Bản án số 33/2024/DS-ST ngày 07/11/2024 của TAND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 33/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 33/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 33/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 33/2024/DS-ST ngày 07/11/2024 của TAND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Sơn Động (TAND tỉnh Bắc Giang) |
Số hiệu: | 33/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 30 tháng 12 năm 1994, gia đình cụ Đặng Văn S được nhà nước giao cho quản lý, sử dụng 01 lô đất lâm nghiệp để trông coi, quản lý, bảo vệ rừng tái sinh, đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp (Sổ bìa xanh). Đến ngày 10/6/1999 được UBND huyện S cấp chuyển đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chuyển từ sổ bìa xanh sang sổ bìa đỏ) số P061766, diện tích 05ha, tại lô 2, khoảnh 2, tại thôn L, xã L cho H ông Đặng Văn S. Về trình tự thủ tục giao đất và lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện S cho hộ gia đình cụ Đặng Văn S đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đúng theo quy định tại Điều 24, 36 Luật Đất đai năm 1993. Đến năm 1996, ông Đặng Văn T là con cụ S lập gia đình ra ở riêng, do đó gia đình cụ S đã cho ông T cùng vợ là bà Lý Thị B mượn 01 phần đất để làm nhà ở và canh tác, hai bên chỉ nói với nhau bằng miệng không lập thành văn bản. Quá trình quản lý, sử dụng vợ chồng ông T đã đi làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thửa đất đang quản lý, canh tác; ngày 06/01/2017 UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG713463, diện tích 1.175,1m2, nghi thửa số 26, tờ bản đồ số 08 ,tại thôn L, xã L cho H ông Đặng Văn T. Khi gia đình cụ S biết đã làm đơn khiếu nại, ngày 24/4/2023 UBND huyện S đã ra Quyết định số 240/QĐ-UBND thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Hộ ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B nên xảy ra tranh chấp. Cụ S yêu cầu gia đình ông T phải trả lại toàn bộ diện tích đất 17.471,7m2 và phải tháo dỡ, di rời tài sản trên đất nhưng gia đình ông T không nhất trí trả. Bị đơn ông T, bà B có yêu cầu phản tố; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 có yêu cầu độc lập yêu cầu chia tài sản chung đối với diện tích đất 50.000m2theo quy định của pháp luật |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẮC GIANG
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án: 33/2024/DS- ST
Ngày 07 / 11/ 2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG – TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Văn Toàn;
Các Hội thẩm nhân dân :
1. Bà Nguyễn Thị Bắc;
2. Bà Hoàng Thị Chung;
- Thư ký phiên toà: Bà Sầm Thị Thao – Thư ký Toà án nhân dân huyện Sơn
Động.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động tham gia phiên toà: Ông
Vương Văn Phong - Kiểm sát viên sơ cấp;
Trong ngày 29 tháng 9 năm 2024 và ngày 07 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà
án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án
dân sự thụ lý số: 25/2024/TLST- DS, ngày 28/5/2024 về việc “Tranh chấp
quyền sử dụng đất và di dời tài sản trên đất, chia tài sản chung”; Theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2024/QĐXX – ST, ngày 16 tháng 9 năm 2024,
Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 12/2024/QĐXX – ST, ngày 29 tháng 9 năm
2024, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 27/2024/QĐXX – ST, ngày
18 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Cụ Đặng Văn S, sinh năm 1949; có mặt
Địa chỉ thường trú: Thôn L, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
- B đơn: Ông Đặng Văn T, sinh năm 1971; có mặt
Bà Lý Thị B, sinh năm 1974; có mặt
Địa chỉ thường trú: Thôn L, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. UBND huyện S; do ông Ngọc Đức V – Chức vụ: Phó trưởng phòng Tài
nguyên và môi trường huyện S là người đại diện theo ủy quyền; có đơn đề nghị
xử vắng mặt.
2. Cụ Nịnh Thị T1, sinh năm 1948; có mặt
3. Bà Đặng Thị V1, sinh năm 1984; vắng mặt
2
4. Ông Đặng Văn B1, sinh năm 1975; có mặt
5. Bà Đặng Thị T2, sinh năm 1977; vắng mặt
6. Bà Đặng Thị D, sinh năm 1986; có mặt
7. Bà Đặng Thị N, sinh năm 1979; có mặt
8. Anh Đặng Văn N1, sinh năm 1994; có mặt
9. Chị Trương Thị Q, sinh năm 1997; vắng mặt
10. Bà Trần Thị N2, sinh năm 1974; có mặt
11. Chị Đặng Thị T3, sinh năm 1993; vắng mặt
12. Ông Đặng Văn D1, sinh năm 1966; ; vắng mặt
13. Bà Đặng Thị T4, sinh năm 1964; ; vắng mặt
Đều cư trú tại: Thôn L, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
14. Bà Đặng Thị S1, sinh năm 1981; vắng mặt
Cư trú tại: Thôn N, xã V, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
15. Bà Đặng Thị Q1, sinh năm 1988; có mặt
16. Ông Nịnh Văn H, sinh năm 1980; có đơn đề nghị xử vắng mặt
Đều cư trú tại: Thôn P, xã V, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
17. Bà Đặng Thị N3, sinh năm 1958; ; vắng mặt
Cư trú tại: Thôn N, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang
(Bà V1, bà D, bà T2 đã ủy quyền cho bà N; bà B, chị Q, chị T3 đã ủy
quyền cho anh N1; ông V, bà N3, bà T4, ông D1, ông H có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo đơn khởi kiện ngày 05/4/2024, đơn khởi kiện bổ sung ngày
12/8/2024, những lời khai tiếp theo có trong hồ sơ và tại phiên tòa cụ Đặng Văn
S trình bày:
Khoảng tháng 4 năm 1994, gia đình cụ được nhà nước giao cho quản lý,
sử dụng 01 lô đất lâm nghiệp để trông coi, quản lý, bảo vệ rừng tái sinh và giao
đất, đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm
nghiệp (Sổ bìa xanh). Đến ngày 10/6/1999 được UBND huyện S cấp chuyển đổi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chuyển từ sổ bìa xanh sang sổ bìa đỏ) số
P061766, diện tích 05ha, tại lô 2, khoảnh 2, tại thôn L, xã L cho H ông Đặng
Văn S.
Đến năm 1996, do ông Đặng Văn T là thành viên trong gia đình lập gia
đình khi ra ở riêng chưa có nhà đất để ở, do đó gia đình cụ đã cho ông T cùng vợ
là Lý Thị B mượn tạm 01 phần đất làm nhà tạm để ở và canh tác diện tích đất
300m
2
, hai bên chỉ nói bằng miệng. Quá trình quản lý, sử dụng vợ chồng ông T
đã tự ý đi làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thửa đất mượn của gia
đình cụ, ngày 06/01/2017 UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CG713463, diện tích 1.175,1m
2
, nghi thửa số 26, tờ bản đồ số 08, tại thôn
3
L, xã L cho H ông Đặng Văn T. Khi gia đình cụ phát hiện ra việc UBND huyện
S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T không đúng và có đơn yêu
cầu UBND huyện S giải quyết, ngày 24/4/2023 UBND huyện S đã ra Quyết
định số 240/QĐ-UBND thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Hộ ông
Đăng Văn T5, bà Lý Thị B.
Cụ yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Sơn Động giải quyết; buộc gia đình
ông T5, bà B phải trả lại toàn bộ diện tích đất 17.471,7m
2
và phải tháo dỡ, di rời
tài sản trên đất nêu trên để trả lại đất cho gia đình cụ quản lý, sử dụng.
Đối với ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B có đơn yêu cầu phản tố, anh Đặng
Văn N1, chị Đặng Thị T3 có đơn yêu cầu chia tài sản chung đối với thửa đất
diện tích 05ha, tại lô 2, khoảnh 2 cụ không nhất trí, vì tài sản này là do gia đình
tự giải quyết, ông T và bà B không có quyền nên yêu cầu chia. Cụ và cụ Nịnh
Thị T1, bà Đặng Thị V1, bà C Đặng Thị T2, bà Đặng Thị N, bà Đặng Thị S1, bà
Đặng Thị D, bà Đặng Thị Q1 không yêu cầu chia tài sản chung khi Tòa án giải
quyết yêu cầu của ông T, bà B, anh N1, chị T3; cụ không yêu cầu chia phần tài
sản và phàn di sản thừa kế của cụ Nịnh Thị T6 đã chết để lại.
Thời điểm giao đất gia đình cụ có các thành viên sau: Cụ Nịnh Thị T6
(mẹ cụ đã chết năm 2009), cụ Đặng Văn S, cụ Nịnh Thị T1, ông Đặng Văn T, bà
Lý Thị B, bà Đặng Thị V1, ông Đặng Văn B1, bà Đặng Thị T2, bà Đặng Thị N,
bà Đặng Thị S1, bà Đặng Thị D, bà Đặng Thị Q1.
Cháu Đặng Thị T3 thời điểm sinh ra thì cháu T3 vẫn ở cùng gia đình cụ;
cháu Đặng Văn N1 sinh ra cuối năm 1994 khi đó gia đình đã được giao đất; bà
Lý Thị B thời điểm giao đất đã về gia đình cụ ở làm dâu và đang ở cùng gia
đình; Bà Trần Thị N2 khi đó chưa có khẩu vì bà N2 lấy ông Ba tháng 12/1994, ở
cùng gia đình cụ sau khi được nhà nước giao đất. Bà B, bà N2, cháu N1 và cháu
T3 không có tên trong sổ hộ khẩu gia đình tại thời điểm giao đất nên không
được chia.
Ngoài ra cụ không có yêu cầu gì khác.
[2] Bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B xác nhận một phần lời khai của
bên nguyên đơn tại biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa ông T trình bày:
Vào tháng 12 năm 1994, gia đình bố mẹ ông bà được UBND huyện S
giao cho quản lý, bảo vệ rừng 01 lô đất lâm nghiệp, diện tích 05 ha, lô 2, khoảnh
2, tại thôn L, xã L, huyện S, ngày 13/12/1994 được cấp sổ bìa xanh, năm 1999
được cấp chuyển đổi từ sổ bìa xanh sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ
bìa đỏ. Ngày 01/2/1996 thì bố mẹ ông bà có cho vợ chồng ông bà ra ở riêng và
đã cho một phần đất với diện tích 02ha, khi cho chỉ nói bằng miệng, do là bố
con với nhau nên không lập thành văn bản, từ đó đến nay vẫn chưa tách sổ sang
tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi ra ở riêng ông bà đã làm nhà
cấp 4 và canh tác ở trên đó, hiện tại phần đất 720m² gia đình ông xây dựng nhà ở
cấp 3 kiên cố và các công trình phụ khác, phần diện tích đất còn lại gia đình ông
bà dùng để trồng vải, trồng keo và cho thuê đất để mở xưởng khai thác lâm sản.
4
Ông Đặng Văn B1 là người chứng kiến khi cụ S nói tặng cho vợ chồng ông bà
02 ha đất.
Nay cụ Đặng Văn S khởi kiện, yêu cầu gia đình ông bà trả lại diện tích đất
là 17.471,7m
2
gia đình ông bà không nhất trí, vì phần đất này cụ S đã tặng cho
vợ chồng ông bà từ năm 1996; gia đình ông bà đã quản lý, sử dụng từ đó cho
đến nay không tranh chấp gì, do cụ S nghe lời các con đòi lại nên mới xảy ra
tranh chấp. Đối với tài sản trên đất là nhà và công trình phụ ông bà đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật; đối với cây trồng trên đất nếu phần
cây nằm trên đất phải trả cho cụ S thì ông bà sẽ khai thác ngay khi bản án có
hiệu lực pháp luật, ông bà không yêu cầu được nhận tiền.
Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ S thì ông bà yêu
cầu Tòa án chia tài sản chung là thửa đất diện tích 05 ha, lô 2, khoảnh 2, tại thôn
L, xã L, huyện S; vì năm 1994 khi được giao thửa đất có ông bà, cháu N1, cháu
T3 đang ở chung cùng hộ cụ Đặng Văn S. Gia đình ông bà yêu cầu được chia
nhận bằng đất theo phần được chia theo quy định của pháp luật là 15 phần bằng
nhau, ông bà đề nghị được chia vào phần đất hiện nay ông bà đã làm nhà và
trồng cây, nếu phần đất gia đình ông bà được nhận ít hơn phần được chia theo
phần ông bà nhất trí; những người được giao đất năm 1994 khi đó đang ở cùng
gia đình cụ S gồm: Cụ Nịnh Thị T6 (đã chết), cụ Đặng Văn S, cụ Nịnh Thị T1,
ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B, bà Đặng Thị V1, ông Đặng Văn B1, bà Trần Thị
N2, bà C Đặng Thị T2, bà Đặng Thị N, bà Đặng Thị S1, bà Đặng Thị D, bà
Đặng Thị Q1, anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3.
Về đất cho thuê nhà xưởng: Do ông Nịnh Văn H có nhu cầu thuê đất để
làm xưởng nên năm 2021 giữa ông bà và ông H có ký kết hợp đồng bằng văn
bản, có xác nhận của UBND xã L với nội dung: Gia đình ông bà cho ông H thuê
đất làm xưởng, diện tích đất thuê 1.500m
2
, thời gian từ năm 2021 đến hết năm
2031, tiền đã thanh toán 01 lần 180.000.000đ, hai bên đã giao nhận tiền và đất
cho nhau xong. Sau khi thuê đất ông H đã tiến hành làm đường điện, nhà xưởng,
đặt máy móc thiết bị, nhà kho để tiến hành làm băm keo đến nay không có
vướng mắc gì. Hợp đồng thuê đất giữa gia đình ông bà với ông H là đúng, nếu
nhà xưởng phải tháo dỡ, di dời trả lại cho đất cho cụ S thì ông bà không yêu cầu
Tòa án giải quyết hợp đồng thuê đất giữa ông bà với ông H trong vụ án này mà
hai bên tự giải quyết với nhau; trường hợp hai bên không tự giải quyết được với
nhau ông bà sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác. Ngoài ra ông bà
không có yêu cầu gì khác.
[3] Lời trình bày của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Lời trình bày của anh Đặng Văn N1, ch Đặng Th T3 (là con ông T, bà B b
đơn có yêu cầu độc lập): Trình bày về nguồn gốc đất, ý kiến và quan điểm đưa
ra như ông T, bà B trình bày. Thửa đất yêu cầu chia có diện tích 05 ha, thuộc lô
2, khoảnh 2, tại thôn L, xã L, huyện S được chia làm 15 phần bằng nhau; gia
đình anh chị yêu cầu được chia nhận bằng đất theo phần được chia theo quy
định của pháp luật, anh chị đề nghị được chia chung vào phần đất hiện nay gia
đình bố mẹ anh chị đã làm nhà và trồng cây. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
5
- Lời trình bày của cụ Nnh Th T1, bà Đặng Th V1, bà C Đặng Th T2, bà
Đặng Th N, bà Đặng Th S1, bà Đặng Th D, bà Đặng Th Q1 (là vợ, con cụ S
nguyên đơn): Trình bày về nguồn gốc đất, ý kiến và quan điểm đưa ra như cụ S
trình bày. Đối với ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B có đơn yêu cầu phản tố và anh
Đặng Văn N1, chị Đặng Thị Tình yêu C1 chia tài sản chung đối với thửa đất
diện tích 05ha, tại lô 2, khoảnh 2, cụ và các bà không nhất trí, vì tài sản này là
do gia đình quyết định, ông T, bà B và cháu N1, cháu T3 không có quyền được
chia. Cụ và các bà không yêu cầu chia tài sản chung nếu Tòa án giải quyết yêu
cầu của ông T, bà B và anh N1, chị T3. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
- Lời trình bày của ông Đặng Văn B1, bà Trần Th N2 (là con cụ S):
Năm 1994, gia đình ông bà được nhà nước giao cho quản lý, sử dụng 01
lô đất lâm nghiệp để trông coi, quản lý, bảo vệ rừng tái sinh và giao đất, đã được
UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp (Sổ bìa
xanh), diện tích 05ha, thuộc lô B, khoảnh 2, thôn L, xã L cấp cho Hộ ông Đặng
Văn S. Đến ngày 10/6/1999 được UBND huyện S cấp chuyển đổi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (chuyển từ sổ bìa xanh sang sổ bìa đỏ) số P061766, diện
tích 05ha, thuộc lô B, khoảnh 2, thôn L, xã L cho hộ ông Đặng Văn S.
Đến năm 1996, do ông Đặng Văn T là thành viên trong gia đình lập gia
đình chưa có nhà đất để ở, do đó gia đình bố mẹ ông bà đã cho ông T, bà B 01
phần đất làm nhà để ở và canh tác, diện tích đất cho là 20.000m
2
là đúng sự thật.
Từ khi nhận đất và làm nhà tạm để ở và quản lý, canh tác diện tích đất 20.000m
2
ổn định không có tranh chấp, đến năm 2022 thì xảy ra tranh chấp giữa cụ S với
ông T.
Nay cụ S khởi kiện ông T, chị B ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo
quy định của pháp luật, ông bà không có ý kiến gì.
Thời điểm giao đất năm 1994 gia đình bố mẹ ông bà gồm có: Cụ Nịnh Thị
T6, cụ Đặng Văn S, cụ Nịnh Thị T1, bà Đặng Thị V1, ông Đặng Văn T; tôi
Đặng Văn B1, bà Đặng Thị T2, bà Đặng Thị D, bà Đặng Thị N, bà Đặng Thị S1,
bà Đặng Thị Q1, bà Lý Thị B, Trần Thị N2, cháu Đặng Văn N1 và cháu Đặng
Thị T3.
Nay ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B có đơn yêu cầu phản tố, anh Đặng Văn
N1 và chị Đặng Thị T3 có yêu cầu độc lập, yêu cầu chia tài sản chung đối với
thửa đất diện tích 05ha, tại lô 2, khoảnh 2 ông bà không có ý kiến gì, đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, vì phần tài sản này là của chung
gia đình không có tranh chấp với nhau. Ông bà không yêu cầu chia tài sản chung
trong vụ án này, giữa bố mẹ ông bà và ông bà tự phân chia với nhau. Ngoài ra
ông bà không có yêu cầu gì khác.
- Lời trình bày của bà Nnh Th N4, bà Đặng Th T4, ông Đặng Văn D1
(là con cụ Nnh Th T6 là mẹ đẻ đã chết): Cụ Nịnh Thị T6 sinh ra được 04 anh
em ông bà gồm ông Đặng Văn S, ông Đặng Văn D1, bà Đặng Thị N3 và bà
Đặng Thị T4, cụ T6 đã chết năm 2009. Thời điểm UBND huyện S giao đất diện
tích 05ha, thuộc lô B, khoảnh 2, thôn L, xã L cho hộ ông Đặng Văn S thì cụ T6
được giao cùng hộ gia đình ông S khi đó. Nay ông S khởi kiện gia đình anh T trả
6
đất cũng như việc anh T, chị B và cháu N1, cháu Tình yêu C1 chia tài sản chung
ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với phần tài
sản và phần di sản thừa kế của cụ T6 chết để lại ông bà không yêu cầu Tòa án
phân chia mà giao lại cho ông S quản lý, sử dụng. Ngoài ra ông bà không có yêu
cầu gì khác.
- Lời trình bày của ông Nnh Văn H: Gia đình ông Đặng Văn T có 01 thửa
đất đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thôn L,
xã L. Do ông có nhu cầu thuê đất để làm xưởng nên năm 2021 giữa ông và gia
đình ông T có ký kết hợp đồng bằng văn bản, có xác nhận của UBND xã L với
nội dung: Gia đình ông T cho ông thuê đất làm xưởng, diện tích đất thuê
1.500m
2
, thời gian từ năm 2021 đến hết năm 2031, tiền đã thanh toán 01 lần
180.000.000đ, hai bên đã giao nhận tiền và đất cho nhau xong. Sau khi thuê đất
ông đã tiến hành làm đường điện, nhà xưởng, đặt máy móc thiết bị, nhà kho để
tiến hành làm băm giác đến nay không có vướng mắc gì.Ông thuê đất của gia
đình ông T có làm hợp đồng đúng theo quy định, hai bên đã ký kết với nhau có
xác nhận của UBND xã. Nay cụ S khởi kiện ông T trả đất ông đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đối với nhà xưởng của ông, nếu trường hợp ông T vẫn được quản lý, sử
dụng và ông không phải tháo dỡ, di dời thì ông không có ý kiến gì; Nếu ông T
không được quản lý, sử dụng phần đất và ông phải tháo dỡ, di dời phần nhà
xưởng để trả lại đất cho cụ S thì ông không yêu cầu Tòa án giải quyết hợp đồng
thuê đất giữa ông với ông T trong vụ án này, hai bên sẽ tự giải quyết với nhau,
trường hợp hai bên không tự giải quyết được với nhau ông sẽ khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác. Ngoài ra ông không có yêu cầu gì khác.
- Quan điểm của UBND huyện S trả lời tại Công văn số 402/UBND-NC
ngày 25/9/2024 và biên bản ghi lời khai của người đại diện như sau:
Tháng 12 năm 1994, gia đình cụ Đặng Văn S được nhà nước giao 01 lô
đất lâm nghiệp để trông coi, quản lý, bảo vệ rừng tái sinh và giao đất, đã được
UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp (Sổ bìa
xanh), diện tích 05ha, tại lô B, khoảnh 2, tại thôn L, xã L cấp cho Hộ ông Đặng
Văn S. Đến ngày 10/6/1999 được UBND huyện S cấp chuyển đổi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (chuyển từ sổ bìa xanh sang sổ bìa đỏ) số P061766, diện
tích 05ha, tại lô 2, khoảnh 2, tại thôn L, xã L cho H ông Đặng Văn S.
Đến năm 1996, ông Đặng Văn T là con cụ S lập gia đình ra ở riêng, do đó
gia đình cụ S đã cho ông T 01 phần đất làm nhà tạm để ở và canh tác (cụ S cho
rằng gia đình chỉ cho mượn đất, ông T cho rằng gia đình cho đất nhưng đều
không có văn bản giấy tờ gì để chứng minh). Quá trình quản lý vợ chồng ông T
đã đi kê khai làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên một phần của thửa
đất, ngày 06/01/2017 UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CG713463, diện tích 1.175,1m
2
, thửa số 26, tờ bản đồ số 08, tại thôn L, xã L
cho H ông Đặng Văn T. Khi gia đình cụ S biết việc UBND huyện S cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T không đúng và có đơn khiếu nại, ngày
24/4/2023 UBND huyện S đã ra Quyết định số 240/QĐ-UBND thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của Hộ ông Đăng Văn T5, bà Lý Thị B. Từ
7
nguyên nhân trên nên hai bên xảy ra tranh chấp, UBND xã L đã hòa giải nhưng
không thành.
Như vậy về trình tự, thủ tục lập hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho hộ gia đình cụ Đặng Văn S là đúng trình tự, thủ tục theo quy định
của pháp luật.
Tại thời điểm giao đất cho hộ gia đình cụ Đặng Văn S tháng 12 năm
1994, gia đình cụ S có những thành viên trong hộ gồm: Cụ Nịnh Thị T6, cụ
Đặng Văn S, Cụ Nịnh Thị T1, ông Đặng Văn T, ông Đặng Văn B1, bà Đặng Thị
T2, bà Đặng Thị N, bà Đặng Thị S1, bà Đặng Thị V1, bà Đặng Thị D, bà Đặng
Thị Q1. Ngoài ra còn có Bà Lý Thị B (con dâu) kết hôn với ông T, bà Trần Thị
N2 (con dâu) kết hôn với ông B1 vào năm 1993, con ông T chị Đặng Thị T3,
sinh năm 1993 và anh Đặng Văn N1, sinh ngày 15/7/ 1994 là người ở chung
cùng gia đình cụ S. Khi bà B kết hôn với ông T và bà N2 kết hôn với ông B1 thì
về gia đình cụ S ở luôn và khi đó ở chung cùng gia đình cụ S.
Thời điểm giao đất là giao cho hộ gia đình, những ai đang ở trong hộ gia
đình tại thời điểm đó đều được giao đất chứ không căn cứ vào sổ hộ khẩu, vì tất
cả các quyền lợi được hưởng và nghĩa vụ của những người trong hộ gia đình là
như nhau. Bà Lý Thị B, bà Trần Thị N2 tuy không có tên trong sổ hộ khẩu gia
đình cụ S (là do chưa cắt khẩu) nhưng không được hưởng quyền lợi gì của nhà
nước hay nghĩa vụ của công dân tại gia đình mình khi đã lấy chồng về gia đình
cụ S ở. Việc bà Lý Thị B, bà Trần Thị N2, chị Đặng Thị T3 và anh Đặng Văn
N1 không có tên trong sổ hộ khẩu là do bà B, bà N2 khi đó chưa kê khai chuyển
khẩu và anh N1, chị T3 do gia đình chưa đi đăng ký hộ khẩu tại thời điểm đó
nên không có tên trong sổ hộ khẩu.
Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang
sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất
Do đó những người được giao đất khi đó là thành viên trong hộ gia đình
cụ Đặng Văn S tại thời điểm được nhà nước giao đất tháng 12 năm 1994.
Nay cụ Đặng Văn S yêu cầu gia đình ông Đặng Văn T trả đất và di dời tài
sản trên đất; ông T, bà B có yêu cầu phản tố, anh N1 và chị T3 có yêu cầu độc
lập yêu cầu chia tài sản chung. UBND huyện đề nghị Tòa án căn cứ vào các tài
liệu chứng cứ các bên xuất trình và do Tòa án thu thập để xem xét, giải quyết vụ
án theo quy định của pháp luật.
[4] Kết quả xem xét, thẩm định và định giá tài sản:
Kết quả xem xét, thẩm đnh: Diện tích đất tranh chấp là 16.400,5m
2
; Về tài
sản trên đất gồm 01 nhà cấp 3 loại 3 có 2 tầng, diện tích 2 tầng = 176,4m²; 01
nhà bếp xây cấp 4, đổ trần diện tích= 35,5m²; Tường bao xây cay nghiêng diện
tích = 92,15m²; 01 nhà xưởng cột sắt, lợp tôn diện tích = 25,8m²; 01 nhà xưởng
cột sắt không có tường bao, lợp tôn diện tích = 55m²; Bán mái tôn = 30m²; Vải
8
thiều 41 cây; Xoài 03 cây; Na 02 cây mới trồng; T7 có 02 cây mới trồng; Mít 07
cây; Nhãn 01 cây; Hồng xiêm 01 cây; Cây keo có đường kính gốc từ 5-7cm =
1.772 cây; Cây có đường kính gốc từ 3-5 cm = 1.772 cây; Ngoài ra còn một số
cây lâm lộc, tài sản khác giá trị thấp nên các đương sự không yêu cầu thẩm định.
Kết quả đnh giá tài sản: Nhà ở 176,4m² = 705.600.000đ; Nhà bếp 35,5m²
= 124,250.000đ; Tường bao 92,15m
2
= 11.05.8.000đ; Nhà xưởng, cột sắt
25,8m²= 20.000.000đ; Nhà xưởng cột sắt lợp tôn không tường bao 55m
2
=
10.000.000đ; Bán mái tôn 30m
2
= 7.500.000đ; Vải thiều giá 1.713.000đ/cây x
41= 70.233.000đ; Xoài giá 1.118.000đ/cây x 3 = 3.540.000đ; Na giá
29.000đ/cây x 2 = 5 8.000đ; Táo giá 65.000đ/cây x 2 = 130.000đ; Mít giá
710.000đ/cây x 7 = 4.970.000đ; Nhãn 01 cây = 1.364.000đ; Hồng xiêm =
20.000đ/cây; Cây keo có đường kính gốc từ 5-7cm có 1.772 cây x 13.000đ/cây
= 23.036.000đ, cây keo có đường kính gốc từ 3-5 cm có 1.772 cây x
10.000đ/cây = 17.720.000đ; Đất lâm nghiệp = 20.000đ /m²
[5] Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người
tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến kết thúc phần tranh luận chuyển
vào nghị án; Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như việc chấp hành pháp luật
của các đương sự thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 138, 164, 166, 175, 185, 357, 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 118 Bộ luật Dân sự năm 1995. Khoản 1
Điều 35, Điều 91, 147, 157, 165, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản
1 Điều 11, Điều 24, 36, 38, 43 và Điều 73 của Luật Đất đai năm 1993; Khoản 29
Điều 3, Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/2016/NQ – UBTVQH 14 quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đặng Văn S.
Buộc bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B; người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan, anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 và chị Trương Thị Q phải trả
cho gia đình ông Đặng Văn S quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp
8.271,5m
2
thuộc lô 02, khoảnh 02, thôn L, xã L, huyện S; gồm các điểm 3, 4, 5,
6, 7, 8, 9,17.
Về tài sản trên đất: Gia đình ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B phải khai thác
di dời là 1.772 cây keo đường kính gốc từ 5-7cm và 1.772 cây keo có đường
kính gốc từ 3-5cm nằm trong diện tích đất 8.271,5m
2
khi bản án có hiệu lực thi
hành.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Văn T, bà B, yêu cầu độc lập
của anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị Tình yêu C1 chia tài sản chung: Ông Đặng
Văn T, bà Lý Thị B; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, anh Đặng Văn
N1, chị Đặng Thị T3 được chia diện tích đất 8.129m
2
nằm trong diện tích đất
9
thuộc lô 02, khoảnh 02, thôn L, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang; gồm các điểm 1,
2, 3, 10, 11, 12, 13, 17.
(Có sơ đồ đo vẽ, bản kê độ dài các cạnh và tọa độ kèm theo).
Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Được thực hiện theo khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Về án phí: Nguyên đơn cụ Đặng Văn S, bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý
Thị B, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng
Thị T3 đều là người dân tộc thiểu số thường xuyên sống ở vùng kinh tế đặc biệt
khó khăn nên được miễn toàn bộ án phí DSST.
Về tiền chi phí tố tụng: Chi phí định giá và thẩm định, đo đạc hết số tiền
là 14.650.000đ, ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B phải chịu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông Đặng Văn S khởi kiện yêu cầu
gia đình ông T, bà B trả diện tích đất tranh chấp và di dời tài sản trên đất, bị đơn
không nhất trí trả và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Bị
đơn ông T, bà B có yêu cầu phản tố; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 có yêu cầu độc lập, yêu cầu chia tài sản
chung đối với diện tích đất 50.000m
2
. Do đó, quan hệ pháp luật trong vụ án là
“Tranh chấp quyền sử dụng đất và di dời tài sản trên đất, chia tài sản chung”
theo quy định tại khoản 2, 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Chủ tịch UBND huyện S ủy
quyền cho ông Ngọc Đức V là người đại diện tham gia tố tụng, văn bản ủy
quyền số 2514/UBND-NC ngày 20/8/2024; Bà V1, bà D, bà T2 đã ủy quyền cho
bà Đặng Thị N là người đại diện tham gia tố tụng; bà B, chị Q, chị T3 đã ủy
quyền cho anh Đặng Văn N1 là người đại diện tham gia tố tụng. Các đương sự
ủy quyền đúng theo quy định của pháp luật cần được chấp nhận theo Điều 138
của Bộ luật Dân sự.
Ông Ngọc Đức V, ông Nịnh Văn H, ông Đặng Văn D1, bà Đặng Thị N3,
bà Đặng Thị T4 có đơn xin xét xử vắng mặt; do đó, Hội đồng xét xử, xét xử
vắng mặt theo khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự cung cấp, ý kiến quan
điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động về việc giải quyết vụ án, kết
quả xem xét, thẩm định tại chỗ cũng như kết quả xác minh thu thập tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định:
10
Ngày 30 tháng 12 năm 1994, gia đình cụ Đặng Văn S được nhà nước giao
cho quản lý, sử dụng 01 lô đất lâm nghiệp để trông coi, quản lý, bảo vệ rừng tái
sinh, đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm
nghiệp (Sổ bìa xanh). Đến ngày 10/6/1999 được UBND huyện S cấp chuyển đổi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chuyển từ sổ bìa xanh sang sổ bìa đỏ) số
P061766, diện tích 05ha, tại lô 2, khoảnh 2, tại thôn L, xã L cho H ông Đặng
Văn S.
Về trình tự thủ tục giao đất và lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện S cho hộ gia đình cụ Đặng Văn S
đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đúng theo quy định tại Điều
24, 36 Luật Đất đai năm 1993.
Đến năm 1996, ông Đặng Văn T là con cụ S lập gia đình ra ở riêng, do đó
gia đình cụ S đã cho ông T cùng vợ là bà Lý Thị B mượn 01 phần đất để làm
nhà ở và canh tác, hai bên chỉ nói với nhau bằng miệng không lập thành văn
bản. Quá trình quản lý, sử dụng vợ chồng ông T đã đi làm Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trên thửa đất đang quản lý, canh tác; ngày 06/01/2017 UBND
huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG713463, diện tích
1.175,1m
2
, nghi thửa số 26, tờ bản đồ số 08 ,tại thôn L, xã L cho H ông Đặng
Văn T. Khi gia đình cụ S biết đã làm đơn khiếu nại, ngày 24/4/2023 UBND
huyện S đã ra Quyết định số 240/QĐ-UBND thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của Hộ ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B nên xảy ra tranh chấp.
Cụ S yêu cầu gia đình ông T phải trả lại toàn bộ diện tích đất 17.471,7m
2
và phải tháo dỡ, di rời tài sản trên đất nhưng gia đình ông T không nhất trí trả.
Bị đơn ông T, bà B có yêu cầu phản tố; người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 có yêu cầu độc lập yêu cầu chia
tài sản chung đối với diện tích đất 50.000m
2
theo quy định của pháp luật.
Nguyên đơn ông Đặng Văn S cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu khởi kiện của mình: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ
hòa giải của UBND xã, quyết định số 240 ngày 24/4/2023 của UBND huyện S.
Bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho ý kiến của mình: Không có.
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự thì nghĩa vụ chứng
minh: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án, tài liệu, chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”.
Căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cụ S cung cấp, tờ Bản đồ
giao đất lâm nghiệp 02, kết quả xem xét thẩm định thì toàn bộ diện tích đất tranh
chấp 16.400,5m
2
nguyên đơn cụ Đặng Văn S khởi kiện hiện gia đình ông Đặng
Văn T đang quản lý, canh tác thuộc lô 02, khoảnh 02, thôn L, xã L, huyện S hộ
11
gia đình cụ Đặng Văn S đã UBND huyện S giao đất và cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Bị đơn ông T, bà B cho rằng diện tích đất ông S yêu cầu trả thì năm 1996
cụ S cùng các thành viên trong gia đình đã cho ông bà khi ra ở riêng. Cụ S cho
rằng ông T, bà B trình bày như trên là không đúng mà khi đó gia đình chỉ tạm
thời cho mượn để làm nhà ở tạm. Ông T, bà B đưa ra lời trình bày nhưng không
có tài liệu, chứng cứ để chứng minh.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên thì nguyên đơn cụ Đặng Văn S đưa
ra yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B trả lại diện
tích đất chấp là có căn cứ chấp nhận; bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B;
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3,
chị Trương Thị Q đưa ra lời phản biện và chứng cứ để bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là không có cơ sở chấp nhận.
Lô đất có tranh chấp thì thời điểm giao đất gia đình ông T có được giao
đất trong đó và ông T, bà bằng, anh N1, chị T3 có yêu cầu chia tài sản chung.
Do đó, cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đặng
Văn S. Buộc bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B; người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3, chị Trương Thị Q phải trả cho
gia đình ông Đặng Văn S quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp 8.271,5m
2
,
thuộc lô 02, khoảnh 02, thôn L, xã L, huyện S; gồm các điểm 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,
17.
Về tài sản trên đất: Trên diện tích đất tranh chấp 8.271,5m
2
gia đình ông
Đặng Văn T phải trả cho gia đình cụ Đặng Văn S gia đình ông T đã trồng cây
Keo trên đất, cây có đường kính gốc từ 3-5cm là 1.772 cây và cây có đường
kính gốc từ 5-7cm là 1.772 cây; nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật, bị đơn đề nghị sẽ tự khai thác khi bản án có hiệu lực pháp
luật. Xét thấy, số cây Keo gia đình ông T trồng từ tháng 5/2022 chưa đến tuổi
khai thác, tuổi khác thác keo đến chu kỳ thu hoạch khoảng 05 năm, nếu di dời
tài sản sẽ giảm giá trị nhưng gia đình ông T cho rằng gia đình sẽ tự khai thác,
keo đến khi khác thác vẫn đảm bảo giá trị và không nhất trí giao cho gia đình cụ
S. Do đó, buộc gia đình ông T phải khai thác, di dời toàn bộ 3.544 cây keo nằm
trong diện diện tích đất trả cho cụ S.
[4] Xét yêu cầu phản tố của ông T, bà B, yêu cầu độc lập của anh N1, ch
T3:
Ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B, anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 cho
rằng thửa đất diện tích 05 ha, thuộc lô 2, khoảnh 2, tại thôn L, xã L, huyện S gia
đình được nhà nước giao năm 1994, khi được giao thửa đất gia đình khi đó có
những người được giao gồm: Cụ Nịnh Thị T6, cụ Đặng Văn S, cụ Nịnh Thị T1,
ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B, bà Đặng Thị V1, ông Đặng Văn B1, bà Trần Thị
N2, bà C Đặng Thị T2, bà Đặng Thị N, bà Đặng Thị S1, bà Đặng Thị D, bà
Đặng Thị Q1, anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3.
12
Cụ Đặng Văn S, cụ Nịnh Thị T1, bà Đặng Thị V1, bà Đặng Thị T2, bà
Đặng Thị N, bà Đặng Thị S1, bà Đặng Thị D, bà Đặng Thị Q1 không chấp nhận
yêu cầu chia tài sản chung của ông T, bà B, anh N1, chị T3. Cụ Đặng Văn S, cụ
Nịnh Thị T1, bà Đặng Thị V1, bà C Đặng Thị T2, bà Đặng Thị N, bà Đặng Thị
S1, bà Đặng Thị D, bà Đặng Thị Q1 cho rằng thời điểm nhà nước giao đất anh
N1, chị T3, bà B chưa nhập khẩu vào hộ gia đình cụ S nên không được giao.
Qua các tài liệu chứng cứ Hội đồng xét xử xác định, tại thời điểm giao đất năm
1994 cho hộ gia đình cụ Đặng Văn S tháng 12 năm 1994, gia đình cụ S có
những thành viên trong hộ gồm: Cụ Nịnh Thị T6, cụ Đặng Văn S, Cụ Nịnh Thị
T1; các con: ông Đặng Văn T, ông Đặng Văn B1, bà Đặng Thị T2, bà Đặng Thị
N, bà Đặng Thị S1, bà Đặng Thị V1, bà Đặng Thị D, bà Đặng Thị Q1. Ngoài ra
còn có Bà Lý Thị B (con dâu) kết hôn với ông T, bà Trần Thị N2 (con dâu) kết
hôn với ông B1 vào tháng 11 năm 1993, con ông T chị Đặng Thị T3, sinh năm
1993 và anh Đặng Văn N1, sinh ngày 15/7/1994 là người ở chung cùng gia đình
cụ S. Khi bà B kết hôn với ông T và bà N2 kết hôn với ông B1 về gia đình cụ S
ở làm dâu luôn và khi đó ở chung cùng gia đình cụ S. UBND xã L và UBND
huyện S xác định thời điểm giao đất là giao cho hộ gia đình, những ai đang ở
trong hộ gia đình tại thời điểm đó đều được giao đất chứ không căn cứ vào sổ hộ
khẩu, vì tất cả các quyền lợi được hưởng và nghĩa vụ của những người trong hộ
gia đình là như nhau. Bà Lý Thị B, bà Trần Thị N2 tuy không có tên trong sổ hộ
khẩu gia đình cụ S (là do chưa cắt khẩu) nhưng không được hưởng quyền lợi gì
của nhà nước hay nghĩa vụ của công dân tại gia đình mình khi đã lấy chồng về
gia đình cụ S ở. Việc bà Lý Thị B, bà Trần Thị N2, chị Đặng Thị T3 và anh
Đặng Văn N1 không có tên trong sổ hộ khẩu là do bà B, bà N2 khi đó chưa kê
khai chuyển khẩu, anh N1 và chị T3 do gia đình chưa đi đăng ký hộ khẩu tại
thời điểm đó nên không có tên trong sổ hộ khẩu.
Theo quy định tại khoản 29 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 “Hộ gia
đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có
quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Do đó những
người được giao đất tại thời điểm đó là thành viên trong hộ gia đình cụ Đặng
Văn S là những người được nhà nước giao đất. Diện tích đất lâm nghiệp 05 ha
tại lô B, khoảnh 2, tại thôn L, xã L, huyện S xác định là tài sản chung của hộ gia
đình của cụ Đặng Văn S theo quy định tại Điều 118 Bộ luật Dân sự 1995.
Do đó ý kiến cụ S, cụ T1, ông bà V1, bà T2, bà N, bà S1, bà D, bà Q1 đưa
ra là không có căn cứ chấp nhận. Ý kiến đưa ra của ông T, bà B, anh N1, chị T3
về các thành viên thời điểm giao đất và yêu cầu được chia đất là có căn cứ chấp
nhận.
Ông T, bà B, anh N1, chị Tình yêu C1 được chia làm 15 phần theo quy
định của pháp luật, yêu cầu chia vào phần đất hiện nay ông bà đã làm nhà, trồng
cây và được chia chung nhau thành 01 thửa đất, ý kiến đưa ra của ông T, bà B,
chị T3, anh Nghĩa L phù hợp cần chấp nhận.
13
Do đó đất được chia như sau: Diện tích đất 50.000m
2
: 15 =
3.333m
2
/người; ông T, bà B, anh N1 và chị T3 là người yêu cầu chia có ý kiến
trường hợp nếu chia diện tích đất ít hơn diện tích đất được chia theo phần ông T,
bà B và anh N1, chị T3 nhất trí; yêu cầu chia vào phần đất hiện nay gia đình ông
T đã làm nhà, trồng cây và được chia chung nhau thành 01 thửa đất, yêu cầu của
ông T, bà B, anh N1 và chị Tình yêu C1 là hợp lý nên cần chấp nhận. Buộc hộ
gia đình ông Đặng Văn S phải chia cho ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B; người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 diện tích
đất 8.129m
2
,
thuộc lô 02, khoảnh 02, thôn L, xã L, huyện S; gồm các điểm 1, 2,
3, 10, 11, 12, 13, 17. (Có sơ đồ đo vẽ, bản kê độ dài các cạnh và tọa độ kèm
theo).
Ông Đặng Văn S, ông Nịnh Thị T1, bà Đặng Thị V1, ông Đặng Văn B1,
bà Trần Thị N2, bà C Đặng Thị T2, bà Đặng Thị N, bà Đặng Thị S1, bà Đặng
Thị D, bà Đặng Thị Q1 không yêu cầu chia tài sản chung nên HĐXX không đặt
ra xem xét giải quyết.
Đối với phần tài sản là đất của cụ Nịnh Thị T6 đã chết để lại ông Đặng
Văn S, ông Đặng Văn D1, bà Đặng Thị N3 và bà Đặng Thị T4 không yêu cầu
chia phần tài sản và di sản thừa kế nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.
Về đất cho thuê nhà xưởng giữa ông T với ông H: Ông Nịnh Văn H có
nhà xưởng làm trên phần đất tranh chấp; phần đất làm nhà xưởng này do ông H
thuê hợp đồng với ông T năm 2021; Tuy nhiên phần nhà xưởng này nằm trên
phần đất của gia đình ông T được chia tài sản chung. Quá trình giải quyết vụ án
ông H và ông T đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu phải tháo dỡ, di dời
thì hai bên tự giải quyết, nếu không giải quyết được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết bằng vụ án khác; do đó HĐXX chấp nhận ý kiến của ông T, ông H nên
không đặt ra xem xét, giải quyết.
Về lãi suất chậm Thi hành án: Được thực hiện theo khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
[4] Về án phí và chi phí tố tụng:
Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông S được chấp nhận nên bị đơn
ông T, bà B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và ông T, bà B, anh N1, chị T3 phải
chịu án phí phần chia tài sản chung; nhưng ông T, bà B, anh N1, chị T3 là
người dân tộc thiểu số thường xuyên sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, có
đơn xin miễn án phí nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ – UBTVQH 14 quy định về án phí,
lệ phí Toà án.
Về chi phí tố tụng: Tiền đo đạc, thẩm định và định giá tài sản là
14.650.000đ, số tiền này ông S đã ứng ra nộp chi phí; Tại phiên tòa ông tang, bà
B phải chịu một phần và xin chịu cả phần của cụ S; do đó ông T, bà B phải chịu
toàn bộ số tiền này; số tiền ông T, bà B nộp trả cho cụ S.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo
quy định tại Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
14
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các Điều 138, 164, 166, 175, 185, 357, 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015; Điều 118 Bộ luật Dân sự năm 1995. Khoản 1 Điều 35, Điều 91, 147,
157, 165, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 11, Điều 24, 36,
38, 43 và Điều 73 của Luật Đất đai năm 1993; Khoản 29 Điều 3, Điều 203 của
Luật Đất đai năm 2013. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ –
UBTVQH 14 quy định về án phí, lệ phí Toà án.
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ Đặng Văn
S.
Buộc bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B; người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan, anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 và chị Trương Thị Q phải trả
cho gia đình cụ Đặng Văn S quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp
8.271,5m
2
thuộc lô 02, khoảnh 02, thôn L, xã L, huyện S; gồm các điểm 3, 4, 5,
6, 7, 8, 9,17; Độ dài các canh như sau: 3-4 = 57,38m, 4-5 = 21,19m, 5-6 =3,33m,
6-7 = 41,06m, 7-8 = 51,85m, 8-9 = 37,97m, 9-17 = 44,19m, 3-17 = 137,1m; Các
điểm tọa độ: 3:X 2363414.70 – Y491214.80; 4:X 2363458.19 – Y491271.54;
5:X 2363431.61 – Y491284.42; 6:X 2363433.22 – Y491287.33; 7:X
2363400.31 – Y491311.30; 8:X 2363350.04 – Y491303.17; 9:X 236313.21 –
Y491311.90; 17:X 2363302.14 – Y491279.91.
Về tài sản trên đất: Gia đình ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B phải khai thác
di dời 3.544 cây keo nằm trên diện tích đất 8.271,5m
2
khi bản án có hiệu lực thi
hành.
[2] Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3 có
yêu cầu độc lập về yêu cầu chia tài sản chung.
Buộc gia đình ông Đặng Văn S phải chia cho ông Đặng Văn T, bà Lý Thị
B, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đặng Văn N1, chị Đặng Thị T3
diện tích đất 8.129m
2
nằm trong diện tích đất
thuộc lô 02, khoảnh 02, thôn L, xã
L, huyện S, tỉnh Bắc Giang; gồm các điểm 1, 2, 3, 10, 11, 12, 13, 17. Độ dài các
cạnh: 1-2 = 30,83m, 2-3 = 41,38m, 3-17 = 137,1m, 10-17 = 10,13m, 10-11 =
41,67m, 11-12= 28,53m, 12-13 = 34,32m, 1-13 = 86,89m; Các điểm tọa độ: 1:X
2363380.61 – Y 491177.14; 2:X 2363394.64 – Y491204.50; 3:X 2363414.70 –
Y491214.80; 10:X 2363297.83 –Y 491270.74; 11:X 2363276.61 – Y491242.82;
12:X 2363265.08 – Y491210.28; 13:X 2363299.20 – Y491206.60; 17:X
2363302.14 – Y491279.91.
(Có sơ đồ đo vẽ kèm theo bản án).
[3] Về án phí: Cụ Đặng Văn S, ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B, anh Đặng
Văn N1, chị Đặng Thị T3 là người dân tộc thiểu số thường xuyên sống ở vùng
kinh tế đặc biệt khó khăn nên được miễn toàn bộ án phí DSST.
15
[4] Về tiền chi phí tố tụng: ông Đặng Văn T, bà Lý Thị B phải chịu số tiền
là 14.650.000đ; số tiền ông T, bà B nộp trả cho cụ Đặng Văn S.
Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Được thực hiện theo khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc
niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
hoặc b cưỡng chế thi hành án theo quy đnh tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu được thực hiện theo quy đnh tại Điều 30 -
Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND huyện Sơn Động;
- Chi cục THADS huyện Sơn Động;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HS, VP.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Toàn
Tải về
Bản án số 33/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 33/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 178/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm