Bản án số 39/2023/DS-ST ngày 28/08/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 39/2023/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 39/2023/DS-ST ngày 28/08/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bảo Lâm (TAND tỉnh Lâm Đồng)
Số hiệu: 39/2023/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/08/2023
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN B - LÂM ĐỒNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
______________________ ___________________
Bản án số: 39/2023/DS-ST
Ngày: 28 - 8 - 2023.
V/v tranh chấp: Hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ giữa anh T và bà
M, anh G.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
------------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - TỈNH LÂM ĐỒNG
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Trường
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Lê Thị Sáu
2. Ông Phạm Đức Minh
Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Vương - Thư Tòa án, Tòa án nhân dân
huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Hà - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 m 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh m Đồng
xét xử thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thẩm thụ số
142/2022/TLST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2022 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đấttheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2023/QĐXXST-
DS ngày 31 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Anh Bùi Vy Thế T, sinh m: 1989. Địa chỉ: Số 28 đường Hai Bà
Trưng, Tổ dân phố 1, Thị trấn D, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hồng P, sinh m: 1971.
Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện K, tỉnh Lâm Đồng. Văn bản ủy quyền lập ngày 12 tháng 12
năm 2022. (có mặt).
* Bị đơn: Dương Thị M, sinh năm: 1950 anh Trần Đức G, sinh năm:
1992. Địa chỉ: Số 41/2 đường Trần Phú, phường L, Thành phố Y, tỉnh Lâm Đồng. (
mặt).
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Thị Mỹ X, sinh m: 1975.
Địa chỉ: Số 41/2 đường Trần Phú, phường L, Thành phố Y, tỉnh Lâm Đồng. ( mặt).
2
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 17 tháng 7 năm 2022, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
15 tháng 8 năm 2022 trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Bùi Vy Thế T
và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Hồng P trình bày:
Vào ngày 11/02/2021 qua sự giới thiệu của anh Nguyễn Huỳnh Bảo Q thì anh T
đã đến gặp M để trao đổi về việc mua bán đất. M cho anh T xem 01 bản p
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản chính đang thế chấp ngân hàng). Sau khi trao
đổi thống nhất thì M lập giấy bán đất cho anh T diện tích chiều ngang 05m, chiều
dài 50m với giá tiền 50.000.000đ/m ngang thành tiền 250.000.000đ. Anh T đã giao đủ
số tiền 250.000.000đ cho M, anh G hẹn trong thời hạn 06 tháng phải trách
nhiệm làm thủ tục tách thửa và sang tên cho anh T.
Đến ngày 07/5/2021 anh T anh Q đến nhà M thì M nói nhu cầu
bán thêm 20m ngang na với giá 1.000.000.000đ, anh T đồng ý mua nên hai bên đã lập
giấy bán đất với tổng diện tích của 02 lần mua đất diện tích chiều ngang 25m,
chiều dài 50m với tổng số tiền 1.250.000.000đ thuộc một phần thửa đất số 30, tờ bản
đồ số 61 Lộc Ngãi, huyện B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sBY 138787
do UBND huyện B cấp ngày 27/12/2014 mang tên Thị Thanh Z (ngày 09/01/2015
Chi nháng Văn phòng đăng đất đai huyện B đã điều chỉnh tên người sử dụng đất sang
cho bà Dương Thị M).
Sau khi lập giấy bán đất, anh T đã giao đủ số tiền chuyển nhượng
1.250.000.000đ (giao tiền 02 lần) cho M ng con trai anh G M cùng con trai
anh G phải làm thủ tục tách sổ sang tên cho anh T trong thời hạn 03 tháng (tức
đến ngày 07/8/2021). Đến hẹn anh T không thấy M anh G làm thủ tục chuyển
nhượng theo thỏa thuận. Anh T cho người xuống hỏi thì được biết M đã làm thủ tục
tặng cho toàn bộ tài sản trên cho con gái bà Trần Thị MX từ trước khi lập giấy bán
đất cho anh T. Anh T yêu cầu trả lại số tiền đã nhận nhưng bà M và anh G không đồng ý.
Vì vậy, anh T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy bán đất lập ngày
07/5/2021; buộc M cùng anh G phải trách nhiệm liên đới trả lại cho anh T số tiền
đã nhận 1.250.000.000đ, không yêu cầu tính lãi suất và không yêu cầu giải quyết hậu
quả của hợp đồng.
Bị đơn bà Dương Thị M trình bày:
Xuất phát từ việc con trai anh G vay mượn số tiền 250.000.000đ của anh
T không còn khả năng trả nợ, nên vào ngày 11/02/2021 khi M nhà một mình
đang bị ốm, không con bà ở nhà thì anh T đến yêu cầu M phải trả tiền, khi bà
M bảo không có tiền trả thì anh T bảo bà thế chấp 05m đất cho anh T để làm tin nhưng bà
M nói rằng đã y quyền toàn bộ đất cho con gái rồi nên không đồng ý thì anh T
dọa nên M buộc phải vào giấy bán đất, còn thực tế thì M không nhận tiền của
3
anh T. Nay anh T khởi kiện thì bà M không đồng ý.
Bị đơn anh Trần Đức G trình bày:
Do bạn giới thiệu nên vào khoảng thời gian trước tháng 02/2021 anh G vay
của anh T số tiền 250.000.000đ. Do không khả năng trả nợ n vào ngày 11/02/2021
anh T yêu cầu anh G viết giấy bán đất, mục đích là để làm tin chứ không phải mua bán
nên anh G viết 01 giấy bán đất tên trước, nhưng do đất đứng tên M - mẹ
ruột của anh G nên anh T đã tự ý đến nhà đưa giấy cho M sau. Sau đó anh G đã trả
tiền được 02 lần tổng cộng 50.000.000đ chỉ còn nợ số tiền 200.000.000đ thì anh T
đồng ý cho anh G trả nợ dần n hai bên đã hủy bỏ (xé bỏ) giấy mua bán đất nêu trên.
Còn đối với giấy bán đất lập ngày 07/5/2021 thì anh G cho rằng anh mẹ anh không
viết và cũng không ký vào giấy này.
Vì vậy, anh G không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh T đồng ý trả lại cho
anh T số tiền vay còn nợ là 200.000.000đ, không đồng ý trả lãi suất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Mỹ X trình bày:
Bà X chỉ ngheM (mẹ ruột) anh G (em ruột)i việc anh G có vay của anh T
số tiền 250.000.000đ không khả năng trnợ. Còn thực tế thì bà M và anh G không
bán đất cũng không nhận tiền của anh T. Do diện tích đất y M đã làm thủ tục
tặng cho đã sang n cho bà X từ trước đó nên X không liên quan đến việc khởi
kiện của anh T.
Vụ án không tiến hành hòa giải được do nguyên đơn anh Bùi Vy Thế T đơn đề
nghị không tiến hành hòa giải.
Đại diện Viện kiểm t nhân dân huyện B tham gia phiên tòa đã phát biểu ý kiến
về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa và
của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B đề nghị: Tạm ngừng phiên tòa để giám
định chữ viết chữ của Dương Thị M anh Trần Văn G trong giấy mua bán đất
ngày 07/5/2021.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu c tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa;
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét x
nhận định:
[1]. Về ttụng: Anh Bùi Vy Thế T đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân
huyện B, tỉnh m Đồng giải quyết về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với Dương Thị M anh Trần Đức G. Theo quy định tại khoản 3 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án
4
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
[2]. Về nội dung:
M chsử dụng diện tích 3.361,7m
2
đất trồng cây u m thuộc thửa đất số
30, tờ bản đồ số 61 xã Lộc Ngãi, huyện B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY
138787 do UBND huyện B cấp ngày 27/12/2014 mang tên Thị Thanh Z (ngày
09/01/2015 Chi nháng Văn phòng đăng đất đai huyện B đã điều chỉnh tên người sử
dụng đất sang cho bà Dương Thị M).
Vào ngày 07/5/2021 M cùng con trai anh G đã viết giấy tay bán cho anh T
một phần thửa đất nói trên với diện tích 25m x 50m = 1.250m
2
với giá 1.250.000.000đ,
anh T đã thanh toán đtiền thỏa thuận đến ngày 07/8/2021 thì M anh G phải
làm xong thủ tục tách thửa sang tên cho anh T. Đến hẹn nhưng M anh G vẫn
chưa làm thủ tục tách thửa sang tên cho anh T theo quy định của pháp luật. Sau nhiều
lần yêu cầu trả lại tiền nhưng M anh G không đồng ý n hai bên đã xảy ra tranh
chấp.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án những lời trình y của
đương sự trong quá trình giải quyết vụ án thì thấy rằng:
Vào ngày 11/02/2021 sau khi thỏa thuận thì anh T đã đến gặp bà M, anh G để trao
đổi về việc mua bán đất. Sau đó M và anh G (anh G là người trực tiếp viết giấy)
tên vào giấy bán đất cho anh T diện tích chiều ngang 05m, chiều dài 50m với giá tiền
50.000.000đ/m ngang, tổng số tiền 250.000.000đ. Anh T đã giao đủ số tiền
250.000.000đ cho M, anh G hẹn trong thời hạn 06 tháng phải trách nhiệm làm
thủ tục tách thửa và sang tên cho anh T.
Đến ngày 07/5/2021 được biết M nhu cầu bán thêm 20m ngang nữa với giá
1.000.000.000đ, anh T đồng ý mua nên hai bên đã lập lại 01 giấy bán đất mới với tổng
diện tích của 02 lần mua đất diện tích chiều ngang 25m, chiều dài 50m với tổng
số tiền 1.250.000.000đ thuộc một phần thửa đất số 30, tờ bản đồ số 61 Lộc Ngãi,
huyện B.
Sau khi lập giấy bán đất lần 2, anh T đã giao thêm số tiền 1.000.000.000đ cho đủ
số tiền chuyển nhượng 1.250.000.000đ cho M cùng con trai anh G đồng T bỏ
bản chính Giấy bán đất lập ngày 11/02/2021; theo thỏa thuận M, anh G phải trách
nhiệm làm thủ tục tách sổ sang tên cho anh T trong thời hạn 03 tháng (tức đến ngày
07/8/2021). Đến hẹn anh T không thấy M anh G làm thủ tục chuyển nhượng theo
thỏa thuận. Anh T cho người xuống hỏi thì được biết M đã làm thủ tục tặng cho toàn
bộ tài sản trên cho con gái Trần Thị MX từ trước khi lập giấy bán đất cho anh T
nên không làm được thủ tục tách thửa và sang tên cho anh T.
Về phía M anh G thì cho rằng: Xuất phát từ việc anh G vay mượn số tiền
250.000.000đ của anh T không khả năng trả nợ nên anh T đã đe dọa yêu cầu
5
M, anh G phải viết giấy bán đất, mục đích là để làm tin chứ không phải mua bán thật,
cũng không có việc giao nhận tiền như anh T trình y. Tuy nhiên, M anh G lại
không đưa ra được chứng cứ gì để chứng minh. Còn nguyên đơn anh T đã cung cấp được
chứng cứ 01 bản chính Giấy bán đất lập ngày 07/5/2021 với nội dung như trên, chữ
điểm chỉ của M anh G. Nội dung giấy bán đất thể hiện M anh G bán
cho anh T diện tích đất là 25m x 50m đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng
1.250.000.000đ. Anh G cho rằng anh và mẹ anh không nhận tiền, không viết và không
tên vào giấy bán đất lập ngày 07/5/2021yêu cầu Tòa án tiến hành trưng cầu giám định
chữ viết chữ của M anh G. Tuy nhiên sau đó anh G lại không nộp tiền tạm
ứng chi phí giám định theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, chính anh G
M đều thừa nhận anh G người trực tiếp viết giấy bán đất ngày 11/02/2021
cùng ký tên vào giấy bán đất, điều đó chứng tviệc mua bán đất giữa M anh G với
anh T là có thật.
* Về giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng: Tại phiên tòa hôm nay,
Hội đồng xét xử đã giải thích cho anh T biết về quyền yêu cầu giải quyết hậu quả của
hợp đồng chuyển nhượng nhưng anh T cho rằng anh đã hiểu về quyền y nhưng anh
T không yêu cầu giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của anh T vviệc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(thực tế Giấy bán đất viết tay) lập ngày 07/5/2021; buộc M anh G phải trách
nhiệm liên đới trả cho anh T tổng số tiền 1.250.000.000đ, chia theo phần mỗi người
phải trả cho anh T số tiền 625.000.000đ.
[3]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên M
và anh G mỗi người phải chịu 300.000đ tiền án phí đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng của anh T được chấp nhận và 29.000.000đ tiền án phí trên số tiền phải thanh toán
cho anh T. M được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi
điểm đ khoản 1, khoản 2 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.
Anh T không phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật. Anh T được nhận
lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
147 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 500, Điều 501, Điều 502, Điều 503 của Bộ luật dân sự;
6
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban
Thường vụ Quốc hội quy định về Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Vy Thế T đối với Dương
Thị M anh Trần Đức G về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
1.1- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thực tế là Giấy bán đất viết
tay) lập ngày 07 tháng 5 năm 2021 đã giữa anh Bùi Vy Thế T với Dương Thị M
anh Trần Đức G.
1.2- Buộc Dương Thị M anh Trần Đức G phải trách nhiệm liên đới trả
cho anh Bùi Vy Thế T tổng số tiền 1.250.000.000đ (Một tỷ hai trăm năm mươi triệu
đồng) chia theo phần buộc Dương Thị M anh Trần Đức G mỗi người phải có trách
nhiệm trả cho anh Bùi Vy Thế T số tiền 625.000.000đ (Sáu trăm hai mươi lăm triệu
đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi
hành án xong, n phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền n phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2/ Về án phí:
Dương Thị M được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại Điều 2 Luật người
cao tuổi điểm đ khoản 1, khoản 2 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.
Buộc anh Trần Đức G phải chịu 29.300.000đ (Hai mươi chín triệu ba trăm ngàn
đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Anh Bùi Vy Thế T không phải chịu tiền án pdân sự thẩm theo quy định của
pháp luật. Anh Bùi Vy Thế T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 25.050.000đ
(Hai mươi lăm triệu không trăm năm mươi ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí,
X phí Tòa án s 0005243 ngày 16 tháng 8 năm 2022 ca Chi cc Thi hành án dân s
Thành phố Y, tỉnh Lâm Đồng.
3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án (28/8/2023); đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không
mặt khi tuyên án có do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được
bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi nh theo quy định tại Điều 2 Luật thi
nh án dân sự thì người được thi nh án dân sự, người phải thi nh án dân sự
quyền thỏa thuận thi nh án, quyền yêu cầu thi nh án, tự nguyện thi nh án hoặc bị
7
cưỡng chế thi nh án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi nh án dân
sự, thời hiệu thi nh án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- VKSND huyện B; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Đã ký
Nguyễn Đức Trường
Tải về
Bản án số 39/2023/DS-ST Bản án số 39/2023/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất