Bản án số 282/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 282/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 282/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 282/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: không chấp nhận kháng cáo
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH LÂM ĐỒNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 282/2025/DS-PT
Ngày: 26/9/2025
V/v: “Tranh chấp yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ trả tiền”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Lê Thị Thanh Thái
Các Thẩm phán: bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh và bà Phạm Phong Lan
- Thư phiên tòa: Thị Yến Vân Thư Tòa án nhân dân tỉnh Lâm
Đồng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tnh Lâm Đồng tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Linh - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng – sở 1
xét xử phúc thẩm công khai vụ dân sự phúc thẩm thụ lý số 144/2025/TLPT-DS, ngày
18 tháng 7 năm 2025, về việc Tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”. Do
Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2025/DS-ST, ngày 05 tháng 6 năm 2025 của Tòa án nhân
dân huyện Hàm Tân có kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
443/2025/QĐ-PT, ngày 03 tháng 9 năm 2025 Thông báo thay đổi thời gian xét xử
số 517/TB-TA, ngày 15/9/2025 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: ông Đặng Hoài S, sinh năm: 1959, bà Võ Thị N, sinh năm 1969;
cùng địa chỉ: Khu phố B, T, H, Bình Thuận cũ.
Đại diện theo ủy quyền của ông S: ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1985; địa chỉ
thường trú: thôn Đ, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định cũ.
Địa chỉ liên hệ: 89B Nguyễn Công T1, T, L, Bình Thuận cũ. Theo Giấy ủy quyền
được công chứng ngày 14/3/2025, s công chứng 275, quyển số 01/2025TP/CC-
SCC/HĐGD tại Văn phòng C.
Đại diện theo ủy quyền của bà N: ông Đặng Hoài S, sinh năm 1959
- Bị đơn: bà Đỗ Thị H, sinh năm: 1965
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Đỗ Văn H1, sinh năm 1962
Cùng địa chỉ: Khu phố B, T, H, Bình Thuận cũ.
Đại diện theo ủy quyền của ông H1, bà H: bà Đỗ Thị Y, sinh năm 1991; địa chỉ
thường trú: Q, Hồ N, N, Hải Dương cũ. Địa chỉ liên hệ: Khu phố B, T, H, Bình Thuận
cũ. Theo Hợp đồng ủy quyền được công chứng ngày 03/3/2025, scông chứng 538,
2
Quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C1.
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông H1, bà H: bà Trần Thị Y T2,
Luật sư Công ty L, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H
Địa chỉ liên hệ: số C đường F-CL, C, TP ., TP . cũ.
Do có kháng cáo của ông Đặng Hoài S.
Tại phiên tòa có mặt ông Đặng Hoài S, ông Nguyễn Thanh T, bà Đỗ Thị H, ông
Đỗ Văn H1, bà Trần Thị Y T2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau:
- Nguyên đơn và đại diện nguyên đơn thống nhất trình bày: vợ chồng ông S, bà
N có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 231, tờ bản
đồ số 20, diện tích 240m
2
thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 079375 do
UBND huyện H cấp ngày 01/9/2005 (sau đây viết tắt là giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AB 079375) cho H với giá 900.000.000 đồng. Hợp đồng chuyển nhượng
được chứng thực tại UBND thị trấn T ngày 20/7/2020, nhưng để giảm thuế các bên
thống nhất thể hiện giá chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Sau khi hợp đồng
chuyển nhượng, vợ chồng ông đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc cho
vợ chồng bị đơn thực hiện thủ tục cập nhật biến động sang tên, đồng thời cũng đã bàn
giao đất cho họ sử dụng. Khi thanh toán thì H còn nợ lại số tiền 50.000.000 đồng
(Năm mươi triệu đồng), các bên lập giấy hẹn ngày 21/7/2020 thể hiện “còn lại
50.000.000đ, hẹn ngày nhận sổ đỏ bà H sẽ giao đủ 50.000.000đ còn lại bằng tiền mặt
cho N. Tuy nhiên, tnăm 2020 đến nay bà H không thực hiện. Do đó, vchồng
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà H phải thanh toán số tiền 50.000.000 đồng và tiền lãi
chậm trả của số tiền trên với mức 10%/năm từ ngày 22/8/2020 đến ngày xét xử
thẩm.
Tại phiên tòa, phía nguyên đơn thay đổi lời trình bày, theo đó giá trị quyền sử
dụng đất các bên thỏa thuận chuyển nhượng là 934.000.000 đồng (chín trăm ba mươi
bốn triệu đồng), đồng thời bổ sung yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Yêu cầu bà H và ông H1
liên đới thanh toán stiền ntừ việc chuyển nhượng 79.000.000 đồng tiền lãi
chậm trả từ ngày 20/8/2020 cho đến ngày xét xử sơ thẩm là 34.752.100 đồng, tổng số
tiền yêu cầu là 113.752.100 đồng.
- Bị đơn đại diện bị đơn trình bày: H nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 079375 từ vợ chồng ông S,
N với gthỏa thuận ban đầu là 934.000.000 đồng, sau đó các bên thống nhất lại giá
chuyển nhượng 900.000.000 đồng. Hợp đồng chuyển nhượng được chứng thực tại
UBND thị trấn T, nhưng để giảm thuế thì ông S đnghị thể hiện giá chuyển nhượng
trong hợp đồng là 200.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, vợ chồng
ông S đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng H thực hiện thủ tục
cập nhật biến động sang tên, đồng thời cũng đã bàn giao đất cho vợ chồng bà sử dụng.
Vợ chồng bà H đã thanh toán cho vợ chồng ông S đủ số tiền 900.000.000 đồng. Việc
nguyên đơn khởi kiện không đúng. Đề nghị Toà án áp dụng thời hiệu để đình chỉ
giải quyết vụ án hoặc bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
3
- Ông H1 và đại diện ông H1 thống nhất trình bày: thống nhất với lời trình bày
của H. Đề nghị Toà án áp dụng thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết vụ án hoặc
bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án nhân dân
huyện Hàm Tân đã tiến hành trưng cầu giám định đối với chữ ký, chữ viết trong “Giấy
biên nhận” do nguyên đơn giao nộp. Tại Kết luận giám định số 1398/KL-KTHS ngày
11/11/2024 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận: Chữ ký, chữ viết mang tên Đỗ Th
H phía cuối trang của tài liệu cần giám định hiệu A (Giấy biên nhận đề ngày
21/7/2020) so với chữ ký, chữ viết đứng tên Đỗ Thị H trên các tài liệu mẫu so sánh ký
hiệu từ M1 đến M4 là do cùng một người ký, viết ra.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan trình bày: Đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện đđình chỉ giải
quyết vụ án vì quan hệ tranh chấp trong vụ án được xác định là “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, tính từ ngày nguyên đơn biết được quyền lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm đã hơn 03 năm, do đó thời hiệu khởi kiện đã hết.
Trường hợp Tòa án không đình chỉ giải quyết vụ án thì đề nghị không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn giá trị chuyển nhượng được các bên thống nhất là
900.000.000 đồng, bđơn đã thanh toán đủ tiền và được nguyên đơn xác nhận. Nguyên
đơn trình bày bị đơn lừa mình xác nhận đã thanh toán đủ nhưng không tài liệu chứng
cứ để chứng minh.
Tại Bản án dân sự thẩm số 21/2025/DS-ST, ngày 05 tháng 6 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân đã quyết định:
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147,
161, 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 155, 274, 275, 280, 372, 373 Bộ luật Dân sự;
- Khoản 3 Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Hoài S
Võ Thị N đối với Đỗ Thị H, ông Đỗ Văn H1 về việc “Tranh chấp yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ trả tiền”, cụ thể:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Hoài S Thị N đối
với Đỗ Thị H, ông Đỗ Văn H1 về việc yêu cầu H, ông H1 thanh toán số tiền
113.752.100 đồng. Bao gồm 79.000.000 đồng nợ gốc và 34.752.100 đồng lãi chậm trả
tính đến ngày 05/6/2025.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, nghĩa vụ chịu án phí quyền
kháng cáo các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, nguyên đơn ông Đặng Hoài S kháng cáo toàn bộ
bản án dân sự sơ thẩm số 21/2025/DS-ST, ngày 05 tháng 6 năm 2025 của Tòa án nhân
dân huyện Hàm Tân.
4
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị chấp nhận u cầu
khởi kiện buộc bị đơn trả tiền.
- Bị đơn yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: nguyên đơn kháng
cáo nhưng không cung cấp tài liệu chứng cứ nào khác, Tòa án cấp thẩm tuyên xử
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là có căn cứ, đúng pháp luật nên đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến trình
bày tranh luận tại phiên tòa của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Xét thấy đơn kháng cáo của nguyên đơn trong thời hạn luật định và đã thực
hiện việc nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Điều
276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn
thanh toán số tiền còn nợ lại tviệc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tiền lãi chậm
trả. Tòa án thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án “Tranh chấp yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ trả tiền” là đúng quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: bị đơn nơi cư trú tại tại Khu phố B, thị
trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (nay tỉnh Lâm Đồng), nên Tòa án nhân dân huyện
Hàm Tân (nay thuộc Tòa án khu vực 15) căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự giải quyết là đúng thẩm quyền.
[4] Đây là vụ án v“Tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền” theo khoản
2 Điều 155 Bộ luật Dân sự nên bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông H1, H yêu cầu Toà án áp dụng thời hiệu
khởi kiện để đình chỉ giải quyết vụ án. a án cấp thẩm xác định trường hợp này
không áp dụng thời hiệu khởi kiện để giải quyết là đúng quy định của pháp luật.
[5] Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn cho rằng: Tòa án cấp thẩm chưa
xem xét khánh quan, đầy đủ các tài liệu, hồ sơ, chứng cứ trong ván, hoàn toàn
không xem xét đến lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn tại phiên
tòa thẩm. Dẫn đến kết luận bất lợi cho nguyên đơn, không phợp với các chứng
cứ khách quan của vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm yêu cầu hội đồng xét xử phúc thẩm
sửa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[5.1] Xét kháng cáo của nguyên đơn, thấy rằng: căn cứ vào các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ vụ án quá trình tranh tụng tại phiên tòa, thể hiện: giữa nguyên đơn
và bị đơn ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 231,
tờ bản đồ số 20, diện tích 240m
2
thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB
5
079375 do UBND huyện H cấp ngày 01/9/2005. Giá chuyển nhượng các bên thoả thuận
934.000.000 đồng. Đặt cọc 50.000.000 đồng ông S đã nhận tiền, sau đó các
bên thống nhất lại giá trị chuyển nhượng giảm xuống còn 900.000.000 đồng. Bị đơn
trình bày số tiền 34.000.000 đồng nguyên đơn giảm cho bị đơn để nộp thuế phí, giá tr
chuyển nhượng còn lại là 900.000.000 đồng.
Tại giấy biên nhận ngày 21/7/2020 nội dung được các bên xác nhận: thể hiện
các bên sang nhượng thửa đất trị giá 900.000.000 đồng, đã đưa trước 850.000.000
đồng, còn lại 50.000.000 đồng và có chữ ký của ông Đặng Hoài S, bà Đỗ Thị H và bà
Thị N ngoài ra còn nội dung “hẹn ngày nhận sổ đỏ H sẽ giao đủ số tiền
50.000.000đ còn lại bằng tiền mặt cho Thị N…”. Tại kết luận giám định số
1398/KL-KTHS ngày 11/11/2024 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận chữ chữ
viết của H và tại phiên tòa thẩm phía bị đơn thừa nhận vào thời điểm lập biên
nhận bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền 50.000.000 đồng. Như vậy, tại thời điểm ngày
21/7/2020 bà H ông H1 còn nợ vợ chồng nguyên đơn số tiền 50.000.000 đồng từ việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất như cấp sơ thẩm xác định là có cơ sở.
[5.2] Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn thay đổi nội dung khởi kiện
đề nghị Toà án tuyên H ông H1 phải nghĩa vụ thanh toán số nợ từ việc chuyển
nhượng 79.000.000 đồng (bao gồm tiền n50.000.000 đồng thiếu tiền mua đất
29.000.000 đồng tiền thừa khoản tiền đóng thuế đối với số tiền 34.000.000 đồng sau
khi nộp thuế) và tiền lãi chậm trả là 34.752.100 đồng, tổng số tiền yêu cầu
113.752.100 đồng
Các tài liệu chứng cứ có tài hồ và được nguyên đơn là ông Đặng Hoài S thừa
nhận: giấy viết tay ngày 22/8/2020 nội dung tôi đã nhận đsố tiền 50.000.000
đồng của H hôm trước đã có giấy hẹn và giao kèo. Giấy nợ trước không có giá trị
nữa. Đã nhận đủ 900.000.000 đồng” ghi rõ họ tên Đặng Hoài S là chữ chữ
viết của ông S, tuy nhiên ông S cho rằng vợ chồng bà H ông H1 yêu cầu viết nội
dung trên nhưng chưa giao tiền và hẹn nhiều lần nhưng không trả.
Xét thấy, nội dung giấy viết tay ngày 22/8/2020 và việc khai nại của nguyên đơn
về việc chưa được nhận tiền thấy rằng: nội dung giấy viết tay được lập có nội dung thể
hiện giấy nhận tiền có ghi giấy nợ trước không còn giá trị nữa với nội dung trên thể
hiện đã thực hiện xong số tiền còn lại của giấy biên nhận ngày 21/7/2020. Đối với việc
chưa nhận tiền của nguyên đơn cũng không tài liệu chứng cứ chứng minh cho lời
trình bày của mình là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn đã thanh toán số
tiền nợ 50.000.000 đồng từ việc chuyển nhượng đất theo biên nhận ngày 21/7/2020
cho ông S là có cơ sở, phù hợp với giấy viết tay được lập vào ngày 22/8/2020. Do đó,
không căn cứ buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 50.000.000 đồng. Tòa án
cấp thẩm xác định giá trị chuyển nhượng thực tế của hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nêu trên 900.000.000 đồng đúng và nguyên đơn đã nhận đủ số tiền mua
đất từ bị đơn, nên giấy nợ lập ngày 21/7/2020 không còn giá trị như Tòa án cấp sơ thẩm
nhận định là có căn cứ.
[5.3] Đối với việc N không ký vào giấy viết tay ngày 22/8/2020, nhưng ông
S thừa nhận thời điểm viết giấy nhận tiền mặt N. Như vậy, mặc N không
vào biên bản, nhưng đã biết ông S nhận tiền, nên việc không không làm
6
mất đi hiệu lực của văn bản này. Bởi lẽ, quyền sử dụng đất tài sản chung của vợ
chồng N và ông S, đối với bên còn lại trong giao dịch tông S N đều
quyền yêu cầu trả tiền.
[6] Đối với số tiền 29.000.000 đồng khoản tiền thuế thừa (trong khoản tiền
34.000.000 đồng nộp thuế) nguyên đơn bsung yêu cầu khởi kiện tại phiên toà. Tòa
án cấp thẩm xác định giá trị của hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa đất
900.000.000 đồng. Tổng số tiền b đơn H đã thanh toán cho nguyên đơn
900.000.000 đồng (thể hiện qua giấy viết tay ngày 22/8/2020) nên việc nguyên đơn
khởi kiện bổ sung yêu cầu bà H thanh toán 29.000.000 đồng là không có cơ sở.
[7] Đối với yêu cầu tính lãi chậm trả từ ngày 20/8/2020 đến ngày xét xử. Tòa án
cấp sơ thẩm xác định bị đơn đã thanh toán số tiền nợ cho nguyên đơn nên không phát
sinh nghĩa vụ trả lãi chậm trả. Vì vậy, yêu cầu về tính lãi chậm là không có căn cứ.
Nguyên đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được căn cứ để chứng minh cho
kháng cáo của mình, nên không có cơ sđể chấp nhận n ý kiến đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa phúc thẩm.
[8] Về án phí: do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu
án pdân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, người kháng cáo người cao tuổi đơn xin
miễn án phí nên không phải nộp án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 308 và Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Đặng Hoài S. Giữ nguyên Bản án dân sự
thẩm số 21/2025/DS-ST, ngày 05 tháng 6 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện
Hàm Tân.
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147,
161, 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 155, 274, 275, 280, 372, 373 Bộ luật Dân sự;
- Khoản 3 Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên xử: không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Hoài S
Thị N về việc yêu cầu Đỗ Thị H ông Đỗ Văn H1 thanh toán số tiền
113.752.100 đồng, bao gồm 79.000.000 đồng nợ gốc và 34.752.100 đồng lãi chậm trả
tính đến ngày 05/6/2025.
2. Ông Đặng Hoài S Thị N phải chịu 3.000.000 đồng chi phí tố tụng.
Ông S, bà N đã nộp đủ.
3. Án phí:
7
3.1 Án phí n sự thẩm: ông Đặng Hoài S được miễn nộp án phí dân s
thẩm. Bà Võ Thị N phải chịu 2.843.803 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu
trừ số tiền tạm ứng án p300.000 đồng đã nộp tại biên lai s0010811 ngày 19/6/2024
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân. N phải tiếp tục nộp số tiền
2.543.803 đồng.
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Đặng Hoài S là người cao tuổi và có đơn nên
được miễn án phí phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thanh Thái
Tải về
Bản án số 282/2025/DS-PT Bản án số 282/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 282/2025/DS-PT Bản án số 282/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất