Bản án số 389/2025/HC-PT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 389/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 389/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 389/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 389/2025/HC-PT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 389/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 389/2025/HC-PT
Ngày 09 tháng 4 năm 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực
lấn chiếm đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
Ông Vương Minh Tâm
Ông Ngô Mạnh Cường
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Châu Loan - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Ông Phạm Công Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1221/2024/TLPT-HC
ngày 06 tháng 12 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực
lấn chiếm đất đai”
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 422/2024/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 315/2025/QĐ-PT ngày
25 tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên toà số: 195/2025/QĐH-PT ngày
18 tháng 3 năm 2025; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 730/2025/QĐ-
PT ngày 18 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn Đ (đã chết năm 2024)
Địa chỉ: Số G Quốc lộ A, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn Đ:
1. Bà Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1979 (vắng mặt);
2. Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1985 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số G Quốc lộ A, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Mỹ L: Ông Phan Quang M,
sinh năm 1987 (có mặt);
Địa chỉ: Phòng C, số A đường B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B
Địa chỉ: Số F đường P, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Minh N – Chức vụ: Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân quận B (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
1. Bà Hồ Thị H - Chức vụ: Phó trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi
trường quận B (vắng mặt);
2. Bà Ngô Thị H1 - Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường quận B
(vắng mặt);
3. Ông Trương Công L1 - Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường
quận B (vắng mặt);
4. Bà Nguyễn Thị H2 - Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường quận
B (có mặt).
- Người kháng cáo: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông
Nguyễn Văn Đ là bà Nguyễn Thị Mỹ L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Người khởi kiện ông Nguyễn Văn Đ có người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng trình bày:
Ông Nguyễn Văn Đ nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B với lý
do ông Đ đã thực hiện hành vi chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị, diện
tích đất: 9,3 m
2
.
Phần diện tích đất trên có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn Đ mua lại của bà
Nguyễn Thị T1 với giá là 3 chỉ vàng theo Giấy chuyển nhượng Kiot ngày
17/6/1986 để bán heo quay. Do ông Đ bị bệnh nên giao lại cho con gái là bà
Nguyễn Thị Mỹ L tiếp tục kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, ông Đ có đăng
ký kinh doanh và hoàn tất thủ tục về thuế cho Nhà nước. Việc ông Đ sinh sống và
kinh doanh trên mảnh đất này liên tục từ 1986 đến nay có Tổ trưởng Tổ dân phố
và bà con xung quanh làm chứng theo Giấy xác nhận nguồn gốc nhà đất ngày
13/6/2022 và cùng không bị cơ quan địa phương xử phạt.
Ông Đ không đồng ý với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 của Chủ tịch UBND quận B, bởi lẽ: Thứ nhất,
diện tích đất thực tế ông sử dụng là ngang 4,3 m x dài 1,6 m = 6,88 m
2
, không
phải 9,3 m
2
. Thứ hai, theo khoản 2 Điều 3 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày
3
19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
thì ông Đ không có hành vi chiếm đất, tự ý sử dụng đất.
Do đó, ông Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính số 15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
quận B.
Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B trình bày:
1. Về nguồn gốc:
Theo tài liệu do ông Nguyễn Văn Đ cung cấp: Ngày 17/6/1986, bà Nguyễn
Thị Thanh L2 giấy chuyển nhượng Kiot ngay ngã tư N - Quốc lộ A (ngã tư Đ)
cho ông Nguyễn Văn Đ; ngày 13/6/2022, ông Đ có làm giấy xác nhận nguồn gốc
nhà đất do gia đình đã ở và kinh doanh tại đây từ năm 1986 (có Tổ trưởng Tổ dân
phố 43, 44 (Nguyễn Thị Thu C, Nguyễn Thị Mộng V) xác nhận ông Đ đã kinh
doanh vịt quay, heo quay từ năm 1986 đến nay.
Qua đối chiếu tài liệu 299/TTg năm 1983, phần diện tích nêu trên thuộc 1
phần thửa 207, tờ 02; theo sổ mục kê: Thửa đất trên có diện tích 18.010m
2
, loại
đất thổ tập trung; theo Sổ đăng ký: U có đăng ký sử dụng 88m
2
.
Qua đối chiếu tài liệu địa chính lập năm 2002 thể hiện vị trí phần đất thuộc
thửa đất số 33, tờ bản đồ số 59 - Bản đồ địa chính Phường B, quận B, diện tích
121,1m
2
do Ủy ban nhân dân Phường U đăng ký tại Sổ thống kê thửa đất, diện
tích và chủ sử dụng đất.
Ngày 25/01/2021, Ủy ban nhân dân Phường U có Văn bản số 66/UBND, có
nội dung: “Hợp tác xã Thương mại Cầu Kinh thuộc thửa đất số 33, tờ bản đồ số
59 – Bản đồ địa chính Phường B có địa chỉ 224/9 Quốc lộ A theo tài liệu 299/TTg
của Thủ tướng Chính phủ thuộc thửa 207 tờ 01 loại đất T, người sử dụng TTT.
Theo Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường U (không có đề ngày, tháng,
năm) có nội dung xác nhận Hợp tác xã T2 có trụ sở giao dịch chính tại 2 Quốc lộ
A, Phường B quận B xin đặt dịch vụ sửa xe trực thuộc tại Đ liệt sĩ đường Quốc lộ
13, đất có nguồn gốc do Nhà nước cấp (do phường quản lý), nguồn gốc nhà do
Hợp tác xã tự xây dựng.”
Qua kết quả kiểm tra hiện trạng theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Công ty Cổ
phần T3 lập năm 2021 do Phòng T phối hợp cùng Ủy ban nhân dân Phường U và
đơn vị đo đạc, ghi nhận:
- Phần thửa đất số 33-1, 33-3, 33-4 tờ bản đồ số 59 - Bản đồ địa chính,
Phường B: Hiện nay do Hợp tác xã T2 sử dụng.
- Phần thửa đất số 33-2 và 1 phần đường (ký hiệu d1) tờ bản đồ số 59 - Bản
đồ địa chính Phường 26: Hiện nay do ông Đ đang sử dụng làm điểm kinh doanh
vịt quay.
Như vậy, phần diện tích 9,3m
2
do ông Đ đang sử dụng có nguồn gốc đất do
Nhà nước quản lý.
2. Về quá trình xử phạt vi phạm hành chính:
4
Ủy ban nhân dân Phường U đã có đề nghị hộ ông Nguyễn Văn Đ thực hiện
tháo dỡ cấu trúc xây dựng và giao trả phần diện tích lấn chiếm đất do Nhà nước
quản lý tại phần đất thuộc thửa đất số 33-2 và 1 phần đường, tờ bản đồ số 59 -
Bản đồ địa chính Phường 26 trước ngày 27/7/2021 theo Thông báo số 193/TB-
UBND ngày 10/7/2021 và ngày 15/6/2022 theo Thông báo số 48/TB-UBND ngày
10/5/2022.
Do ông Đ không thực hiện nên ngày 17/8/2022, Phòng T đã phối hợp với Ủy
ban nhân dân Phường U lập biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai đối
với ông Đ.
Căn cứ khoản 2, khoản 9 Điều 7 và điểm a khoản 4, khoản 5, khoản 7 Điều
14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ, ngày
24/8/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B ban hành Quyết định số 15904/QĐ-
XPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Đ đã thực hiện hành vi vi
phạm hành chính chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị, diện tích đất:
9,3m² tại thửa đất số 33, tờ bản đồ số 59 – Bản đồ địa chính Phường B, quận B
(vị trí và diện tích đất được xác định theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Công ty Cổ
phần T3 lập năm 2021 theo yêu cầu của Phòng Tài nguyên và Môi trường quận
B).
Tiếp sau đó, ngày 04/01/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B ban hành
Quyết định số 16/QĐ-CCXP về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả theo Quyết định xử phạt nêu trên.
Nay Ủy ban nhân nhân quận B đề nghị Tòa án không chấp nhận đơn khởi
kiện ông Nguyễn Văn Đ.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 422/2024/HC-ST ngày 06/9/2024 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ về việc hủy Quyết
định số 15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B
về việc xử phạt vi phạm hành chính.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 19/9/2024, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận được đơn
kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn Đ
là bà Nguyễn Thị Mỹ L, đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng huỷ toàn bộ Quyết
định số 15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B
về việc xử phạt vi phạm hành chính.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện theo ủy quyền của ông Phan Quang M là bà Nguyễn Thị Mỹ
L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông Phan Quang M trình bày: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính được
ban hành không đúng quy định pháp luật, diện tích thẩm định tại chỗ nhỏ hơn diện
5
tích khi xử phạt. Điều này dẫn đến số tiền phạt bị sai, ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là bà Nguyễn Thị
H2 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện
đúng theo quy định của pháp luật; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng
quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Xét kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của ông Nguyễn Văn Đ là bà Nguyễn Thị Mỹ L: Người kháng cáo cho rằng xử
phạt sai diện tích khiến số tiền phạt lớn hơn sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ. Phần diện tích đất
mà ông Đ quản lý, sử dụng được thẩm định thì chỉ có 9 m
2
. Theo tài liệu 299/Ttg
năm 1983, Bản đồ địa chính thì đất do Ủy ban nhân dân Phường U quản lý, gia
đình ông Đ kinh doanh vịt quay, heo quay tại phần diện tích đất nêu trên. Ủy ban
nhân dân Phường U thông báo vi phạm, gia đình ông Đ không chấp hành nên Ủy
ban nhân dân quận B ban hành quyết định xử phạt, cưỡng chế là có căn cứ. Diện
tích tại thời điểm vi phạm và thời điểm xem xét thẩm định tại chỗ là khác nhau,
người kháng cáo cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh nào.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà L, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Ngày 29/11/2022, ông Nguyễn Văn Đ gửi đơn khởi kiện yêu cầu hủy Quyết
định số 15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B.
Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính,
thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý
và giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Xét kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông
Nguyễn Văn Đ là bà Nguyễn Thị Mỹ L, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Phần đất ông Nguyễn Văn Đ sử dụng tại thời điểm lập biên bản vi phạm
hành chính vào ngày 17/8/2022, thuộc một phần thửa số 207, tờ số 2 (Tài liệu
299/TTg) thuộc đất thổ tập trung do Ủy ban nhân dân Phường U đăng ký. Theo
tài liệu Bản đồ địa chính năm 2002 thì phần đất trên thuộc thửa số 33, tờ bản đồ
số 59 do Ủy ban nhân dân Phường U đăng ký và thuộc một phần đường.
6
Ông Nguyễn Văn Đ cho rằng phần diện tích đất trên do ông Đ nhận chuyển
nhượng lại của bà Nguyễn Thị T1 vào ngày 17/6/1986, ông Đ đã sử dụng từ năm
1986 đến nay và không bị xử phạt. Việc chuyển nhượng của ông Đ và bà T1 không
có xác nhận của chính quyền địa phương. Hơn nữa, tại thời điểm chuyển nhượng,
bà T1 không có giấy tờ về đất đai theo quy định của Luật Đất đai năm 1987 nên
bà T1 không phải là chủ sử dụng hợp pháp đối với phần đất này. Do vậy, việc
chuyển nhượng giữa bà T1 và ông Đ là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối chiếu với các tài liệu địa chính, phần diện tích đất ông Đ sử dụng là đất
công do Nhà nước quản lý, ông Đ đã có hành vi chiếm đất phi nông nghiệp tại
khu vực đô thị theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP
ngày 19/11/2019 của Chính phủ.
Về thời điểm vi phạm thì thấy rằng: Vào ngày 10/7/2021, Ủy ban nhân dân
Phường U phát hiện hành vi vi phạm nêu trên của ông Đ theo Thông báo số
193/TB-UBND với nội dung đề nghị ông Nguyễn Văn Đ tháo dỡ công trình xây
dựng vi phạm và giao trả đất lấn chiếm cho Nhà nước. Thời điểm cơ quan Nhà
nước phát hiện hành vi vi phạm của ông Đ là từ ngày 10/7/2021. Theo quy định
tại khoản 1, 2 Điều 4 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính
phủ thì việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B ban hành Quyết định số 15904/QĐ-
XPHC ngày 24/8/2022 xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Văn Đ là
còn trong thời hiệu và đúng thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Xử lý
vi phạm hành chính.
[2.2] Về nội dung xử phạt:
Theo quy định tại khoản 5, khoản 7 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP
ngày 19/11/2019 (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày
06/01/2022) của Chính phủ và khoản 2, khoản 9 Điều 7 Nghị định 91/2019/NĐ-
CP ngày 19/11/2019 (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 04/2022/NĐ-CP
ngày 06/01/2022) có quy định về việc xác định số lợi bất hợp pháp. Quyết định
số 02/2020/QĐ-UBND ngày 16/01/2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố H về
ban hành quy định về bảng giá đất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì đường
Quốc lộ A có giá 24.000.000 đồng/m
2
, vị trí 1, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân
quận B ban hành Quyết định số 15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 trong đó phạt
tiền 30.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục
lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm; buộc trả lại đất đã chiếm và buộc
nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm: 3.376.059 đồng
đối với ông Nguyễn Văn Đ là phù hợp.
Phía người khởi kiện cho rằng diện tích phần đất ông Đ lấn chiếm nhỏ hơn
diện tích bị xử phạt nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh
tại thời điểm Phòng Tài nguyên và Môi trường quận B lập biên bản vi phạm hành
chính vào ngày 17/8/2022 thì diện tích ông Đ lấn chiếm nhỏ hơn diện tích được
ghi nhận trong biên bản vi phạm hành chính nêu trên. Theo Biên bản xem xét tại
chỗ ngày 26/8/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có ghi nhận
hiện nay phần đất ông Đ lấn chiếm nhỏ hơn khoảng 0,3m
2
so với diện tích bị xử
phạt. Thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính và thời điểm Tòa án nhân dân
7
Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành việc xem xét tại chỗ cách xa nhau, hiện trạng
lấn chiếm đã có sự thay đổi. Phía người khởi kiện cũng thừa nhận vào thời điểm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B xử phạt vi phạm hành chính thì gia đình ông Đ
sử dụng phần đất trên để bán heo quay còn hiện nay gia đình ông Đ cho thuê lại
để sử dụng làm tiệm sửa xe. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm không có cơ sở xác định
diện tích phần đất ông Đ lấn chiếm nhỏ hơn diện tích bị xử phạt, diện tích 0,3m
2
nêu trên chỉ là sai số trong quá trình đo đạc.
Tuy nhiên, trong quyết định xử phạt có nêu vị trí và diện tích đất được xác
định theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Công ty Cổ phần T3 lập năm 2021 do đó
Quyết định số 15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 được ban hành đúng quy định
của pháp luật nên ngày 02/11/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B ban hành
Quyết định số 17142/QĐ-UBND với nội dung không công nhận khiếu nại của
ông Đ là phù hợp quy định của pháp luật. Đã hết thời gian thực hiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính nhưng ông Đ không chấp hành nên vào ngày
04/01/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B ban hành Quyết định số 16/QĐ-
CCXP về cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông
Nguyễn Văn Đ là phù hợp tại Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính và Mục 5
Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Bà Nguyễn Thị Mỹ L kháng cáo cho rằng phần diện tích đất sử dụng nhỏ
hơn khoảng 0,3m
2
so với diện tích bị xử phạt theo Biên bản xem xét thẩm định tại
chỗ ngày 26/8/2024 và diện tích vi phạm nhỏ hơn ảnh hưởng đến số tiền phạt cũng
như việc giao trả đất là không có cơ sở.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
đúng quy định pháp luật. Kháng cáo bà L không có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét
xử không chấp nhận kháng cáo của bà L, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đại diện
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện đề nghị.
[4] Về án phí: Do giữa nguyên bản án sơ thẩm nên bà Nguyễn Thị Mỹ L phải
chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều
157, Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 2 Điều 241; Điều 348 và Điều
349 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Điều 38, Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính;
Căn cứ Điều 7, Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của
Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai (được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022);
Căn cứ Mục 5 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính
phủ về việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
8
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của người khởi kiện ông Nguyễn Văn Đ là bà Nguyễn Thị Mỹ L. Giữ nguyên Bản
án hành chính sơ thẩm số 422/2024/HC-ST ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ về việc hủy Quyết
định số 15904/QĐ-XPHC ngày 24/8/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B
về việc xử phạt vi phạm hành chính.
2. Về án phí hành chính sơ thẩm và chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn Đ được
miễn án phí hành chính sơ thẩm.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn Đ phải chịu
chi phí xem xét tại chỗ và đã đóng đầy đủ theo Biên lai thu ngày 16/8/2024 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của người khởi kiện ông Nguyễn Văn Đ là bà Nguyễn Thị Mỹ L phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm
ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0041388 ngày 01/10/2024
của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Đương sự;
- Lưu HSVA(NTCL).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký tên và đóng dấu)
Đinh Ngọc Thu Hương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 256/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm