Bản án số 392/2024/DS-PT ngày 18/09/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 392/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 392/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 392/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 392/2024/DS-PT ngày 18/09/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 392/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà H khởi kiện yêu cầu buộc bà L, Hồ Trúc M, Hồ Duy Đ tháo dỡ, di dời nhà để trả cho bà toàn bộ diện tích đất theo đo đạc thực tế 1.551,6m2 tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện U |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 392/2024/DS-PT
Ngày 18 – 9– 2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Phạm Văn Hùng – Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 275/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 8
năm 2024 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 91/2024/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 228/2024/QĐ-PT ngày 21
tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị H, sinh năm 1961 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Bà Đặng Thị L, sinh năm 1973 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Hồ Trúc M, sinh năm 1998 (Vắng mặt);
2. Anh Hồ Duy Đ, sinh năm 2000 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
3. Ủy ban nhân dân huyện U, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt);
Địa chỉ: Khóm C, trị trấn U, huyện U, tỉnh Cà Mau.
4. Ngân hàng N.
Địa chỉ: Số B L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V, chức vụ: Tổng Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Chí D – Giám đốc Ngân hàng N - Chi
nhánh huyện U (Vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bà Đặng Thị H, là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo bà Đặng Thị H trình bày:
Trước đây cha mẹ bà có cho bà một phần đất tại ấp A, xã K, huyện U, tỉnh
Cà Mau. Năm 2012, bà được Ủy ban nhân dân huyện U cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên Đặng Thị H, phần đất tại thửa số 20 và 125, tờ bản đồ
số 04, diện tích 14.790m
2
. Năm 2007, bà có cho gia đình vợ chồng em gái bà là
Đặng Thị L và Hồ Văn T mượn một phần đất để cất nhà ở, phần đất cho mượn
diện tích ngang mặt lộ là 10m, chiều dài 35m. Đến khoảng năm 2012 - 2013 ông
Hồ Văn T chết, hiện nay bà Đặng Thị L và hai con bà L là Hồ Trúc M và Hồ Duy
Đ đang ở và sử dụng phần đất bà cho mượn. Vì là chị em ruột trong gia đình nên
khi cho vợ chồng bà L mượn đất không có làm giấy tờ, nay bà L và các con là Hồ
Trúc M, Hồ Văn Đ1 cất nhà lấn chiếm sang phần đất của bà có chiều ngang mặt lộ
là 26m, chiều dài vô 36m. Vị trí phần đất tranh chấp như sau: Phía đông giáp lộ xe;
Phía tây, phía nam giáp phần đất còn lại của bà; Phía Bắc giáp đất ông T1. Bà có
yêu cầu Ủy ban nhân dân xã K hòa giải và yêu cầu bà Đặng Thị L cùng Hồ Trúc M
và Hồ Duy Đ trả lại đất cho nhưng bà L và các con của bà L không trả lại đất. Do
đó, bà H khởi kiện yêu cầu buộc bà L, Hồ Trúc M, Hồ Duy Đ tháo dỡ, di dời nhà
để trả cho bà toàn bộ diện tích đất theo đo đạc thực tế 1.551,6m
2
tọa lạc tại ấp A,
xã K, huyện U.
- Theo bà Đặng Thị L trình bày:
Bà L không đồng ý trả đất theo yêu cầu của bà H, vì phần đất này bà được
cha của bà cho và bà đã cất nhà ở ổn định từ khoảng năm 2002, 2003 đến nay. Việc
bà được cha bà cho đất có các anh chị em trong gia đình và nhiều người biết. Khi
bà H làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà và các anh chị em của
bà không hay biết. Việc bà H làm giấy chứng nhận toàn bộ phần đất của bà được
cho là không đúng, bà yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do bà H đứng tên để bà được quyền sử dụng đối với phần đất bà được cha bà cho
có diện tích theo đo đạc thực tế 1.551,6m
2
.
- Theo anh Hồ Duy Đ trình bày:
Anh Đ thống nhất với lời trình bày của bà Đặng Thị L, không bổ sung gì
thêm.
- Tại văn bản số 104/NHN
o.
UM ngày 24/4/2024 của Ngân hàng N trình bày:
Hiện tại bà Đặng Thị H có vay vốn theo Hợp đồng tín dụng số 7503-LAV
202305215 tại Ngân hàng N - Chi nhánh huyện U, tỉnh Cà Mau Cà Mau, tính đến
ngày 24 /4/2024 tổng số tiền là 303.521.095 đồng (Trong đó: Nợ gốc: 300.000.000
đồng và nợ lãi: 3.521.095 đồng) nợ đang trong thời hạn theo hợp đồng. Ngân hàng
không có ý kiến trong vụ tranh chấp nêu trên và xin vắng mặt tại cuộc kiểm tra
giao giao, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử sơ thẩm với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 91/2024/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện U Minh quyết định:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H về việc yêu cầu bà
Đặng Thị L, chị Hồ Trúc M, anh Hồ Duy Đ trả lại cho bà Đặng Thị H phần đất
diện tích theo đo đạc thực tế 1551,6m
2
tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà
Mau.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Đặng Thị L về việc bà L yêu cầu được
quyền sử dụng phần đất tranh chấp có diện tích 1551,6m
2
. Bà L được quyền sử
dụng phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 1551,6m
2
, thuộc một phần thửa số
151, tờ bản đồ số 4 đất tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau, có vị trí như
sau:
- Hướng Đông giáp đường Bê tông dài 40,7m.
- Hướng Tây giáp phần đất còn lại của bà Đặng Thị H dài 40m.
- Hướng Bắc giáp đất ông Đặng Văn T2 dài 41,86m.
- Hướng Nam giáp phần đất còn lại của bà Đặng Thị H dài 35,21m.
Bà Đặng Thị L có quyền liên hệ với các cơ quan chức năng để thực hiện việc
điều chỉnh, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng có diện tích theo đo đạc thực tế
1551,6m
2
, thuộc một phần thửa số 151, tờ bản đồ số 4, đất tọa lạc tại ấp A, xã K,
huyện U, tỉnh Cà Mau.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
đương sự.
Ngày 05/7/2024, bà Đặng Thị H có đơn kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm, buộc bà L trả lại cho bà H diện tích theo đo đạc thực tế 1551,6m
2
tọa lạc tại
ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Đặng Thị H giữ nguyên kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Bà H phát biểu: Yêu cầu bà L trả lại diện tích đất theo đo đạc 1.551,6m
2
toạ
lạc tại ấp A, xã K, huyện U.
Bà L không có ý kiến tranh luận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Về nội dung: Cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ trên
phần đất có căn nhà của bà L và chưa có ý kiến bà L là người đang ở trên đất có
đồng ý hay không đồng ý việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H;
chưa thu thập được tài liệu sổ mục kê đất đai của bà H theo bản đồ 299, sổ mục kê
đất đai của bà L và bà H theo bản đồ địa chính 2005; chưa làm rõ đất tranh chấp có
nguồn gốc là của ông Đ2 (là cha bà H và bà L), bà L cho rằng được ông Đ2 cho 01
công tầm lớn bằng 1.296m
2
nhưng vì sao bà L được kê khai trong sổ mục kê diện
tích 5.920m
2
; chưa có văn bản trả lời của Ủy ban nhân dân huyện U về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H có đúng trình tự quy định của pháp
luật hay không. Đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên toà thu thập thêm các
chứng cứ chưa được làm rõ nêu trên; trường hợp cấp phúc thẩm không khắc phục
được, đề nghị huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho cấp phúc thẩm giải quyết lại
vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của bà Đặng Thị H, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Theo đo đạc thực tế, phần đất tranh chấp có diện tích 1.551,6m
2
tọa lạc
tại ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau, nằm trong tổng diện tích đất 14.790m
2
do bà
H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp ngày 12/9/2012, thuộc một
phần của thửa số 125, tờ bản đồ số 4.
[2] Về nguồn gốc đất: Bà H và bà Đặng Thị L đều thừa nhận nguồn gốc đất
trước đó là do cha mẹ tạo lập. Bà H cho rằng phần đất diện tích 14.790m
2
nêu trên
bà H được cha mẹ cho (không nhớ năm); đến năm 2007, bà H cho bà L mượn phần
đất ngang 10m, dài 35m (diện tích 350m
2
) cất nhà ở; sau đó bà L và các con lấn
xây cất lấn chiếm thêm ngang 26m, dài 35m (theo đo đạc thực tế tổng diện tích bà
L đang sử dụng là 1.551,6m
2
), nên bà H khởi kiện yêu cầu bà L và các con trả lại
diện tích đất theo đo đạc 1.551,6m
2
. Bà L không thừa nhận có việc mượn đất như
bà H trình bày, bà L xác định phần đất nêu trên bà L được cha mẹ cho từ năm 2000
và bà L đã xây cất nhà ở trên đất từ năm 2002, 2003 nên không đồng ý trả đất theo
yêu cầu bà H.
[3] Đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H đứng tên,
tại Công văn số 147/TNMT ngày 11/4/2024 của Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện U thể hiện: Theo bản đồ năm 1994 (bản đồ 299) phần đất tranh chấp thuộc
thửa số 30, 31 tờ bản đồ số 3, diện tích 18.320m
2
do bà H kê khai và đăng ký. Đến
bản đồ địa chính năm 2005 thì phần đất tranh chấp thuộc thửa số 125, tờ bản đồ số
4, diện tích 5.920m
2
do bà L kê khai, đăng ký và thuộc thửa số 20, tờ bản đồ số 4,
diện tích 8.870m
2
do bà H kê khai, đăng ký. Năm 2012, khi bà H thực hiện thủ tục
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đăng ký toàn bộ phần đất có diện
tích là 14.790m
2
trong đó có cả diện tích đất hiện đang tranh chấp là thửa 125 (bản
đồ địa chính năm 2005) do bà L đăng ký kê khai. Khi lập thủ tục cấp quyền sử
dụng đất thì bà L đã cất nhà, sinh sống trên phần đất này nhưng cũng không có đo
đạc đất và cũng không có ý kiến của bà L đối với phần đất mà bà L đang quản lý
sử dụng.
[4] Việc bà H cho rằng cho bà L mượn đất cất nhà ở cũng không được bà L
thừa nhận, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm cũng như tại cấp phúc thẩm
bà H cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng minh việc bà H cho bà
L mượn đất ngoài việc xác định phần đất tranh chấp nằm trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do bà H đứng tên. Hơn nữa, trình bày của bà H về thời gian cho
bà L mượn đất cũng không thống nhất nhau: Tại biên bản xác minh ngày
11/10/2022 của xã K thì bà H trình bày cho bà L mượn đất cất nhà ở khoảng năm
2012; nhưng đến khi khởi kiện thì bà H trình bày cho bà L mượn đất vào năm
2007.
[5] Qua xác minh đối với bà Đặng Thị Y, ông Đặng Tấn Đ3, bà Đặng Thị T3
là anh chị em ruột với bà H và bà L đều xác định phần đất tranh chấp là của cha
các ông bà (là ông Đặng Văn Đ4) cho bà L. Tại hồ sơ cũng thể hiện ông Đ4 có làm
giấy cho đất bà L. Các chứng cứ này phù hợp với trình bày của bà L về nguồn gốc
phần đất tranh chấp bà L đang quản lý sử dụng là do được cha bà L cho đất.
[6] Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Toà án và biên bản kiểm kê
tài sản định giá của Công ty T4 thể hiện trên phần đất có 01 căn nhà của bà L xây
cất vào năm 2000, 01 cây nước của gia đình bà L khoan vào năm 2000. Hơn nữa,
bà H cũng thừa nhận phần đất tranh chấp hiện nay bà L đang quản lý sử dụng đã có
bờ bao chu vi tách riêng với phần đất còn lại của bà H đang quản lý sử dụng, hiện
trạng bờ hiện nay vẫn còn. Như vậy, chứng minh được bà L đã quản lý sử dụng đất
và cất nhà ở từ trước năm 2007 do được cha bà L cho đất, nên việc bà H cho rằng
năm 2007 cho bà L mượn đất cất nhà ở là không có căn cứ.
[7] Từ nhận định trên, xét thấy Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu của bà H về việc yêu cầu bà L trả lại diện tích đất theo đo đạc 1.551,6m
2
nêu
trên và chấp nhận yêu cầu phản tố của bà L là có căn cứ. Do đó, cấp phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo bà H, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[8] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị tạm ngừng phiên toà
để thu thập thêm các tài liệu chứng cứ như đã nêu trên xét thấy là không cần thiết,
nên không được chấp nhận.
[9] Án phí dân sự phúc thẩm: Bà H là người cao tuổi nên được miễn chịu án
phí (được miễn dự nộp).
[10] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên
không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Đặng Thị H.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số:91/2024/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H về việc yêu cầu bà
Đặng Thị L, chị Hồ Trúc M, anh Hồ Duy Đ trả lại cho bà Đặng Thị H phần đất
diện tích theo đo đạc thực tế 1551,6m
2
tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà
Mau.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Đặng Thị L. Bà L được quyền sử dụng
phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 1551,6m
2
, thuộc một phần thửa số 151,
tờ bản đồ số 4 đất tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau. Vị trí, ranh giới,
kích thước phần đất được thể hiện theo Bản trích đo hiện trạng ngày 27/6/2023 của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn P.
Bà Đặng Thị L có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để thực hiện thủ
tục đăng ký kê khai cấp quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
(Có Bản trích đo hiện trạng kèm theo)
- Chi phí tố tụng: Bà Đặng Thị H phải chịu số tiền 22.321.200 đồng (bà H đã
nộp xong).
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đặng Thị H được miễn chịu án phí. Bà Đặng
Thị L không phải chịu án phí. Bà L đã dự nộp 1.646.000 đồng theo biên lai thu số
0006015 ngày 13/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh được
nhận lại.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Đặng Thị H được miễn chịu án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện U Minh;
- Chi cục THADS huyện U Minh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Bản án số 392/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 392/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm