Bản án số 276/2024/DS-PT ngày 16/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 276/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 276/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 276/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 276/2024/DS-PT ngày 16/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 276/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Ngô Ngọc Q và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày 08/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 276/2024/DS-PT
Ngày: 16-9-2024
V/v “Yêu cầu công nhận tính hiệu lực của
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất; yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất (khác) vô hiệu
và tuyên huỷ GCNQSD đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Phạm Văn Hợp
Các Thẩm phán:
Ông Trần Đức Kiên
Ông Phạm Tồn
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Ngọc Gia Linh, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Lê Văn Thành, Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 65/2024/TLPT-DS
ngày 02 tháng 4 năm 2024 về việc: “Yêu cầu công nhận tính hiệu lực của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất (khác) vô hiệu và tuyên huỷ GCNQSD đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày 08 tháng 01 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1717/2024/QĐ-PT ngày 30 tháng 8
năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Ngô Ngọc Q, sinh năm 1949; địa chỉ: Đ, thôn L, xã
V, huyện V, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Hữu Đ, sinh năm
1958; địa chỉ: Số B H, thị trấn H, huyện V, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Võ Vĩnh G, sinh năm 1977 và bà Dương Thị N, sinh năm
1986; địa chỉ: Đ, thôn L, xã V, huyện V, tỉnh Quảng Trị. Ông G có mặt, bà N
vắng mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Võ Sỹ C, Văn phòng
luật sư Võ Sỹ C; địa chỉ: Số A H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Quảng Trị; địa chỉ: thị trấn H, huyện V, tỉnh
Quảng Trị. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q - Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện V, tỉnh
Quảng Trị. Vắng mặt.
3. Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, tỉnh Quảng Trị.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Ngọc Q1 – Phó chủ tịch. Có mặt.
4. Ông Trần Văn X, bà Nguyễn Thị H; địa chỉ: Đ, Nguyễn Vĩnh S, huyện V,
tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Ngô Ngọc Q
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 03 tháng 7 năm 2023; tại các phiên hòa giải ngày
16/8/2023, ngày 17/10/2023; trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa,
nguyên đơn ông Ngô Ngọc Q trình bày:
Ngày 20/8/2004, ông Ngô Ngọc Q và anh Võ Vĩnh G thỏa thuận cùng nhau
góp tiền mua chung thửa đất có diện tích 1.793m
2
, trong đó có 200m
2
đất ở, diện
tích còn lại là đất vườn, đất đã được cấp có thẩm quyền cấp Giấy CNQSDĐ đất vào
ngày 16/4/2003 tại thửa đất số 467, tờ bản đồ địa chính số 22, tọa lạc tại thôn L, xã
V, huyện V. Chủ sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (có 01 ngôi
nhà bằng gỗ 4 vài 3 gian, lợp ngói và ngôi nhà bếp) là của vợ chồng ông Nguyễn
Ngọc N1 và bà Nguyễn Thị T tại thôn L, xã V với số tiền 10.000.000 đồng (mười
triệu đồng). Hai bên đã giao nhận tiền và ngôi nhà, hoa lợi trên đất theo quyền và
nghĩa vụ mỗi bên. Văn bản được xác nhận của Trưởng thôn Lê X1 và Chủ nhiệm
Hợp tác xã L1
Tuy nhiên, đến ngày 17/6/2013, vợ chồng ông Nguyễn Ngọc N1 và bà
Nguyễn Thị T lại lập một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng với thửa
đất trên diện tích cũng như toàn bộ tài sản có trên đất cho vợ chồng anh Võ Văn G1
và chị Dương Thị N với số tiền chuyển nhượng là 15.000.000 đồng. Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lần này có chữ ký của các bên (Bên bán là ông
N1, bà T; bên mua là anh G1 và chị N, hợp đồng đã được chứng thực tại UBND xã
V).
Ngày 16/7/2013, UBND huyện V có Quyết định số 919/QĐ-UB ngày
16/7/2013 về việc cấp Giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất
cho vợ chồng anh G1, chị N sử dụng 1.793m
2
, trong đó có 200m
2
đất ở nông thôn
và 1.593m
2
đất vườn.
Vì vậy, nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết:
- Công nhận tính hiệu lực của bản hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và tài
sản trên đất lập ngày 20/8/2004 giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn
3
Ngọc N1, bà Nguyễn Thị T, bên nhận chuyển nhượng ông Ngô Ngọc Q và anh Võ
Văn G1;
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 17/6/2013
giữa bên chuyển nhượng vợ chồng ông Nguyễn Ngọc N1 và bà Nguyễn Thị T, bên
nhận chuyển nhượng vợ chồng anh Võ Văn G1 và chị Dương Thị N là vô hiệu.
- Yêu cầu hủy Quyết định số 919/QĐ-UB ngày 16/7/2013 và Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BP 133046 do UBND huyện V cấp ngày 16/7/2013 cho anh
Võ Vĩnh G, chị Dương Thị N, số thửa 467/1, tờ bản đồ số 22.
- Yêu cầu anh Võ Vĩnh G, chị Dương Thị N trả lại một phần hai diện tích đất
cho ông Q do đã mua chung của ông N1, bà T tại thửa đất số 467/1, tờ bản đồ số 22,
với diện tích 1.793 m
2
, trong đó có 200 m
2
đất ở nông thôn và 1.593 m
2
đất vườn .
Tại bản trình bày ý kiến; tại các phiên hòa giải ngày 16/8/2023, ngày
17/10/2023 và tại phiên tòa, bị đơn anh Võ Vĩnh G, chị Dương Thị N trình bày:
Theo bản hợp đồng chuyển nhượng QSD đất và tài sản trên đất lập ngày
20/8/2004 bên chuyển nhượng vợ chồng ông Nguyễn Ngọc N1 và bà Nguyễn Thị T,
bên nhận chuyển nhượng ông Ngô Ngọc Q và ông Võ Vĩnh G thì về hình thức và
nội dung của hợp đồng không thực hiện đúng quy định của pháp luật, cụ thể:
Đây chỉ là đơn xin chuyển nhượng đất vườn và nhà ở, trong đơn không có tên
và chữ ký của bà Hoàng Thị L (vợ ông Ngô Ngọc Q mất năm 2020), không có chữ
ký của anh Võ Vĩnh G và cũng không được UBND xã V chứng thực hoặc công
chứng theo quy định của pháp luật.
“Đơn xin chuyển nhượng đất vườn và nhà ở” ghi ngày 20/8/2004 chỉ có chữ
ký của ông Nguyễn Ngọc N1 và ông Ngô Ngọc Q, được Ban cán sự thôn L và Ban
Q2 xác nhận ngày 30/01/2007 (sau gần 3 năm). Trong văn bản này chỉ xác định diện
tích đất chuyển nhượng là 1.593 m
2
, không thể hiện số GCNQSD đất và vị trí thửa
đất (Ông Q chỉ cung cấp bản photo, không có bản gốc nên cũng không có giá trị pháp
lý).
Trên thực tế, diễn biến vụ việc như sau:
Năm 2004, anh G và ông Q có mua chung của ông N1, bà T một thửa đất có
diện tích 3.400 m
2
, trên đất có nhà gỗ, giá bán là 10.000.000 đồng. Theo thỏa thuận
giữa anh Võ Vĩnh G với ông Ngô Ngọc Q, đất thì chia ½ . Lúc đó GCNQSD đất ông
N1, bà T đang thế chấp tại Ngân hàng nên không biết phần đã được cấp sổ đỏ và
phần nằm ngoài sổ có vị trí ở đâu, các bên chỉ thỏa thuận bằng miệng chứ không có
giấy tờ như ông Q cung cấp. Theo thỏa thuận thì anh G nhận phần đất mà trên đất có
dãy nhà bếp (phần đất ở vị trí nằm trong GCNQSD đất đã cấp) và đưa gia đình đến
sinh sống tại đây vào cuối năm 2005. Năm 2006 ông N1 giao sổ đỏ cho anh G. Đến
khoảng năm 2008 – 2009 thì gia đình anh G xây lại phần nhà bếp giáp với nhà bếp
có sẵn.
Đối với ông Q thì ngay trong năm 2004, ông Q tiến hành xây dựng nhà mới
tại phần đất được chia (thửa đất nằm ngoài GCNQSD đất). Theo đó ông Q tháo dỡ
4
toàn bộ nhà gỗ ba gian trên phần đất giao cho anh G và thuê thợ cưa xẻ làm khung
ngoại và cửa để lắp ráp nhà mới xây dựng trên phần đất của ông N1.
Năm 2013, khi chính thức làm GCNQSD đất, phía anh G thì có lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật. Phía ông Q thì
ông Q để cho bà L đứng ra làm GCNQSD đất đứng tên trên sổ, anh G thỏa thuận hỗ
trợ cho bà L 20 triệu để làm GCNQSD đất. Bà L được cấp Sổ đỏ số BP 133271, cấp
ngày 09/9/2013, có diện tích 1.693 m
2
, số thửa 815, tờ bản đồ số 22. Như vậy, cả hai
bên đều được cấp GCNQSD đất trên phần đất được chia.
Cuối năm 2013, bà L chuyển nhượng đất này cho vợ chồng ông Trần Văn X,
bà Nguyễn Thị H. Đến nay, gia đình anh G và vợ chồng ông X, bà H tiếp tục sử dụng
ổn định, không có tranh chấp, hàng cây làm ranh giới giữa hai gia đình vẫn còn
nguyên vẹn.
Vì vậy, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân huyện V: Trong quá trình giải quyết vụ án không có ý kiến
gì.
- Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q - Chi nhánh huyện V: Trong quá trình giải
quyết vụ án không có ý kiến gì.
- Ủy ban nhân dân xã V, huyện V trình bày ý kiến:
Tại phiên tòa xét xử, đại diện Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, tỉnh Quảng Trị
- ông Trần Hữu T1, công chức địa chính xã V, huyện V trình bày: Năm 2004 ông Q
và anh G có mua chung nhà và đất của ông N1, bà T, diện tích 3.400 m
2
là có thật,
hai bên đã thực hiện việc chia một người một nữa đất và chia cả ngôi nhà gỗ và nhà
bếp từ năm 2004. Trên cơ sở đó, năm 2013 UBND huyện V đã tiến hành làm các thủ
tục để cấp GCNQSD đất cho vợ chồng anh G và bà Hoàng Thị L (vợ ông Q).
- Ông Trần Văn X, bà Nguyễn Thị H: Không có ý kiến gì.
Ý kiến của những người làm chứng:
- Ý kiến ông Trần Văn T2 (nguyên Trưởng thôn Lê Xá) trình bày:
Ngày 30/01/2007, ông Ngô Ngọc Q có đưa đến 01 biên bản bàn giao nhà nhờ
ông T2 xác nhận, ông T2 không đọc nội dung, chỉ xác nhận sự việc và đề nghị các
cơ quan chức năng xem xét. Sự việc này ông T2 được biết ông Q và anh G có mua
chung nhà và đất của ông N1, bà T, diện tích 3.400 m
2
, hai bên đã thực hiện việc
chia một người một nửa từ năm 2004, chia cả ngôi nhà gỗ và nhà bếp. Nay do giá
đất tăng nên ông Q nảy lòng tham, quay trở lại khởi kiện anh G là không có căn cứ.
- Ý kiến của ông Nguyễn Văn T3 (nguyên là Chủ nhiệm HTX thôn L, xã V):
“Khi ông Q đưa giấy đến xin xác nhận thì không có mặt ông N1 và ông G. Do tin
tưởng nên đã ký xác nhận. Lúc đó không có mặt bà T (vợ ông N1), không có Giấy
CNQSDĐ của bên bán. Ông T3 và ông T2 cho rằng Giấy xác nhận đó không có giá
trị pháp lý vì không biết có phải là chữ ký của ông N1 hay không?”.
- Ý kiến của chị Trần Thị Đ1 (con dâu bà Hoàng Thị L) trình bày:
5
Năm 2004, gia đình ông Ngô Ngọc Q và anh Võ Vĩnh G cùng mua một mảnh
đất của ông Nguyễn Ngọc N1 khoảng 3.400m
2
, sau đó hai bên chia đất như thực tế
các bên sử dụng. Cuối năm 2013, khi bà Hoàng Thị L làm GCNQSD đất thì anh Võ
Vĩnh G có hỗ trợ cho bà L số tiền 20.000.000 đồng để làm GCNQSD đất, chị Đ1 là
người trực tiếp chứng kiến việc này.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày 08/01/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định:
Căn cứ khoản 3, 9 Điều 26, Điều 37, Điều 39 của BLTTDS, khoản 1 Điều
147, Điều 157, Điều 158 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; căn cứ Điều 127 Luật Đất
đai 2003; Điều 122, Điều 689, Điều 697 Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004; khoản 1, khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án; xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc:
- Yêu cầu công nhận tính hiệu lực của bản hợp đồng chuyển quyền sử dụng
đất và tài sản trên đất lập ngày 20/8/2004 giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông
Nguyễn Ngọc N1, bà Nguyễn Thị T, bên nhận chuyển nhượng ông Ngô Ngọc Q và
anh Võ Văn G1;
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 17/6/2013
giữa bên chuyển nhượng vợ chồng ông Nguyễn Ngọc N1 và bà Nguyễn Thị T, bên
nhận chuyển nhượng vợ chồng anh Võ Văn G1 và chị Dương Thị N là vô hiệu.
- Yêu cầu hủy quyết định số 919/QĐ-UB ngày 16/7/2013 và Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BP 133046 do UBND huyện V cấp ngày 16/7/2013 cho anh
Võ Vĩnh G, chị Dương Thị N, số thửa 467/1, tờ bản đồ số 22.
- Yêu cầu anh Võ Vĩnh G, chị Dương Thị N trả lại một phần hai diện tích đất
cho ông Q do đã mua chung của ông N1, bà T tại thửa đất số 467/1, tờ bản đồ số 22,
với diện tích 1.793 m
2
, trong đó có 200 m
2
đất ở nông thôn và 1.593 m
2
đất vườn.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, nghĩa vụ
thi hành án và quyền kháng cáo.
Ngày 22/01/2024, ông Ngô Ngọc Q có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa người kháng cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần thủ
tục tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm bảo đảm đúng quy định pháp luật, đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Ngô Ngọc Q và
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
6
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Ngô Ngọc Q trong thời hạn, đúng quy
định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo:
[2.1] Nguyên đơn khởi kiện và cung cấp “Đơn xin chuyển nhượng đất vườn
và nhà ở” đề ngày 20/8/2004 và cho rằng đây là một dạng của “Hợp đồng chuyển
nhượng đất và tài sản gắn liền với đất” nhưng nguyên đơn chỉ cung cấp được bản
photo, không có tài liệu gốc (BL 08) nên không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, để đánh
giá toàn diện với các tài liệu, chứng cứ khác, cần thiết xem xét về hình thức, nội dung
của văn bản này. Đơn xin chuyển nhượng đất vườn và nhà ở ngày 20/8/2004 được
viết để gửi UBND xã V, ban địa chính xã V, các cấp chính quyền xem xét, giải quyết
nhưng không có sự xác nhận nào của các cấp chính quyền địa phương, cũng không
được công chứng, chứng thực nên đã vi phạm về mặt hình thức theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai 2003. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
127 Luật đất đai 2003: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng
nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công
chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
đất”. Do đó, Đơn xin chuyển nhượng đất vườn và nhà ở ngày 20/8/2004 không tuân
thủ điều kiện về hình thức được quy định tại Điều 689 Bộ luật dân sự, không đáp
ứng điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ
luật dân sự năm 2005.
Trong đơn có nội dung “Tôi tên là Nguyễn Ngọc N1 ... nay gia đình chúng tôi
viết đơn này trình lên các cấp chính quyền cùng các ban ngành có liên quan xem xét
giúp đỡ và giải quyết cho gia đình chúng tôi với lý do như sau: Gia đình chúng tôi
có bán cho hai ông Ngô Ngọc Q ... và anh Võ Vĩnh G ... một ngôi nhà gỗ 4 vài và
nhà bếp 3 vài cùng khu chuồng trại chăn nuôi có diện tích là 1.593m
2
, trong sổ đỏ
vẫn là 1.593m
2
. Sổ đỏ có sổ là: ... sổ đỏ cấp ngày ...”. Phía dưới đơn có ghi đại diện
bên gia đình chuyển nhượng là ông Nguyễn Ngọc N1 và đại diện bên mua là ông
Ngô Ngọc Q. Đơn được lập ngày 20/8/2004 nhưng được Trưởng thôn Lê X1 và Ban
Q2 xác nhận với tư cách “người làm chứng” ngày 30/01/2007. Như vậy, trong nội
dung đơn này thể hiện diện tích đất không phù hợp với thực tế, không thể hiện
GCNQSD đất số mấy, cấp ngày nào, vị trí thửa đất ở đâu ...
Tại “Giấy giao tiền mua nhà + đất ở” lập ngày 20/8/2004 do ông Q cung cấp,
có chữ ký của ông Q và ông N1 nhưng không có người làm chứng, không có xác
nhận của chính quyền địa phương. Tại “Biên bản bàn giao” lập ngày 15/01/2006 về
việc giao tài sản là ngôi nhà lợp ngói, đất vườn diện tích 1.593m
2
và toàn bộ cây cối
trong vườn có ghi hai bên đã bàn giao đầy đủ, có chữ ký của ông N1 và ông Q nhưng
đến 30/01/2007 ông Q mới đưa đến cho ông T3 (HTX Lê X1) và ông T2 (trưởng
thôn) ký xác nhận. Do đó, hai tài liệu này cũng không có giá trị pháp lý đầy đủ, trong
nội dung các biên bản thể hiện diện tích đất không phù hợp với thực tế, không thể
hiện GCNQSD đất số mấy, cấp ngày nào, vị trí thửa đất ở đâu ... Hai người làm
chứng ký xác nhận thì phản bác toàn bộ ý kiến trình bày của nguyên đơn, ông T3 và
ông T2 đều cho rằng ông Q có sự lừa dối, không trung thực và phủ nhận sự xác nhận
7
của họ. Điều này thể hiện tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/9/2023 đối với ông
Nguyễn Văn T3 và ông Trần Văn T2 là người đã xác nhận vào đơn xin chuyển
nhượng trên, thì hai ông có ý kiến: “Khi ông Q đưa giấy đến xin xác nhận thì không
có mặt ông N1 và ông G. Do tin tưởng nên đã ký xác nhận. Lúc đó không có mặt bà
T (vợ ông N1), không có Giấy CNQSDĐ của bên bán. Ông T3 và ông T2 cho rằng
Giấy xác nhận đó không có giá trị pháp lý vì không biết có phải là chữ ký của ông
N1 hay không?”.
Tại Giấy xác nhận của bà Nguyễn Thị P (là người trước đây bán đất và nhà
cho ông N1, bà T), bà P có ý kiến: Năm 1982, vợ chồng bà P có làm nhà trên thửa
đất có diện tích khoảng 3.400m
2
, đến năm 1996, gia đình bà P đã chuyển nhượng
toàn bộ thửa đất bao gồm nhà ở và công trình cho ông N1, bà T và bà P được biết
ông N1 đã bán lại cho hai gia đình ông G và ông Q toàn bộ 3400 m
2
đất này.
Tại Giấy xác nhận của bà Nguyễn Thị T (vợ ông N1) thì bà T có ý kiến: “vợ
chồng bà có thửa đất khoảng 3.400m
2
, trong đó đã được UBND huyện V cấp Giấy
CNQSDĐ với diện tích 1.793m
2
và khoảng 1.700m
2
đất khai hoang chưa được cấp
Giấy CNQSDĐ. Năm 2004, bà T đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích gắn liền với
nhà ở và công trình phụ khác cho ông Võ Vĩnh G và ông Ngô Ngọc Q. Bà T đã nhận
trực tiếp từ ông G 5.000.000 đồng và ông Q 5.000.000 đồng có giấy tờ nhận tiền,
bên bán là ông N1 ký, bên mua và trả tiền do ông G và ông Q ký. Năm 2013, vợ
chồng bà T có ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông G và bà N để làm cơ sở cho ông
G được cấp sổ đỏ”.
Tại Giấy xác nhận của chị Trần Thị Đ1 (con dâu ông Q), chị Đ1 có ý kiến:
“Năm 2005 khi về làm dâu có ở chung với bố mẹ chồng làm năm 2004 tại ngôi nhà
trên mảnh đất mà trước đây bố chồng tôi và ông G cùng mua. Cả hai người đã làm
thủ tục mua bán và chia đất như hai ngôi nhà hiện tại là nhà ông G và nhà mẹ là bà
L. Chị Đ1 cho rằng nếu không có đất mua của ông N1 thì năm 2004 đất đâu mà ông
Q, bà L làm nhà ở đó. Năm 2014 bà L làm sổ đỏ đối với phần đất được chia do mua
chung và ông G có hỗ trợ cho bà L 20.000.000 đồng để làm thủ tục giấy tờ”.
Ngày 02/7/2013, bà Hoàng Thị L có làm Đơn đề nghị cấp Giấy CNQSDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 815, tờ bản đồ số
22 với diện tích 1.693m
2
, được UBND xã V xác nhận nguồn gốc sử dụng đất ổn định
và xây dựng nhà ở từ tháng 12/2003 (nguồn gốc là do mua từ ông N1 và bà T; ông
N1, bà T đã làm nhà và sử dụng đất từ trước 2004). Đến ngày 09/9/2013, bà Hoàng
Thị L đã được UBND huyện V cấp Giấy CNQSDĐ đối với thửa đất đã đăng ký, kê
khai.
Như vậy, căn cứ vào quá trình sử dụng đất, các lời khai của các đương sự cũng
như xác nhận của người làm chứng và các tài liệu có liên quan thì việc ông Q và anh
G có mua chung nhà và đất ở của ông Nguyễn Ngọc N1 tại thôn L với diện tích
3.400m
2
là có thật. Tuy nhiên, tại thời điểm mua thửa đất trên thì một nửa thửa đất
có Giấy CNQSDĐ và phần có Giấy CNQSDĐ này do ông G sử dụng, còn diện tích
chưa được cấp Giấy CNQSDĐ do ông Q cùng bà L sử dụng và đã được bên bán
(ông N1, bà T) xây dựng nhà ở từ năm 2003. Đến năm 2013, bà L đã chuyển nhượng
thửa đất này cho ông Trần Văn X và bà Nguyễn Thị H. Quá trình sử dụng đất từ
8
2013 cho đến nay của hai hộ gia đình ông X và ông G không có tranh chấp và ranh
giới giữa hai gia đình là hàng rào đã được hai gia đình xác định từ khi sử dụng đất.
Do đó, việc ông Q yêu cầu công nhận tính hiệu lực của “Đơn xin chuyển
nhượng đất vườn và nhà ở” lập ngày 20/8/2004 (mà nguyên đơn cho rằng đây là một
dạng của hợp đồng chuyển nhượng đất và tài sản gắn liền với đất) giữa bên chuyển
nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Ngọc N1, bà Nguyễn Thị T, bên nhận chuyển
nhượng ông Ngô Ngọc Q và ông Võ Vĩnh G có nội dung chuyển nhượng ngôi nhà
tài sản trên diện tích đất 1.593m
2
là không có cơ sở.
[2.2] Ngày 17/6/2013, ông Nguyễn Ngọc N1 và bà Nguyễn Thị T đã lập Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 467/1, tờ bản đồ số 22 với
diện tích 1.793m
2
cho ông Võ Vĩnh G và bà Dương Thị N. Hợp đồng được lập thành
văn bản có chữ ký của các bên và hợp đồng đã được UBND xã V chứng thực hợp
pháp. Do đó, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/06/2013 đáp ứng
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại khoản 2 Điều 122, Điều 689
Bộ luật dân sự năm 2005. Ông Q yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển quyền sử dụng
đất này vô hiệu là không có cơ sở để chấp nhận.
[2.3] Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 919/QĐ-UBND về việc cấp Giấy
CNQSDĐ và hủy Giấy CNQSDĐ số BP 133046 do UBND huyện V cấp ngày
16/7/2013 cho ông Võ Vĩnh G, bà Dương Thị N, HĐXX thấy rằng:
Trên cơ sở Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Ngọc N1, bà Nguyễn Thị T và ông Võ Vĩnh G, bà Dương Thị N đúng theo quy định
của pháp luật nên ngày 16/7/2013, UBND huyện V đã ban hành Quyết định số
919/QĐ-UBND về việc cấp Giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất cho ông Võ Vĩnh G và bà Dương Thị N. Việc ban hành Quyết định số
919/QĐ-UBND về việc cấp Giấy CNQSDĐ được thực hiện theo đúng quy định tại
Điều 135 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, do đó yêu cầu của ông Q là
không có cơ sở.
[3] Do “Đơn xin chuyển nhượng đất vườn và nhà ở” lập ngày 20/8/2004
(nguyên đơn cho rằng đây là một dạng của “Hợp đồng chuyển nhượng đất và tài sản
gắn liền với đất”) giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Ngọc N1, bà
Nguyễn Thị T, bên nhận chuyển nhượng ông Ngô Ngọc Q và ông Võ Văn G1 không
có giá trị pháp lý và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 17/6/2013
giữa bên chuyển nhượng vợ chồng ông Nguyễn Ngọc N1 và bà Nguyễn Thị T, bên
nhận chuyển nhượng vợ chồng ông Võ Văn G1 và bà Dương Thị N là có hiệu lực;
đồng thời theo hồ sơ vụ án thì sau khi mua chung nhà và 3.400m
2
đất của ông N1,
bà T thì ông Q, bà L đã được chia nhà gỗ và tiến hành làm nhà trên phần đất được
chia, đã làm GCNQSD đất và được ông G1 hỗ trợ 20.000.000 đồng để làm “sổ đỏ”,
nên ông Q yêu cầu phân chia ½ điện tích đất đối với phần đất đã chia cho ông G1 là
không có cơ sở chấp nhận.
Từ những nhận định trên, Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là có căn cứ và đúng pháp luật.
9
Tại phiên toà phúc thẩm không có tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi nội
dung vụ án nên không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm
là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn ông Ngô Ngọc
Q phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Ngô Ngọc Q và giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày 08/01/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Trị
2. Về án phí: Nguyên đơn ông Ngô Ngọc Q phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự phúc thẩm, được trừ 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000052
ngày 19/02/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Trị;
- VKSND tỉnh Quảng Trị;
- Cục THADS tỉnh Quảng Trị;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Phạm Văn Hợp
Tải về
Bản án số 276/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 276/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm