Bản án số 412/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 412/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 412/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 412/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨAVIỆT NAM
TỈNH LONG AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 412/2024/DS-PT.
Ngày: 19-9-2024
V/v: “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hủy chỉnh lý sang tên
trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
mở lối đi qua bất động sản liền kề”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Các Thẩm phán: 1. Ông Đặng Văn Những
2. Bà Trịnh Thị Phúc
- Thư ký phiên tòa: Mai Yến Khanh - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
ông Nguyễn Tấn Phát - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An
tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
203/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 4 năm 2024 về việc “Tranh chấp Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất, hủy chỉnh
sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mở lối đi qua bất động
sản liền kề”.
Do Bản án dân sự thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 21 tháng 02 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2024/QĐ-PT ngày 06
tháng 5 năm 2024, Thông báo mở lại phiên tòa phúc thẩm số 165/TA-TB
ngày 12 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Phạm Tấn P, sinh năm 1982
Địa chỉ: Ấp N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1995
Địa chỉ liên lạc: số A L, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Hợp đồng ủy quyền ngày 20/12/2019; có mặt).
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phạm
Văn V - Công ty L - thuộc Đoàn luật sư thành phố H (có mặt).
Bị đơn: Phạm Thị Mộng T, sinh năm 1979
Địa ch: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Kiến P1, sinh năm 1980
Địa chỉ: Ấp N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1995.
Địa chỉ: số A L, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. (Hợp
đồng ủy quyền ngày 20/7/2020). (có mặt)
2. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1936.
Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện B, tỉnh Long An (xin vắng mặt).
3. Ông Phạm Chí H1, sinh năm 1972.
4. Cháu Phạm Thu T1, sinh năm 2014.
Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật của cháu T1: Phạm Thị Mộng T, sinh
năm 1980 và ông Phạm Chí H1, sinh năm 1972.
5. Văn phòng C3.
Địa chỉ: 1 N, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Tấn T2 - Chức vụ: Trưởng
Văn phòng (xin vắng mặt).
6. Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh L.
Địa chỉ: số A Quốc lộ A, Phường D, Thành phố T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn C1 - Chức vụ: Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Phạm Thị Q - Phó Giám đốc Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B (Văn bản ủy quyền số
1728/VPĐKĐĐ-HCTH ngày 17/8/2022) (xin vắng mặt).
Người kháng cáo: Bị đơn bà Phạm Thị Mộng T
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa,
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc H trình bày:
Ông Phạm Tấn P cháu nội bà Nguyễn Thị C. Ngày 30/6/2018, C
chuyển nhượng cho ông P quyền sử dụng đất diện tích 3751,4m
2
, loại đất
chuyên trồng lúa nước, thuộc thửa 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A, xã T,
3
huyện B, tỉnh Long An. Đến ngày 18/7/2018, ông P được Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai tại huyện B chỉnh biến động cho ông P được đứng
tên thửa đất trên.
Do cha ông P bị bệnh nặng cần tiền để chữa trị nên ông P đã thế chấp
thửa đất này tại Ngân hàng N - Chi nhánh Đ để vay số tiền 200.000.000
đồng. Sau đó, ông P có nhờ người đến để bán một phần thửa đất trên để xoay
sở nhưng Phạm Thị Mộng T cản trở với do T một căn nhà
trồng cây trên phần đất này. Khi T y nhà, C yêu cầu T phải
xây trên phần đất thuộc quyền sử dụng đất của T thửa đất số 91, giáp
ranh với thửa đất 63 của ông P. Ngay cả việc T trồng cây trên đất của ông
P thì bà T cũng không hỏi ý kiến của bà C và ông P mà tự ý trồng. Do không
thường xuyên đến khu đất này, nên mãi sau này bà C ông P với phát hiện
sự việc trên. C ông P đã nhiều lần yêu cầu T di dời toàn bộ công
trình xây dựng cây trồng lấn chiếm trên đất của ông P, trường hợp T
muốn tiếp tục quản sử dụng thì phải làm thủ tục hoán đổi đất của bà T trả
lại cho ông P nhưng bà T không đồng ý.
Ngoài ra, thửa đất 63 của ông P bị vây bọc bởi thửa đất số 91 của bà T,
không lối đi ra đường công cộng. Do đó, ông P yêu cầu T phải mở lối
đi cho ông P.
Nay ông P yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc Phạm Thị Mộng T ông Phạm Chí H1 phải liên đới hoàn
trả cho ông P giá trị đối với quyền sử dụng đất thuộc khu A1 với số tiền
158.898.300 đồng (295,9m
2
x 537.000 đồng/m
2
). Ông P đồng ý giao cho
T được quyền sử dụng toàn bộ phần đất thuộc khu A, diện tích đo đạc thực
tế là 295,9m
2
.
- Buộc Phạm Thị Mộng T, ông Phạm Chí H1 mở lối đi cho ông P
phần đất thuộc khu B, diện tích 39,5m
2
tại thửa đất số 91, tờ bản đ26. Ông
P đồng ý hoàn trả cho T giá trị quyền sử dụng đất thuộc khu B1, diện tích
đo thực tế 39,5m
2
với số tiền là 21.211.500 đồng (537.000 đồng/m
2
x
39,5m
2
).
Ông P không đồng ý với yêu cầu phản tố của bà T.
Người đại diện theo y quyền của bị đơn ông Nguyễn Minh C2 trình
bày: Nguồn gốc thửa đất số 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện
B, tỉnh Long An của Nguyễn Thị C nội T. Cha mT đã ly
hôn nhau khi T còn rất nhỏ. Do đó, khoảng năm 2003, C cho T
phần đất diện tích khoảng 250m
2
, thuộc 1 phần thửa đất số 63 để cất nhà
(nay là khu A), việc tặng cho chỉ nói miệng và không lập giấy tờ gì, không ai
chứng kiến. Khi bà T cất nhà và sinh sống trên đất, C biết và không
phản đối, tuy nhiên hiện T vẫn chưa làm thủ tục sang tên đối với diện tích
4
đất này. Đến tháng 01/2013, bà T tháo dỡ nhà này để xây dựng nhà kiên cố
sinh sống ổn định cho đến nay. Phần còn lại của thửa đất số 63 (hiện nay
là khu A) thì bà T thuê của bà C để trồng lúa, mía, sau đó trồng chanh. Hằng
năm bà T có đưa cho bà C số tiền 3.000.000 đồng, việc thuê đất và giao nhận
tiền không lập giấy tờ không ai chứng kiến. Năm 2018, C chuyển
nhượng toàn bộ thửa đất 63, trên đất có nhà và cây trồng của bà T đang quản
mà T không hề hay biết. Đến năm 2020 thì T bhoang không canh
tác nữa, hiện tại không còn bất kỳ cây trồng gì trên đất.
Ngoài ra, thửa đất số 63 của ông P ngoài lối đi qua khu B1 thuộc thửa
đất số 91 của T thì ông P thể sử dụng bruộng giáp ranh thửa đất số
89 của chủ sở hữu khác hoặc đi theo các đường vòng khác để đi vào đất của
ông P, nên lối đi tại khu B1 không phải là lối đi duy nhất để ông P đi từ thửa
đất số 63 ra đường công cộng.
Do đó, theo yêu cầu khởi kiện của ông P thì bà T không đồng ý, đồng
thời, bà T yêu cầu phản tố:
- hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
6118, quyển số 01-2018-TP/CC- SCC/HĐGD ngày 30/6/2018 tại Văn phòng
C3 giữa Nguyễn Thị C ông Phạm Tấn P đối với diện tích đất 295,9m
2
(khu A), thuộc một phần thửa đất số 63, tờ bản đsố 26, tọa lạc tại ấp A,
T, huyện B, tỉnh Long An.
- Hủy chỉnh biến động sang tên ông Phạm Tấn P đối với diện tích
295,9m
2
(khu A1), thuộc một phần thửa 63, tờ bản đồ số 26, được Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B cập nhật đăng ký ngày 18/7/2018.
T yêu cầu được tiếp tục sử dụng phần đất thuộc khu A1 do đã
xây dựng nhà và cùng gia đình sinh sống ổn định trên phần đất này.
Bà T rút yêu cầu hủy 01 phần giấy chứng nhận QSDĐ số CE 835847 do
Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp cho bà C đối với diện tích 288,2m
2
thuộc một phần thửa đất số 63.
Trong quá trình giải quyết vụ án, những người quyền lợi, nghĩa v
liên quan gồm:
1. Ông Phạm Chí H1 trình bày: Ông chồng của T. Ông thống
nhất toàn bộ nội dung trình bày của bà T không bổ sung thêm. Hiện
phần đất tranh chấp thuộc khu A1 do vợ chồng ông cùng con gái tên Phạm
Thu T1 đang quản lý, sử dụng, ngoài ra không còn ai khác.
2. Nguyễn ThKiến P1 do ông Nguyễn Ngọc H đại diện theo ủy
quyền trình bày: P1 vợ của ông P. P1 thống nhất toàn bộ nội dung
trình bày và yêu cầu của ông P, không bổ sung gì thêm.
5
3. Tại bản tường trình ngày 29/7/2020, bà Nguyễn Thị C trình bày:
bà nội của ông Phạm Tấn P Phạm Thị Mộng T. Nguyên vào năm
2018, đã chuyển nhượng cho ông P quyền sử dụng đất diện tích
3.751,4m
2
thuộc thửa đất số 63, tờ bản đồ số 26 tại ấp A, xã T, huyện B, tỉnh
Long An. Do đã già yếu, không canh tác được nên để cho T trồng
lúa, sau đó, bà T chuyển sang trồng mía. Trong thời gian canh tác, năm đầu
tiên T cho 2.000.000 đồng, năm tiếp theo T cho bà 3.000.000 đồng,
sau đó thì không cho nữa. xác nhận số tiền này tiền con cháu cho
nội chứ không phải tiền thđất, không cho T thuê đất, giữa bà
T cũng không ký bất kỳ hợp đồng thđất nào. Việc T trồng chanh
từ lúc nào, bà hoàn toàn không biết. Đến khi ông P và bà T xảy ra tranh chấp
thì bà mới biết. Việc bà T y nhà thì bà biết nhưng T đất giáp
ranh với đất của nên nghĩ T xây nhà trên đất của T chứ không
biết bà T lấn chiếm và xây nhà trên đất của bà.
4. Văn phòng C3 do ông Dương Tấn T2 - Trưởng văn phòng đại diện
trình bày tại Văn bản ngày 08/7/2022: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số 6118, quyển số 01-2018-TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C3
chứng nhận ngày 30/6/2018 đối với quyền sử dụng 3.751,4m
2
loại đất LUC,
thuộc thửa đất số 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A, T, huyện B, tỉnh
Long An hoàn toàn đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Văn phòng
đề nghị Tòa án căn cứ theo sự thỏa thuận của các bên, theo quy định của
pháp luật để pháp luật để giải quyết vụ kiện.
5. Văn phòng đăng đất đai tỉnh L do Phạm Thị Q đại diện trình
bày: Khi cấp giấy cho ông P không đo đạc thực tế, không lập biên bản
xác định ranh giới, mốc giới thửa đất. Khi cấp giấy cho T đo đạc thực
tế, lập biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất. Việc cấp giấy cho
T, ông P đúng trình tự, thủ tục quy định tại thời điểm cấp giấy. Do đó,
Văn phòng đăng đất đai tỉnh L không ý kiến trong vkiện này, đề
nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết.
Các đương sự thống nhất với kết quả đo đạc theo Mảnh trích đo địa
chính số 258-2020 do Công ty TNHH Đ1 thực hiện ngày 01/12/2020
được chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện B duyệt ngày
15/12/2020; Mảnh trích đo số 258A-2023, ngày 18/12/2023 của công ty
TNHH Đ1 Chứng thư thẩm định gsố 28.2021.VT.HS ngày 15/01/2021
của Công ty Cổ phần T3, không yêu cầu định giá đo lại; đề nghị Tòa án
căn cứ vào kết quả trên để giải quyết vụ án.
Vụ án được Tòa án nhân dân huyện Bến Lức tiến hành hòa giải nhưng
các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 21/02/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Bến Lức đã tuyên:
6
Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 35, 39, 147, 200, 217, 218, 228 Bộ luật
Tố tụng Dân sự 2015;
Căn cứ Điều 117, 122, 175, 254 Bộ luật Dân sự; Điều 100, 166, 170,
203 Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án plệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Tấn P.
1.1. Buộc bà Phạm Thị Mộng T và ông Phạm Chí H1 phải liên đới hoàn
trả cho ông Phạm Tấn P giá trị quyền sử dụng phần đất diện tích đo đạc thực
tế là 295,9m
2
, loại đất LUC, tại vtrí khu A1 thuộc một phần thửa đất số 63,
tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A, T, huyện B, tỉnh Long An với số tiền
158.898.300 đồng.
1.2. Buộc bà Phạm Thị Mộng T, ông Phạm Chí H1 mở lối đi cho ông P
phần đất thuộc khu B, diện tích đo đạc thực tế 39,5m
2
thuộc 1 phần thửa
91 tờ bản đồ 26, tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
1.3. Buộc ông Phạm Tấn P hoàn trả cho Phạm Thị Mộng T giá trị
quyền sử dụng đất thuộc khu B1 là 21.211.500 đồng
1.4. Sau khi khấu trừ nghĩa vụ của ông P đối với T thì buộc T
ông H1 phải liên đới hoàn trả cho ông P số tiền 137.686.800 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Phạm Thị Mộng T về việc:
2.1. hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
6118, quyển số 01-2018-TP/CC SCC/HĐGD ngày 30/6/2018 tại Văn
phòng C3 giữa Nguyễn Thị C ông Phạm Tấn P đối với diện ch
295,9m
2
(khu A1), thuộc một phần thửa 63 tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A,
xã T, huyện B, tỉnh Long An.
2.2. Hủy chỉnh biến động sang tên ông Phạm Tấn P đối với diện ch
295,9m
2
(khu A1), thuộc một phần thửa 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại Ấp
A, T, huyện B, tỉnh Long An được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
tại huyện B cập nhật đăng ký 18/7/2018.
3. Phạm Thị Mộng T ông Phạm Chí H1 quyền tiếp tục sử
dụng, quản lý, sở hữu đối với nhà, công trình kiến trúc đất tại Khu A
diện tích 295,9m
2
, thuộc thửa đất số 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A,
T, huyện B, tỉnh Long An.
(Vị trí, tứ cận, loại đất, chiều dài chiều rộng các phần đất trên được
thể hiện theo Mảnh trích đo địa chính số 258-2020 do công ty TNHH Đ1
thực hiện ngày 01/12/2020 và được chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại
7
huyện B duyệt ngày 15/12/2020; Mảnh trích đo số 258A-2023, ngày
18/12/2023 của công ty TNHH Đ1)
Người được thi hành án người phải thi hành án trách nhiệm liên
hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục kê khai, đăng ký cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đã cấp).
Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu
quan nhà nước thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã cấp).
quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án,
quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
4. Đình chỉ xét xử đối với 1 phần yêu cầu phản tố của Phạm Thị
Mộng T về việc hủy 01 phần giấy chứng nhận QSDĐ số CE 835847 do Sở
Tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp cho bà C đối với diện ch 288,2m
2
thuộc một phần thửa 63, tờ bản đồ số 26.
Bản án thẩm n tuyên về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng
cáo, quyền yêu cầu thi hành án đối với các đương sự.
Ngày 04/3/2024, Phạm Thị Mộng T đơn kháng cáo bản án dân sự
sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm
theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các đương sự xác định: Ngoài những chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án
không còn chứng cứ nào khác để cung cấp và không yêu cầu Tòa án thu thập
chứng cứ. Đồng thời, xác định không yêu cầu Tòa án triệu tập ai hoặc đưa
thêm ai khác vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, không rút đơn kháng cáo, bị đơn
giữ nguyên ý kiến. Các bên đương sự không đề nghị thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Luật Phạm Văn V phát biểu quan điểm bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho nguyên đơn trình bày: Diện tích đất tranh chấp do nội của
ông P Nguyễn Thị C tặng cho ông P. Khi bà T xây dựng nhà vào năm
2003 thì thời điểm đó không đo đạc thực tế, bản thân bà C cũng không
biết được chính xác ranh giới giữa các thửa đất số 63, 91 69 nên đã để
cho bà T cất nhà lấn sang thửa đất số 63 của ông P. Thời điểm đó, ông P
8
không sinh sống tại B sống cùng cha ruột tại huyện Đ nên cũng không
biết sự việc T cất nhà. Đến m 2018, bà C tặng cho đất ông P thì cũng
chỉ dựa trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không đo thực tế. Hiện
nay, thửa đất số 63 của ông P bị vây bọc bởi thửa đất số 91 của T, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc trồng trọt, canh tác của ông P trên thửa đất
số 63. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên bản án thẩm,
tạo cho thửa đất số 63 của ông P lối ra đường đi công cộng để ông P
thể canh tác ổn định.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn Phạm Thị Mộng T trình bày: T xác định đã cất nhà trên
phần đất Nguyễn Thị C tặng cho bà. Suốt khoảng thời gian T cất
nhà thì bà C cha ruột của T đều đến để trông coi vật liệu xây dựng,
cũng như giám sát quá trình cất nhà phụ với vợ chồng bà. Do đó, lời khai
của Nguyễn Thị C cũng như lời trình bày của ông P không căn cứ.
Đề nghHội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
ông P, chấp nhận kháng cáo của bà T.
Ông Phạm Chí H1 thống nhất với lời trình bày của bà T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về thủ tục: Người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Căn cứ vào c tài liệu chứng cứ trong hvụ án, ý
kiến trình bày của đương sự xét kháng cáo của Phạm Thị Mộng T,
thấy rằng:
- Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng đất, hủy chỉnh sang tên đối với diện tích 295,9m
2
tại khu
A1 thuộc một phần thửa đất số 63: Xét thấy, Nguyễn Thị C đã lập hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất toàn bộ thửa số 63, tờ bản đồ số 26,
diện tích 3751,4m
2
, loại đất LUC, tọa lạc ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An
cho ông Phạm Tấn P được Văn phòng C3, quyển số 01-2018-TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 30/6/2018, ông P đã được Chi nhánh VPĐK đất đai tại
huyện B chỉnh cập nhật sang tên ngày 13/7/2018. T cho rằng được
C nói miệng tặng cho đất đối với phần đất vị trí khu A1 thuộc một phần thửa
đất số 63. Tuy nhiên, T không cung cấp được chứng cứ chứng minh, lời
trình bày của bà T cũng không được bà C thừa nhận.
Căn cứ Mảnh trích đo địa chính số 258A-2023, ngày 18/12/2023 của
công ty TNHH Đ1 tphần nhà và công trình kiến trúc xây dựng khu A1
T đang sử dụng tổng diện tích 295,9m
2
thuộc thửa đất số 63 của ông P.
Ông P u cầu T phải trả lại giá trquyền sử dụng đất, đồng ý để T
9
ông H1 tiếp tục sử dụng phần đất trên. Do đó, Tòa án cấp thẩm không
chấp nhận yêu cầu phản tố của T về việc tuyên vô hiệu một phần hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/6/2018 giữa bà Nguyễn Thị
C ông Phạm Tấn P đối với diện tích 295,9m
2
(khu A1), thuộc một phần
thửa đất số 63 căn cứ. vậy, kháng cáo của T đối với phần này
không có cơ sở chấp nhận.
- Đối với tranh chấp yêu cầu mở lối đi qua thửa đất số 91: Xét thấy,
thửa đất 63 của ông P bất động sản bị vây bọc, không lối đi ra đường
công cộng. Lối đi được ông P yêu cầu mở trên bất động sản liền kề của T
được coi thuận tiện và hợp lý nhất, phù hợp quy định tại Điều 254 Bộ luật
Dân sự năm 2015. Phần diện tích ông P yêu cầu mở lối đi bề ngang 6m,
do ông P có nhu cầu cải tạo đất để canh tác nên cũng cần có lối đi rộng rãi để
thuận tiện đưa giới hóa vào canh tác đất nông nghiệp. Hơn nữa, phần đất
thửa 91 của T bngang đất mặt tiền 63,4m nên nếu mở lối đi
chiều ngang 6m thì mặt tiền thửa đất số 91 cũng còn lại 57,4m; chiều sâu của
phần đất mở lối đi 02 cạnh lần lượt 6,49m 6,69m nên cũng không
gây ảnh hưởng nhiều đến phần đất sử dụng còn lại của T. Đồng thời, việc
mở lối đi tại khu B1 diện tích đất 39,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 91 cũng
tạo điều kiện thuận lợi cho ông P canh tác, sử dụng đối với thửa đất 63.
vậy, không schấp nhận kháng cáo của T đối với phần tranh chấp
về lối đi.
Ngoài ra, trong phần quyết định của bản án thẩm buộc T, ông H1
mở lối đi cho ông P phần đất thuộc khu B, diện ch 39,5m
2
thuộc một phần
thửa đất số 91, nhưng lại không tuyên hạn chế quyền sử dụng đất của T,
ông H1 đối với phần đất lối đi mà ông P được quyền sử dụng tại khu B1 nêu
trên thiếu sót. Do đó, cần tuyên bố hạn chế quyền sử dụng đất của T,
ông H1 đối với phần đất lối đi ông P được quyền sử dụng tại vtrí khu
B1, diện ch 39,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 91, tờ bản đồ số 26, tọa lạc
tại ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
Từ những phân ch trên, n cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ
kháng cáo của bà Phạm Thị Mộng T và sửa bản án thẩm về cách tuyên án
như phân tích trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục:
[1.1] Đơn kháng cáo của Phạm Thị Mộng T được làm đúng theo quy
định tại Điều 272, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên được xem xét
giải quyết theo trình tự thủ tục phúc thẩm.
10
[1.2] Về xác định quan hệ tranh chấp thẩm quyền giải quyết vụ án:
Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án và giải quyết vụ
án là phù hợp theo quy định tại Điều 26, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.3] Về việc vắng mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thị C, Văn phòng C3 do ông Dương Tấn T2 đại diện, Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh L do Phạm Thị Q đại diện vắng mặt nhưng
đơn đnghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự
Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Phạm Thị Mộng T, thấy rằng:
Các đương sự thống nhất nguồn gốc phần đất tranh chấp của Nguyễn
Thị C. Đây tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án, T trình bày, năm 2003, C cho
bà T phần đất diện tích khoảng 250m
2
thuộc 1 phần thửa đất số 63 để cất nhà
(thời điểm năm 2003 nhà lá), việc tặng cho chỉ nói miệng và không làm
giấy tờ gì, không ai chứng kiến. Đến tháng 01/2013, bà T tháo dỡ nhà này và
xây dựng nhà kiên cố (nay là khu A1 theo Mảnh trích đo địa chính số 258A-
2023). Khi T cất nhà sinh sống trên đất, bà C biết không phản
đối nhưng đến nay bà T vẫn chưa làm thủ tục sang tên đối với phần đất này.
Tuy nhiên, tại bản tự khai ngày 29/7/2020 của bà Nguyễn Thị C, C xác
định việc bà T tự ý xây nhà trên một phần thửa đất số 63 thì bà C không biết,
cũng không có việc C cho T thuê phần đất trên để canh tác; số tiền
3.000.000 đồng T đưa C tiền cho chứ không phải tiền cho thuê
đất, thửa đất của bà T và C giáp ranh nhau nên C không biết việc T
xây nhà trên đất của C, khi phát hiện thì C đã yêu cầu T di dời nhà
trả lại phần đất trên cho ông P. Như vậy, T trình bày nhưng C không
thừa nhận, T cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời
trình bày của mình. Đồng thời, ông P, T C đều trình bày không xác
định được ranh giới chính xác giữa thửa đất số 63 91. Căn cứ vào Mảnh
trích đo địa chính số 258A-2023, được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai tại huyện B phê duyệt ngày 18/12/2023 thì vị trí nhà của bà T tại khu A1
được xây dựng trên một phần thửa đất số 63 do ông P đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do T xây dựng nhà kiên cố sinh
sống ổn định từ năm 2003 đến nay, nên ông P chỉ yêu cầu T hoàn giá trị
quyền sử dụng đất tại vị trí khu A, đồng ý giao cho T ông H1 tiếp tục
quản lý, sử dụng khai đối với diện tích đo thực tế 295,9m
2
thuộc thửa
đất số 63, tờ bản đồ số 26, tại T, huyện B, tỉnh Long An. Do đó, Tòa án
cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Phạm Thị
Mộng T ông Phạm Chí H1 liên đới hoàn gtrị đất đối với diện tích đất
thuộc khu A1 (295,9m
2
) với số tiền là 158.898.300 đồng là có căn cứ.
11
[2.2] Tuy nhiên, căn cứ quy định của Luật Đất đai Quyết định số
42/2021/QĐ-UBND ngày 18/10/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh L, thì diện
tích đất đang tranh chấp 259,9m
2
, loại đất LUC không đủ điều kiện tách
thành thửa đất mới, nhưng theo Công văn số 3752/CNVPĐK-HCTH ngày
29/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện B thì diện
tích đất này đủ điều kiện để nhập vào thửa đất số 91, loại đất LUC hiện
do T ông H1 trực tiếp quản lý, sử dụng, nên T ông H1 quyền
nghĩa vụ thực hiện thủ tục điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho phù hợp với thực tế sử dụng đất.
[2.3] Đối với yêu cầu mở lối đi của nguyên đơn ông Phạm Tấn P tại
phần đất diện tích đo thực tế 39,5m
2
tại khu B1 theo Mảnh trích đo địa
chính số 258A-2023, thuộc 1 phần thửa đất số 91, tờ bản đồ 26, xét thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, ông P xác định thửa đất số 63 của ông bị vây bọc
bởi thửa đất số 91 của T, không lối đi ra đường công cộng. Trong khi
đó, T ông H1 cho rằng ngoài lối đi tại khu B thì ông P thể sử dụng
các bờ ruộng liền kề với thửa đất số 89 của chủ sở hữu khác hoặc đi theo các
đường vòng khác để đi vào thửa đất số 63 của ông P, lối đi tại khu B mà ông
P yêu cầu không phải lối đi duy nhất từ thửa đất số 63 đi ra đường công
cộng. Tuy nhiên, căn cứ Công văn số 497/UBND-ĐC ngày 27/9/2021 của
Ủy ban nhân dân xã T thì: “Thửa đất 63, tờ bản đồ số 26, diện tích
3.699,1m
2
, tọa lạc tại T, huyện B, tỉnh Long An do ông Phạm Tấn P đứng
tên. Hiện tại trên bản đồ địa chính xã T, thửa đất 63, tờ bản đồ số 26 không
tiếp giáp đường công cộng (đường K)”. Đồng thời, tại Biên bản xem xét
thẩm định tại chỗ ngày 16/3/2022 của Tòa án thể hiện, nếu muốn đi vào thửa
đất số 63 của ông P thì chỉ thể đi bằng bruộng từ đầu đường kênh công
cộng vòng qua thửa đất số 68, 66, 91 hoặc đi từ bờ ruộng thửa đất số 83 qua
thửa đất số 89. Hiện tại, các bờ ruộng này chỉ sử dụng để đi bộ, phục vụ cho
canh tác ruộng lúa c thửa liền kề, không thể di chuyển bằng xe (hai bánh,
bốn bánh) được, vậy sẽ gây khó khăn cho chủ sử dụng thửa đất số 63 khi
thực hiện giới hóa, cải tạo đất vận chuyện nông sản ra đường công
cộng, gây ảnh hưởng đến quyền lợi đời sống nông nghiệp của chủ sử
dụng đất. Hơn nữa, phần đất thửa 91 của T bề ngang đất mặt tiền
63,4m nên nếu mở lối đi có chiều ngang 6m thì mặt tiền thửa đất số 91 cũng
còn lại 57,4m; chiều sâu của phần đất mở lối đi có 02 cạnh lần lượt 6,49m
và 6,69m nên cũng không gây ảnh hưởng nhiều đến phần đất sử dụng còn lại
của T. Do đó, sở xác định thửa đất số 63 của ông P bbất động sản
liền kề thửa đất số 91 của Phạm Thị Mộng T vây bọc, không lối đi
ra đường công cộng theo Điều 254 Bộ luật Dân sự. Căn cứ khoản 1 Điều
254 của Bộ Luật Dân sự 2015 quy định“Chủ sở hữu bất động sản bị vây
bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác không hoặc không
đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây
bọc dành cho mình một lối đi hợp trên phần đất của họ. Lối đi được mở
12
trên bất động sản liền knào được coi thuận tiện hợp nhất,
tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và
thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi. Chủ sở hữu bất động
sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền cho chủ sở hữu bất động sản chịu
hưởng quyền, trừ trường hợp thỏa thuận khác. 2. Vị trí, giới hạn chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận
tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi
thì quyền yêu cầu Tòa án, quan nhà nước thẩm quyền khác xác
định…”. Từ những phân tích trên, xét thấy yêu cầu mở lối đi của ông P
nhu cầu cần thiết, phù hợp thực tế nên Tòa án cấp thẩm chấp nhận p
hợp, cần buộc Phạm Thị Mộng T, ông Phạm Chí H1 mở lối đi cho ông P
phần đất thuộc khu B, diện tích đo thực tế 39,5m
2
thuộc một phần thửa đất
số 91, tờ bản đồ 26, loại đất LUC, tọa lạc tại ấp A, T, huyện B, tỉnh Long
An, do bà T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 476610
do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp ngày 27/5/2019. Buộc ông P
nghĩa vụ đền giá trị quyền sử dụng đất cho T. Theo Chứng thư thẩm
định gsố 28.2021.VT.HS ngày 15/01/2021 của Công ty Cổ phần T3 thì
phần đất tranh chấp (khu B1) giá tr 537.000 đồng/m
2
x 39,5m
2
=
21.211.500 đồng. Các đương sự thống nhất không tranh chấp cây trồng phần
đất thuộc khu B1 nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.
[2.4] Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem
xét đến việc hạn chế quyền sử dụng của Phạm Thị Mộng T ông Phạm
Chí H1 đới với quyền sử dụng đất tại khu B, diện tích đo thực tế 39,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 91, tờ bản đồ 26, loại đất LUC, tọa lạc tại ấp A,
T, huyện B, tỉnh Long An khi chấp nhận yêu cầu mở lối đi qua bất động
sản liền kề của nguyên đơn ông Phạm Tấn P tại vị trí này. Do đó, để đảm
bảo việc thi hành bản án của Tòa án, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm cần sửa
cách tuyên án đối với phần này.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Phạm Thị
Mộng T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới để chứng
minh, nên không căn cứ chấp nhận, cần giữ nguyên bản án dân sự
thẩm.
[4] Phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại Tòa
là có căn cứ nên chấp nhận.
[5] Về án pdân sự phúc thẩm: Phạm Thị Mộng T phải chịu án phí
do kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
13
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị Mộng T.
Sửa một phần bản án dân sự thẩm số 13/2024/DS-ST ngày
21/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, các Điều 35, 39, 147, 148, 200, 217, 218,
228 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;
Căn cứ các Điều 117, 122, 175, 254 Bộ luật Dân sự; c Điều 100,
166, 170, 203 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ khoản 2 Điều 26, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường v Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Tấn P đối với
Phạm Thị Mộng T về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu mở lối
đi qua bất động sản liền kề.
1.1. Buộc Phạm Thị Mộng T ông Phạm Chí H1 phải liên đới
hoàn trả cho ông Phạm Tấn P giá trị quyền sử dụng phần đất diện tích đo
thực tế 295,9m
2
, loại đất LUC, tại vị trí khu A1 thuộc một phần thửa đất
số 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A, T, huyện B, tỉnh Long An với số
tiền là 158.898.300 đồng.
1.2. Phạm Thị Mộng T ông Phạm Chí H1 được quyền quản lý,
sử dụng đối với diện tích đất đo thực tế là 295,9m
2
tại khu A1, thuộc thửa đất
số 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A, T, huyện B, tỉnh Long An và căn
nhà, công trình kiến trúc, vật kiến trúc cùng toàn bộ cây trồng trên đất.
1.3. Phạm Thị Mộng T được liên hệ quan Nhà nước thẩm
quyền để lập thủ tục kê khai, đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất; điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp (hoặc một phần
diện ch trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp). Trường hợp ông
Phạm Tấn P không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu quan nhà nước thẩm
quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
(hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp).
quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
1.4. Buộc Phạm Thị Mộng T, ông Phạm Chí H1 mở lối đi cho ông
Phạm Tấn P tại khu B1, diện tích đo thực tế 39,5m
2
thuộc một phần thửa
đất số 91, tờ bản đồ 26, tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
14
1.5. Tuyên hạn chế quyền sử dụng đất của Phạm Thị Mộng T và
ông Phạm Chí H1 đối với phần đất lối đi mà ông Phạm Tấn P được quyền sử
dụng diện tích diện tích đo thực tế 39,5m
2
thuộc một phần thửa đất số
91, tờ bản đồ 26, tọa lạc tại ấp A, T, huyện B, tỉnh Long An do Phạm
Thị Mộng T đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho bà Phạm Thị Mộng T ngày
27/5/2019. Phạm Thị Mộng T ông Phạm Chí H1 được quyền sử dụng
hạn chế quyền sử dụng đất đối với phần lối đi mà ông Phạm Tấn P được sử
dụng và phải tuân thủ các điều kiện đảm bảo trong quá trình sử dụng đất của
các bên theo pháp luật đất đai quy định.
1.6. Buộc ông Phạm Tấn P hoàn trả cho Phạm Thị Mộng T giá trị
quyền sử dụng đất tại khu B1, diện tích đo thực tế 39,5m
2
thuộc một phần
thửa đất số 91, tờ bản đồ 26, tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An
với số tiền là 21.211.500 đồng.
1.7. Vị trí, tứ cận các khu đất, thửa đất theo Mảnh trích đo địa chính số
258-2020 do công ty TNHH Đ1 thực hiện ngày 01/12/2020 được chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện B duyệt ngày 15/12/2020;
Mảnh trích đo số 258A-2023, ngày 18/12/2023 của công ty TNHH Đ1.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Phạm Thị Mộng T đối với
ông Phạm Tấn P về việc:
2.1. Vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
6118, quyển số 01-2018-TP/CC - SCC/HĐGD ngày 30/6/2018 tại Văn
phòng C3 giữa Nguyễn Thị C ông Phạm Tấn P đối với diện ch
295,9m
2
(khu A1), thuộc một phần thửa 63 tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại ấp A,
xã T, huyện B, tỉnh Long An.
2.2. Hủy chỉnh lý biến động sang tên ông Phạm Tấn P đối với diện tích
295,9m
2
(khu A1), thuộc một phần thửa 63, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại Ấp
A, T, huyện B, tỉnh Long An được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
tại huyện B cập nhật đăng ký 18/7/2018.
3. Đình chỉ xét xử đối với 1 phần yêu cầu phản tố của Phạm Thị
Mộng T về việc hủy 01 phần giấy chứng nhận QSDĐ số CE 835847 do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho Nguyễn Thị C đối với diện tích
288,2m
2
thuộc một phần thửa đất số 63, tờ bản đồ số 26, đất tọa lạc tại T,
huyện B, tỉnh Long An.
4. Về chi phí đo đạc, định giá, thẩm định tại chỗ: Buộc T, ông H1
phải liên đới chịu 36.200.000 đồng. Ông P đã tạm nộp toàn bộ, do đó buộc
bà T, ông H1 phải liên đới hoàn trả cho ông P số tiền trên.
5. Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án
cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi
15
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
6. Về án phí dân sự sơ thẩm:
6.1. Buộc Phạm Thị Mộng T ông Phạm Chí H1 phải liên đới
chịu 6.884.340 đồng nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí
T đã nộp theo Biên lai thu số 0008300 ngày 23/11/2021 300.000 đồng
tạm ứng án phí T đã nộp theo Biên lai thu số 0012189 ngày 11/10/2022
của Chi cục thi hành án dân s huyn Bến Lc. T ông H1 còn phải
nộp tiếp 6.284.340 đồng.
6.2. Hoàn trả cho ông Phạm Tấn P 300.000 đồng tạm ứng án phí đã
nộp theo Biên lai thu số 0001900 ngày 04/5/2020; 523.000 đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu số 0008523 ngày 17/02/2022; 3.442.000 đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0006868, ngày 05/01/2024 của
Chi cc thi hành án dân s huyn Bến Lc.
7. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị Mộng T phải chịu 300.000
đồng, được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà T đã nộp
theo biên lai thu tiền số 0007032 ngày 13/3/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
-TAND cấp cao tại TP . HCM; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
-VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Bến Lức;
- Chi cục THADS huyện Bến Lức;
- Các đương sự
- Lưu HS, lưu án văn.
Phùng Thị Cẩm Hồng
16
Tải về
Bản án số 412/2024/DS-PT Bản án số 412/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 412/2024/DS-PT Bản án số 412/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất