gỗ. Việc tặng cho
bằng miệng, không có văn bản giấy tờ, chưa làm thủ tục tách thửa. Quá trình
giải quyết vụ án, chị T cũng thừa nhận nội dung này. Tuy nhiên, chồng của chị T
là anh Nguyễn Văn L khai rằng, diện tích đất anh chị đang ở là vợ chồng anh chị
mua lại của ông N2, bà T2 vào năm 2005 (sau khi kết hôn 01 năm) với số tiền
100.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị T thay đổi lời khai, cho rằng diện
tích đất này có một phần bố mẹ chị tặng cho, phần còn lại là mua lại của ông
N2, bà T2. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T thay đổi lời khai một lần nữa, cho
rằng toàn bộ diện tích đất này là nhận chuyển nhượng của ông N2, bà T2. Ông
N2 (không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm, có mặt tại phiên tòa phúc thẩm) cũng
xác nhận việc chuyển nhượng toàn bộ thửa đất này cho vợ chồng chị T, anh L.
Như vậy, cần phải thu thập chứng cứ và đối chất lời khai để làm rõ diện
tích đất đang tranh chấp là chuyển nhượng hay tặng cho, diện tích được tặng cho
là bao nhiêu, diện tích nhận chuyển nhượng là bao nhiêu? Nếu là tặng cho thì
những thành viên khác trong hộ gia đình (chị M, anh H2, anh H1, chị N) có biết
việc ông S, bà N tặng cho chị T đất hay không? có ý kiến đồng ý hay phản
đối?... mới đủ căn cứ chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu độc lập của chị T.
[2.2].
Ông S, bà N cho rằng, năm 1998 ông bà tặng cho con gái ruột là chị Phạm
Thị V diện tích đất 05 m chiều ngang. Việc tặng cho bằng miệng, không có văn
bản giấy tờ, hiện nay chưa làm thủ tục tách thửa. Quá trình giải quyết vụ án, chị
V cũng thừa nhận nội dung này. Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai của anh
Đinh Văn T1 là người sống chung như vợ chồng với chị V thể hiện: Năm 1998,
ông S, bà N cho 2 chị em là chị Phạm Thị V và Phạm Thị T một phần đất. Sau
đó anh T1 và chị V mua lại của chị T một nửa lô đất với số tiền 90.000.000
đồng. Như vậy, nguồn gốc và diện tích phần đất chị V yêu cầu công nhận hợp
đồng tặng cho cũng còn mâu thuẫn và chưa được làm rõ. Tòa án chưa lấy lời
khai của chị T, chị V để xác định có việc chị T chuyển nhượng một nửa phần đất
được ông S, bà N tặng cho cho anh T1, chị V hay không? Nếu là đất do ông S,
bà N tặng cho chị V thì những thành viên khác trong hộ (chị M, anh H2, anh H1,
chị N) có biết hay không? Có ý kiến đồng ý hay phản đối?.. mà đã tuyên hợp
đồng tặng cho vô hiệu và xác định đất này là tài sản chung của hộ gia đình ông
S, bà N là chưa đủ cơ sở vững chắc.
[2.3]. ,
bà N trong 924.9 m
2
10
3.072m
2
ông S, bà N:
Căn cứ kết quả đo đạc ngày 17/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện Cư Jut, diện tích đất 924.9m
2
được chia làm 03 thửa, trong đó:
Thửa 04 diện tích 427.9m
2
bà Vũ Thị N, ông Phạm Ngọc S đang sử dụng, thửa
03 diện tích 270.3m
2
chị Phạm Thị T, anh Nguyễn Văn L đang sử dụng và thửa
01 diện tích 226.7m
2
anh Đinh Văn T1, chị Phạm Thị V đang sử dụng (bút lục
196-200).
Đối với thửa số 01 và thửa số 3 vợ chồng chị V và vợ chồng chị T đang sử
dụng, như đã phân tích tại phần [2.1] và [2.2], chưa có căn cứ để xác định các
thửa đất này có là tài sản chung của hộ gia đình bà N hay không, do đó việc Tòa
án sơ thẩm xác định bà N được quyền sở hữu, sử dụng ¼ giá trị 02 thửa đất này
là chưa có căn cứ.
Đối với thửa số 04 ông Nại, bà Sơn đang sử dụng, tại phiên tòa phúc
thẩm, chị A khai không xác định được phần đất hiện tại thuộc quyền sử dụng
của bà N; bà N thay đổi lời khai cho rằng, thửa đất số 40, tờ bản đồ số 12, diện
tích 3.072m
2
ngoài chuyển nhượng cho nhiều người khác, vợ chồng bà đã tặng
cho 06 người con, như vậy, chưa đủ căn cứ để xác định diện tích đất này thuộc
quyền sở hữu chung của những người nào. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
cũng chưa lấy lời khai làm rõ công sức đóng góp của từng người đối với việc
khai hoang, tôn tạo giá trị thửa đất và căn nhà gỗ trên đất mà đã xác định ông S
và bà N là 02 lao động chính và chia cho ông S, bà N mỗi người được sở hữu
1/4 giá trị, chị M, anh H2, anh H1, chị N mỗi người được sở hữu 1/8 giá trị thửa
đất; xác định căn nhà gỗ cấp 04 là tài sản chung của ông S, bà N, mỗi người
được sở hữu ½ giá trị căn nhà gỗ là chưa có cơ sở vững chắc.
Do đó, cần hủy toàn bộ phần xác định tài sản riêng của bà N đối với diện
tích đất 924.9 m
2
này.
[2.4]. Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc
thu thập chứng cứ chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, do
đó cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Vũ Thị N và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số
12/2024/DS-ST ngày 24-5-2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút về yêu cầu
xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi
hành án; hủy một phần bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất.
Giữ nguyên một phần bản án về đình chỉ giải quyết một phần vụ án đối với:
+ Yêu cầu độc lập của ông Đinh Văn T, ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thị
D về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
+ Một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu chia giá trị sử
dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đối với thửa đất số 210, tờ bản đồ số 22, diện
11
tích 8.356 m
2
tọa lạc tại thôn 8, xã W, huyện C, tỉnh Đắk Nông do UBND huyện
C cấp năm 2006 cho hộ Phạm Ngọc S và bà Vũ Thị N.
[2.5]. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:
[2.5.1]. Đối với án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng liên quan đến phần
bản án bị hủy sẽ được xem xét giải quyết khi xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
[2.5.2]. Đối với án phí dân sự sơ thẩm liên quan đến phần bản án bị đình chỉ:
- Hoàn trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
ông Đinh Văn T 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
0003811 ngày 23/05/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện C.
2.7 Hoàn trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
ông Trần Văn C, bà Nguyễn Thị D 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai số 0003800 ngày 19/05/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện
C.
[2.6]. Do bản án sơ thẩm bị hủy, bà Vũ Thị
N, chị Phạm Thị V, chị Phạm Thị T, ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh
Phạm Văn H1, anh Phạm Văn H2, chị Phạm Thị M không phải chịu án phí phúc
thẩm. Chị V, chị T, chị N, chị M, anh H1, anh H2 được nhận lại tiền tạm ứng án
phí đã nộp. Bà Vũ Thị N, ông Phạm Ngọc S không nộp tạm ứng án phí do là
người cao tuổi.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 308, Điều 310; khoản 2 Điều 244 của Bộ
luật Tố tụng dân sự:
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Vũ Thị N, chị Phạm Thị V, chị
Phạm Thị T, ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh Phạm Văn H1, anh Phạm
Văn H2, chị Phạm Thị M. Tuyên xử:
1. Hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 24-5-
2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút về yêu cầu xác định quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án; hủy một phần bản án
về tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
2. Đình chỉ giải quyết một phần vụ án đối với:
+ Yêu cầu độc lập của ông Đinh Văn T, ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thị
D về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
+ Một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu chia giá trị quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 210, tờ bản đồ số 22,
diện tích 8.356 m
2
tọa lạc tại thôn 8, xã W, huyện C, tỉnh Đắk Nông do Uỷ ban
12
nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2006 cho hộ
ông Phạm Ngọc S và bà Vũ Thị N.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:
s
- Trả lại cho ông Đinh Văn T 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án
phí đã nộp theo biên lai số 0003811 ngày 23/05/2022 tại Chi cục Thi hành án
Dân sự huyện C.
- Trả lại cho ông Trần Văn C, bà Nguyễn Thị D 300.000đ (ba trăm nghìn
đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003800 ngày 19/05/2022 tại Chi
cục Thi hành án Dân sự huyện C.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Vũ Thị N, chị Phạm Thị V, chị Phạm
Thị T, ông Phạm Ngọc S, chị Phạm Thị N, anh Phạm Văn H1, anh Phạm Văn
H2, chị Phạm Thị M không phải chịu án phí phúc thẩm.
Trả lại cho chị Phạm Thị M, chị Phạm Thị V, chị Phạm Thị N, chị Phạm
Thị T, anh Phạm Văn H1, anh Phạm Văn H2, mỗi người 300.000đ (ba trăm
nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp lần lượt theo các biên lai số 0005109,
0005110, 0005111, 0005112, 0005113, 0005114 ngày 18/6/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Cư Jut, tỉnh Đắk Nông.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
- TAND cấp cao TP HCM;
- VKSND tỉnh Đăk Nông;
- TAND huyện Cư Jut;
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu: Tổ HCTP, Tòa DS, HSVA.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Lê Văn Hữu
13
Tải về
Bản án số 100/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 100/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm