Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST ngày 29/08/2024 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 36/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST ngày 29/08/2024 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Thanh Miện (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 36/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Anh M xin ly hôn chị Y |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN T
TỈNH H
Bản án số: 36/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 29/8/2024.
V/v tranh chấp ly hôn, nuôi con
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - TỈNH H
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thanh Nhàn.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đỗ Văn Tảo, Bà Phạm Thị Bông.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Hải Loan - Thư ký Toà án nhân dân huyện
T, tỉnh H.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tham gia phiên toà: Bà An Thị
Hà Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 8 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh H
xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 66/2024/TLST-HNGĐ ngày 09
tháng 4 năm 2024 về “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số 31/2024/QĐXX-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2024 giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: Anh Dương Đình M, sinh năm 1973.
Nơi thường trú: thôn V, xã Q, huyện T, tỉnh H; Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Hà Y, sinh năm 1976;
Nơi thường trú: thôn V, xã Q, huyện T, tỉnh H; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện và quá trình khai tại Tòa án, nguyên đơn anh
Dương Đình M trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Hà Y được tự do tìm hiểu,
tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện T, tỉnh H ngày
03/11/2000. Anh là giáo viên dạy ở Trường Trung học cơ sở xã Q, chị Y là giáo viên
dạy ở Trường tiểu học xã Q.
Sau khi kết hôn, vợ chồng sống vui vẻ được khoảng 5-6 năm thì phát sinh
mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng
quan điểm, chị Y thường xuyên có lời lẽ không tôn trọng chồng và gia đình
chồng, anh chị không có tiếng nói chung nên vợ chồng không hạnh phúc. Cách
đây khoảng 3-4 năm, chị Y đưa con bỏ về nhà mẹ đẻ, sau đó lại về xin lỗi gia
đình chồng. Tuy nhiên mâu thuẫn vẫn không được khắc phục. Cách đây hơn
chục năm, chị Y từng viết đơn xin ly hôn bảo anh ký vào đơn, anh đã ký đơn rồi
nhưng không thấy chị Y nộp đơn ra Toà. Trong suốt thời gian đó, cuộc sống vợ
chồng lạnh nhạt, không quan tâm nhau, việc ai người ấy lo. Quá trình sống
chung, chị Y không tin tưởng anh về kinh tế, lúc nào chị Y cũng nghĩ là anh
mang tiền lo cho gia đình nhà đẻ, trong khi thực tế anh còn phải lo toan nhiều
việc như xây nhà, trả nợ. Trước đây có thời gian anh bị tai nạn, thường xuyên
2
đau ốm, chị Y cũng không quan tâm chăm sóc cho anh. Vợ chồng chính thức
sống ly thân từ tháng 02/2024 đến nay, anh cảm thấy cuộc sống vợ chồng rất
căng thẳng nặng nề, không còn tình cảm, không còn sự tôn trọng nhau. Anh xin
được ly hôn chị Y.
Về con chung: Anh và chị Y có ba con chung là Dương Thị Ngọc Khánh -
sinh năm 2001 đã trưởng thành, Dương Thị Ngọc Anh - sinh ngày 05/9/2005 đã
trưởng thành và Dương Đình Lâm - sinh ngày 08/10/2012. Cháu Khánh và cháu
Anh đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết nuôi dưỡng. Cháu Lâm đang ở
với chị Y. Việc nuôi dưỡng cháu Lâm anh đề nghị giải quyết theo nguyện vọng
của con.
Về tài sản chung, nợ chung, công sức: Anh không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
* Tại bản tự khai, quá trình làm việc với Tòa án, bị đơn chị Dương Thị
Hà Y trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Điều kiện, thời gian kết hôn như anh M trình bày là
đúng. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ chồng chị ở thôn V được hơn
02 năm thì mua nhà đất ra ở riêng tại thôn Phạm Lý, xã Q. Tuy nhiên, sau đó vợ chồng
đã bán nhà đất ở thôn Phạm Lý và quay về xây nhà trên đất của bố mẹ chồng chị tại
thôn V đang ở hiện nay. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do anh M thiếu trách nhiệm với vợ con, các con thường
xuyên ốm đau nhưng anh M vẫn đi sớm về khuya không quan tâm. Mặt khác, tính nết,
cách sống, quan điểm nuôi dạy con của vợ chồng luôn xảy ra bất đồng, chị nhiều lần
góp ý với anh M thay đổi để cuộc sống hoà hợp hơn nhưng không có kết quả. Mặc dù
đã ở riêng, nhưng mẹ chồng chị vẫn can thiệp quá sâu vào cuộc sống của vợ chồng, anh
M không đứng ra hoá giải. Anh M còn thường xuyên có lời lẽ, thái độ coi thường vợ.
Công việc hàng ngày trong gia đình, anh M không quan tâm đến ý kiến của chị mà
thường tự quyết định, vợ chồng không có tiếng nói chung. Đến năm 2018, vợ chồng xảy
ra mâu thuẫn căng thẳng hơn, một mặt là do các con không được khoẻ mạnh, một mặt
là áp lực kinh tế, nhưng mẹ chồng yêu cầu chị mỗi tháng phải đưa cho anh M vài triệu,
trong khi lương giáo viên của chị lúc đó chỉ được 7,5 triệu đồng/tháng. Chị cảm thấy
cuộc sống rất khó khăn mà chồng và gia đình chồng không hiểu, không chia sẻ, không
cảm thông khiến chị cảm thấy rất căng thẳng, áp lực, bức xúc. Anh M để một mình chị
phải tự giải quyết mà không đứng ra hoá giải dẫn đến sự căng thẳng giữa chị và mẹ
chồng. Tất cả mọi vấn đề xảy ra trong cuộc sống chị đều cảm thấy cách sống, cách cư
xử của anh M chưa phù hợp, khi đó chị đều góp ý khuyên giải mục đích chỉ muốn tốt
cho anh M và gia đình, nhưng anh M không tiếp thu, lại cho rằng chị nghĩ xấu cho anh
và gia đình anh. Mặt khác, anh M cũng không giúp đỡ chị trong việc nhà, chị góp ý thì
anh M nói việc nhà là của người phụ nữ. Vì vậy, mọi áp lực công việc, gia đình, con cái,
đối nội đối ngoại khiến chị rất mệt mỏi. Đến tháng 02/2024, vợ chồng cãi nhau, anh M
chuyển lên nhà bố mẹ đẻ ở, không ở cùng nhà với chị nữa, vợ chồng sống ly thân từ đó
đến nay. Thời gian ly thân, vợ chồng không nói chuyện để đưa ra biện pháp hàn gắn.
Nay anh M làm đơn xin ly hôn nhưng anh chị chưa thoả thuận được với nhau về nơi ăn
chỗ ở của các con. Quan điểm của chị là sau khi vợ chồng thoả thuận được về vấn đề tài
sản thì chị mới nhất trí ly hôn anh M.
3
Về con chung: Chị và anh M có ba con chung là cháu Dương Thị Ngọc Khánh -
sinh ngày 22/11/2001, Dương Thị Ngọc Anh - sinh ngày 05/9/2005 và Dương Đình
Lâm - sinh ngày 08/10/2012. Hiện nay cháu Khánh và cháu Anh đã trưởng thành,
không yêu cầu giải quyết vấn đề nuôi dưỡng. Còn cháu Lâm vẫn đang ở cùng nhà với
chị. Nếu Toà án giải quyết ly hôn, chị xin được tiếp tục nuôi cháu Lâm và yêu cầu anh
M phải cấp dưỡng tiền nuôi cháu Lâm theo quy định pháp luật. Hiện nay, chị là giáo
viên dạy ở Trường tiểu học xã Q, anh M là giáo viên dạy ở Trường Trung học cơ sở xã
Q, anh chị đều có công việc và thu nhập ổn định.
Về tài sản chung, vay nợ, công sức: Ngày 26/7/2024 chị Y có đơn khởi
kiện về yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng. Ngày 29/7/2024, Toà án ra Thông
báo yêu cầu chị Y nộp tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung theo quy định pháp
luật. Ngày 31/7/2024 chị Y nộp Đơn xin rút yêu cầu khởi kiện về chia tài sản
chung vợ chồng, đồng thời nộp đơn xin xác nhận đề nghị Toà án giải quyết tài
sản của vợ chồng cho các con, chị xác định không nộp tiền tạm ứng án phí theo
Thông báo của Toà án.
Tại phiên hoà giải ngày 08/8/2024, anh M chị Y đã thoả thuận được với
nhau về việc giải quyết nuôi dưỡng con chung Dương Đình Lâm. Cụ thể, anh
chị thống nhất giao con chung Dương Đình Lâm cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng
đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Y
số tiền 1.200.000đ/1 tháng kể từ tháng 8/2024 đến khi cháu Lâm đủ 18 tuổi,
phương thức cấp dưỡng hàng tháng.
* Tại phiên tòa, các đương sự giữ nguyên ý kiến như trên. Chị Y trình
bày: Vì anh M muốn nhờ pháp luật chia tài sản ở vụ án khác nên chị muốn đề
nghị Toà án giải quyết vấn đề chia tài sản chung vợ chồng ở phiên toà này.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T xác định việc chấp hành pháp
luật của Thẩm phán trong quá trình thu thập chứng cứ, của HĐXX và thư ký
phiên toà tuân thủ đúng các quy định của BLTTDS; những người tham gia tố
tụng nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của BLTTDS;
Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị HĐXX:
Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ
luật Tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội;
Về quan hệ vợ chồng: Xử cho anh Dương Đình M được ly hôn chị Nguyễn
Thị Hà Y;
Về con chung: Công nhận sự thoả thuận của anh M, chị Y về việc giao
con chung Dương Đình Lâm cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng đến khi con chung
đủ 18 tuổi. Anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Y số tiền
1.200.000đ/1 tháng kể từ tháng 8/2024 đến khi cháu Lâm đủ 18 tuổi, phương
thức cấp dưỡng hàng tháng.
Anh Dương Đình M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không
ai được cản trở.
Về tài sản chung, vay nợ, công sức: không giải quyết;
Về án phí: Anh Dương Đình M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ
thẩm và 150.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

4
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Dương Đình M yêu cầu Tòa
án nhân dân huyện T giải quyết ly hôn, nuôi con chung với chị Nguyễn Thị Hà
Y, nơi thường trú tại thôn V, xã Q, huyện T, tỉnh H. Căn cứ điểm a khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh H. Xác định quan hệ tranh
chấp về Hôn nhân và gia đình là ly hôn, nuôi con theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Dương Đình M và chị Nguyễn Thị Hà Y
kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện T, tỉnh
H ngày 03/11/2000, nên quan hệ hôn nhân của anh M chị Y là hợp pháp.
Trên cơ sở lời khai của anh M, chị Y thì thấy trong cuộc sống hôn nhân,
anh chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất
đồng quan điểm về kinh tế, tính tình không hợp nhau, không có tiếng nói chung
trong việc nuôi dạy con và cách nhìn nhận giải quyết các vấn đề trong cuộc
sống. Mâu thuẫn âm ỉ trong một thời gian dài không có biện pháp khắc phục đã
làm cho tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, cuộc sống căng thẳng, mệt mỏi. Đến nay,
anh chị vẫn bày tỏ sự bức xúc của mình với đối phương mà không có biện pháp
nào hàn gắn. Anh M kiên quyết xin ly hôn, chị Y không đồng ý nhưng lý do chị
Y đưa ra là vì anh chị chưa thoả thuận được với nhau về vấn đề tài sản, chứ
không phải vì lý do muốn hàn gắn mối quan hệ vợ chồng. Điều đó cho thấy anh
chị không còn sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, đến nay anh
chị vẫn tiếp tục sống ly thân, không quan tâm nhau, trong khi đó hôn nhân chỉ
hạnh phúc khi có sự xây dựng và vun đắp từ hai phía. Như vậy thể hiện mâu
thuẫn vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho anh M được ly hôn chị Y là
phù hợp quy định tại các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Anh M, chị Y có ba con chung là Dương Thị Ngọc
Khánh - sinh ngày 22/11/2001, Dương Thị Ngọc Anh - sinh ngày 05/9/2005 và Dương
Đình Lâm - sinh ngày 08/10/2012. Hiện nay cháu Khánh và cháu Anh đã trưởng thành,
không giải quyết vấn đề nuôi dưỡng. Cháu Lâm hiện đang ở cùng với chị Y. Cháu
Lâm bày tỏ nguyện vọng xin được tiếp tục ở với mẹ. Anh M, chị Y đều là giáo
viên gần nhà, anh chị đều có mức lương hàng tháng từ 15-16 triệu đồng. Tại
phiên hoà giải và tại phiên toà, anh M, chị Y thống nhất thoả thuận giao con
chung Dương Đình Lâm cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18
tuổi. Anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Y số tiền 1.200.000đ/1
tháng kể từ tháng 8/2024 đến khi cháu Lâm đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng
hàng tháng. Do vậy, cần công nhận sự thoả thuận về việc nuôi con của anh chị là
phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung, vay nợ, công sức:
Anh M không yêu cầu giải quyết.
Về việc chị Y đề nghị Toà án giải quyết chia tài sản chung vợ chồng:
Ngày 26/7/2024 chị Y có đơn khởi kiện về yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng
5
gồm: ngôi nhà hai tầng, công trình phụ, bể, giàn chắn nắng, giàn leo, phần đất
vượt lập thêm, giàn pin mặt trời, giàn năng lượng mặt trời, tủ lạnh, 03 tủ quần
áo, bàn ghế, 02 máy giặt sấy, máy rửa bát, 02 bếp từ, 04 điều hoà, máy in, ti vi,
hút bụi, 02 máy hút ẩm, 02 téc nước, loa, quạt trần, quạt hơi nước, 03 quạt cây,
bình bếp ga và một số đồ dùng sinh hoạt khác trong gia đình. Chị Y không thuộc
trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí. Ngày 29/7/2024, Toà án ra
Thông báo yêu cầu chị Y nộp tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung theo quy
định pháp luật. Ngày 31/7/2024 chị Y nộp Đơn xin rút yêu cầu khởi kiện về chia
tài sản chung vợ chồng, đồng thời chị giao nộp cho Toà án Đơn xin xác nhận
của chị yêu cầu Toà án giải quyết chia nhà và tài sản trong nhà cho các con (có
xác nhận của UBND xã Q), chị xác định không nộp tiền tạm ứng án phí theo
Thông báo của Toà án. Vì chị Y không nộp tiền tạm ứng án phí chia tài sản
chung vợ chồng theo quy định tại Điều 146 và Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân
sự nên Toà án không xem xét giải quyết. Sau này nếu chị có đơn yêu cầu chia tài
sản chung thì sẽ được Toà án xem xét giải quyết ở vụ án khác.
[5] Về án phí: Anh Dương Đình M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn
sơ thẩm. Do các đương sự thỏa thuận được với nhau về mức cấp dưỡng và
phương thức cấp dưỡng trước khi mở phiên tòa và được Tòa án ghi nhận trong
bản án, nên anh M phải chịu 150.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung
theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014; khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí
và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Dương Đình M được ly hôn chị
Nguyễn Thị Hà Y.
2. Về con chung: Công nhận sự thoả thuận của anh M, chị Y về việc giao
con chung Dương Đình Lâm cho chị Y tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con cho chị Y số tiền 1.200.000đ/1 tháng kể từ tháng 8/2024 đến khi cháu
Lâm đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng hàng tháng.
Anh Dương Đình M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không
ai được cản trở.
Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án về khoản
tiền cấp dưỡng nuôi con chung, người phải thi hành án chậm thi hành khoản
tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian
chậm thi hành. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa
thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại
khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện
theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
3. Về tài sản chung, vay nợ, công sức: Không giải quyết.
4. Về án phí: Anh Dương Đình M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ
6
thẩm và 150.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung, tổng là 450.000 đồng,
được đối trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí anh M đã nộp tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện T theo biên lai ký hiệu BLTU/23 số 0001652 ngày 09 tháng 4 năm
2024. Anh M còn phải nộp thêm 150.000 đồng tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND huyện T;
- Chi cục THA dân sự huyện
T;
- Các đương sự;
- UBND xã Q, huyện T, tỉnh H
(Số ĐKKH:38-03/11/2000).
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thanh Nhàn
Thành viên Hội đồng xét xử
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Thanh Nhàn
7
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm