Bản án số 268/2025/HC-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 268/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 268/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 268/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 268/2025/HC-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 268/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Sửa án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 268/2025/HC-PT
Ngày 17-3-2025.
V/v
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Ngọc Tuấn.
Các Thẩm phán:
Bà Trần Thị Thúy Hồng.
Ông Dương Anh Văn.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên – Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Phạm Văn Nhàn – Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 1198/2024/
TLPT-HC ngày 06/12/2024 về việc
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 503/2024/HC-ST ngày 30/9/2024 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 358/2025/QĐPT-HC ngày
28 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- : Bà Cao Hoàng Minh T, sinh năm 1983; địa chỉ: 3 V,
Phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
Bà Đặng Thị Kim K, sinh năm 1997; địa chỉ: A
Đường C, phường C, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
- : Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận C1, Thành phố Hồ Chí
Minh; địa chỉ: I T, Phường G, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
N Ông Trần Thanh B - Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân Quận C1. (vắng mặt)
N Ông Phan Thế H, sinh
năm 1972 - Trưởng Phòng Quản lý đô thị Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng
mặt)
- : Ủy ban nhân dân Phường E, Quận
C; địa chỉ: B V, Phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
Bà Huỳnh Thị Minh C - Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Phường E, Quận C. (xin vắng mặt)
- Bà Cao Hoàng Minh T, là người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
8/8/2024 và
Ngày 27/10/2023, bà Cao Hoàng Minh T có đơn đăng ký sửa chữa, cải tạo
công trình đối với nhà số C V, Phường E, Quận C gồm các hạng mục: Tháo dỡ 02
sàn gác trên hẻm, cắt ngắn bớt thành ban công 810mm để ngăn mưa gió; giữ lại
một số trụ sắt để làm nơi treo dây điện, điện camera, mạng internet đi vào những hộ
bên trong 309/20, 309/22, 24, 26… cải tạo mặt tiền sau khi tháo dỡ. Trong quá
trình thực hiện phía Ủy ban nhân dân (UBND) Phường 5 không có ý kiến gì, nhưng
sau khi bà T sửa chữa xong thì ngày 14/6/2024, Chủ tịch C1 ban hành Quyết định
số 476/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây
dựng đối với công trình tại số C V, Phường E, Quận C đối với bà Cao Hoàng Minh
T (gọi tắt là Quyết định 476). Bà T không đồng ý với quyết định xử phạt nêu trên
bởi lẽ: Phần ban công 0,8m người khởi kiện không làm mới mà chỉ cắt lại, thanh
ngang và trụ đứng là thanh sắt cũ, không có vết hàn mới và không có sự thay đổi.
Đối với 03 sàn lật bằng thép cho chính bà làm chủ đầu tư được làm từ trước khi
tháo dỡ phần gác gỗ chứ không phải xây dựng sau. Quyết định 476 thể hiện hành vi
vi phạm là tổ chức thi công xây dựng công trình nhà ở riêng lẻ không có giấy phép
mà theo quy định phải có giấy phép xây dựng, tuy nhiên người khởi kiện có giấy
phép xây dựng năm 1987 và giấy phép này không hết hạn nên Quyết định xử phạt
với lý do xây dựng không phép là không đúng. Vì vậy, bà T khởi kiện, yêu cầu Tòa
án: Hủy Quyết định 476; yêu cầu Chủ tịch C1 bồi thường thiệt hại với số tiền
56.400.000 đồng (bao gồm: thiệt hại về tinh thần tương đương bằng 10 tháng lương
cơ sở là 23.400.000 đồng, chi phí đi lại là 3.000.000 đồng và chi phí thuê Luật sư
tư vấn, cử người đại diện tham gia tố tụng là 30.000.000 đồng).
C1 -TTXD ngày 29/8/2024
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CH 01118/2011/GCN do C1 cấp ngày 29/4/2011, phần diện tích
ban công lấn chiếm không gian hẻm có thể hiện trong giấy chứng nhận nhưng
không được công nhận. Việc tháo dỡ và đổ lại sàn ban công 0,80m trên không gian
hẻm, xảy ra tranh chấp gay gắt của cư dân trong khu vực. Căn cứ Bảng 4 Phụ lục số
18, Quyết định số 56/2021/QĐ-UBND ngày 28/12/2021 của UBND Thành phố H
về ban hành quy chế quản lý kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh thì nhà số C V,
Phường E, Quận C tiếp giáp 3 mặt hẻm (chỉ giới đường đỏ của 3 hẻm nhỏ hơn
7,0m), không được phép đưa ban công ra không gian hẻm. Căn cứ điểm g khoản 2
Điều 89 Luật Xây dựng năm 2014, đối với nội dung sửa chữa của bà Cao Hoàng
Minh T là hành vi xây dựng phải được xử lý. Do vậy việc Chủ tịch C1 ban hành
3
Quyết định 476 xử phạt vi phạm hành chính đối với bà T là đúng quy định. Đối với
yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà T, Chủ tịch C1 không đồng ý. Đề nghị Hội
đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
E,
trình bày:
Quá trình bà Cao Hoàng Minh T thực hiện hành vi xây dựng, UBND phường
có lập biên bản đối với các hành vi vi phạm quy định về xây dựng, bà T cam kết sẽ
khắc phục nhưng lại không thực hiện. E, Quận C đã tiến hành lập biên bản và
chuyển hồ sơ đến Chủ tịch C1 để giải quyết theo thẩm quyền.
-
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Cao Hoàng Minh T về việc: Hủy Quyết
định số 476/QĐ-XPVPHC ngày 14/6/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận C1
về việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng đối với công trình tại
số C V, Phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; yêu cầu Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận C1 phải bồi thường: Thiệt hại về tinh thần là 23.400.000 đồng, chi
phí đi lại là 3.000.000 đồng và chi phí thuê Luật sư tư vấn, cử người đại diện tham
gia tố tụng là 30.000.000 đồng, tổng cộng là 56.400.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 11/10/2024, bà Cao Hoàng Minh T kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người khởi kiện rút một phần kháng cáo về phần
yêu cầu bồi thường thiệt hại.
:
Về tố tụng: Từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án cho đến khi xét xử,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và đương sự đã thực hiện đầy đủ và
đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện các
tài liệu, chứng cứ, xét xử không chấp nhận yêu cầu của Người khởi kiện về việc
hủy các quyết định hành chính của Người bị kiện là có căn cứ pháp luật. Do đó, đề
nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của Người khởi kiện, giữ nguyên Bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn Kháng cáo của Người khởi kiện là Cao Hoàng Minh T làm trong hạn
luật định, đủ điều kiện để thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
4
Người bị kiện là Ủy ban nhân dân Quận C1 đã được tống đạt hợp lệ giấy triệu
tập đến phiên tòa lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không do sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan nên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 225 của Luật
Tố tụng hành chính, Tòa án xét xử vắng mặt Người bị kiện.
Đại diện hợp pháp của E, Quận C có yêu cầu giải quyết vụ án vắng mặt nên có
căn cứ để xét xử vắng mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của Người khởi kiện, thấy rằng: Ngày 27/10/2023,
bà Cao Hoàng Minh T có đơn đăng ký sửa chữa, cải tạo công trình đối với nhà số C
V, Phường E, Quận C gồm các hạng mục: Tháo dỡ 02 sàn gác trên hẻm, cắt ngắn
bớt thành ban công 810mm để ngăn mưa gió; giữ lại một số trụ sắt để làm nơi treo
dây điện, điện camera, mạng internet đi vào những hộ bên trong, cải tạo mặt tiền
sau khi tháo dỡ; thời gian dự kiến thực hiện là 01 tháng (từ ngày 08/11 đến ngày
08/12/2023). E đồng ý cho sửa chữa và thực hiện kiểm tra, giám sát thi công trong
quá trình bà T thực hiện việc sửa chữa.
[3] Theo Biên bản làm việc ngày 07/3/2024 thì công trình đã hoàn thiện, đưa
vào sử dụng. Chính quyền địa phương cho rằng việc sửa chữa có phát sinh xây
dựng mới nhưng không lập biên bản vi phạm hành chính. Tiếp đến vào các ngày
22/3/2024, 15/4/2024 và 03/5/2024, E tiếp tục lập các biên bản làm việc yêu cầu bà
T tháo dỡ các hạng mục phát sinh nhưng cũng không lập biên bản vi phạm hành
chính.
[4] Ngày 14/5/2024, E lập Biên bản vi phạm hành chính số 01/BB-VPHC
đối với bà T về hành vi vi phạm hành chính
t,
. Bà T có ý
kiến không đồng ý với nội dung biên bản. Đến ngày 14/6/2024, Chủ tịch C1 ban
hành Quyết định số 476/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động xây dựng tại công trình số C V, Phường E, Quận C đối với bà Cao
Hoàng Minh T.
[5] Bà T cho rằng, bà không có hành vi xây dựng nhà ở riêng lẻ mà thực hiện
đúng theo Giấy đăng ký sửa chữa ngày 27/10/2023, chỉ cắt ngắn bớt ban công chứ
không xây mới; 03 khung thép có sàn thép dạng bản lề là hiện trạng công trình cũ
được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ không phải do bà lắp
đặt mới.
[6] Xét thấy, về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: Tại thời điểm lập biên
bản vi phạm hành chính (ngày 14/5/2024) thì hành vi sửa chữa, xây dựng của bà T
đã kết thúc trước đó chậm nhất là ngày 07/3/2024 (ngày Chính quyền địa phương
lập biên bản làm việc xác định công trình sửa chữa, xây dựng đã hoàn thành và
được đưa vào sử dụng). Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số
118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ
thì thời hạn lập biên bản vi phạm
5
hành chính chỉ từ 02 đến 05 ngày, kể từ ngày phát hiện vi phạm nên trường hợp lập
biên bản vi phạm hành chính nêu trên đối với bà T là không đúng pháp luật (trễ hạn
ít nhất 02 tháng 02 ngày), dẫn đến không xác định được bà T có thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật hành chính như nội dung biên bản thể hiện hay không vì tại thời
điểm lập biên bản, bà T không thừa nhận nội dung biên bản này. Biên bản vi phạm
hành chính là cơ sở để ra quyết định xử phạt, do đó, Quyết định 476 về xử phạt vi
phạm hành chính đối với bà T là không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
[7] Về nội dung xử phạt vi phạm hành chính: C1 cho rằng, bà T đã có hành vi
là không đúng, bởi lẽ căn
nhà số 309/7 Võ Văn T1 do bà Hoàng Thị P (mẹ bà T) tổ chức thi công theo Giấy
phép xây dựng số 125/GPXD-87 ngày 08/4/1987 của Ủy ban Xây dựng cơ bản
thuộc UBND Thành phố H. Bà T được mẹ (bà P) ủy quyền quản lý sử dụng căn
nhà trên và chỉ thực hiện sửa chữa, cải tạo mặt tiền nhà theo Giấy Đăng ký, sửa
chữa, cải tạo công trình ngày 27/10/2023. Trong quá trình kiểm tra, giám sát việc
thi công, E đã lập Biên bản kiểm tra ngày 27/11/2023 (bút lục số 156), không thể
hiện có nội dung vi phạm khi sửa chữa công trình. Và tại Biên bản xem xét, thẩm
định tại chỗ ngày 06/9/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục
số 178 đến 181) thể hiện các thanh sắt trên các ban công tầng 2, 3, 4 là sắt cũ,
không có vết hàn mới; còn 03 sàn lật thì có vết hàn mới (nhưng bà T không đồng ý
mà cho rằng do chất liệu sàn lật là inox nên có màu sáng chứ không phải làm mới).
[8] Ngoài ra, việc bà T sửa chữa, cải tạo mặt tiền nhà số C V, Phường E, Quận
C thuộc trường hợp nhà ở vị trí trong hẻm. Theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều
89 của Luật Xây dựng năm 2014 về , thì
, do đó, trường hơp sửa chữa,
cải tạo nêu trên được miễn giấy phép xây dựng. Trường hợp cho rằng bà T có làm
mới bộ phận nào đó thì vẫn thực hiện trong phạm vi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 491831 ngày
29/4/2011 cấp cho bà Hoàng Thị P và Giấy phép xây dựng số 125 nêu trên. Do đó,
Quyết định 476 xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng đối với bà T
là không đúng nên kháng cáo của bà T yêu cầu hủy Quyết định này là có cơ sở để
chấp nhận, sửa Bản án sơ thẩm.
[9] Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của người khởi kiện đã rút lại một phần
kháng cáo về yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây là sự tự nguyện của đương sự nên
đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng cáo này.
[10] Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của bà T được chấp nhận nên
Người bị kiện phải chịu án phí sơ thẩm.
[11] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa không phù hợp với
nhận định trên nên không có cơ sở để chấp nhận.
[12] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của Người khởi kiện được chấp nhận
nên Người khởi kiện không phải chịu án phúc phúc thẩm.
6
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 4 Điều 233, khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính,
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với một phần kháng cáo của người khởi kiện là
bà Cao Hoàng Minh T về yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Chấp nhận một phần kháng cáo của người khởi kiện là bà Cao Hoàng Minh T.
Sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 503/2024/HC-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Áp dụng: điểm h khoản 2 Điều 89 của Luật Xây dựng; khoản 2 Điều 12 của
Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ
; khoản 2, Điều 32,
khoản 2 Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về Án phí, lệ phí Tòa án,
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Cao Hoàng Minh T đối với
Ủy ban nhân dân Quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 476/QĐ-XPVPHC ngày
14/6/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận C1 về việc xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động xây dựng đối với công trình tại số C V, Phường E, Quận C,
Thành phố Hồ Chí Minh đối với bà Cao Hoàng Minh T.
Về án phí sơ thẩm: Ủy ban nhân dân Quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh phải
chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí sơ thẩm.
2. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí phúc thẩm: Bà Cao Hoàng Minh T không phải chịu án phí phúc
thẩm. H1 lại cho bà T 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo
Biên lai số 0041764 ngày 30/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ
Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP. HCM;
- TAND TP. HCM;
- VKSND TP. HCM;
- Cục THADS TP. HCM;
- Các đương sự;
- Lưu VP; HSVA; NTK.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Ngọc Tuấn
7
CÁC THẨM PHÁN
Trần Thị Thúy Hồng Dương Anh Văn
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Ngọc Tuấn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm